Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN Một số biện pháp huy động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số để đảm bảo chuyên cần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.67 KB, 12 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP HUY ĐỘNG HỌC SINH RA LỚP VÀ DUY
TRÌ SĨ SỐ ĐỂ ĐẢM BẢO CHUYÊN CẦN"
1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục ở miền núi hải đảo, vùng sâu, vùng xa gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là việc
duy trì sĩ số. Muốn công tác giáo dục đạt hiệu quả thì trước hết phải chú ý đến việc huy
động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số để đảm bảo tỷ lệ chuyên cần của học sinh vì học sinh
có ra lớp đều thì việc tiếp thu bài mới tốt, mới hệ thống được kiến thức liền mạch. Vì vậy
đây là vấn đề được đặt lên hàng đầu ở các trường miền núi hải đảo, vùng sâu, vùng xa
vùng cao, vùng có điều kiện phát triển kinh tế khó khăn…
Do vậy, thực hiện cuộc vận động toàn dân đưa trẻ em đến trường và duy trì sĩ số học sinh
của nhà trường là công việc hết sức quan trọng trong công tác “ Nâng cao chất lượng
giáo dục” trong giai đoạn hiện nay.
Biện pháp huy động học sinh ra lớp là vấn đề vốn mang tính thời sự ở nhiều nơi. Tuy
nhiên hầu như chưa có những tài liệu đề cập riêng biệt về vấn đề này. Trái lại ở mỗi vùng
miền có những đặc điểm, đặc thù khác nhau; đòi hỏi phải có những biện pháp khác nhau
phù hợp với điều kiện ở từng địa phương.
Trong những năm qua, Trường Tiểu học Ba Cụm Nam đã nỗ lực thực hiện công tác
huy động học sinh ra học các lớp chính quy cũng như các lớp phổ cập, đồng thời áp dụng
nhiều biện pháp để duy trì sĩ số học sinh. Với mục tiêu sẽ xây dựng trường tiểu học Ba
Cụm Nam đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi năm 2013 và trường đạt
chuẩn Quốc gia giai đoạn 2015-2020.
Tuy nhiên, Ba Cụm Nam là một xã vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn, trình độ
dân trí thấp. Các điều kiện để phát triển giáo dục còn thấp kém và lạc hậu. Số học sinh
hay nghỉ học có nguy cơ bỏ học vẫn còn cao. Vậy nên việc nghiên cứu các biện pháp huy
động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số để đảm bảo chuyên cần là một yêu cầu cấp bách.
Nhằm góp thêm ý kiến về vấn đề này, tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến kinh
nghiệm: “Một số biện pháp huy động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số để đảm bảo
chuyên cần” mà trong bốn năm học vừa qua tôi đã thực hiện tại trường tiểu học Ba Cụm


Nam – Khánh Sơn – Khánh Hòa
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là ở trường tiểu học Ba Cụm Nam – Khánh Sơn –
Khánh Hòa trong các năm học 2008-2009; 2009-2010; 2010-2011 và 2011-2012.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Thấm nhuần
lời dạy của Bác Hồ kính yêu “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Trong nhiều năm qua Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn dành sự quan tâm đặc
2
biệt đến trẻ em, coi đây là sự nghiệp cao quý, là trách nhiệm to lớn cho tương lai của đất
nước.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI, một thế kỷ luôn có
những biến đổi to lớn về khoa học kỹ thuật và công nghệ, Đảng ta xác định rõ: “ Phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người” ( Nghị quyết đại hội
Đảng lần thứ IX, tháng 4 – 2001). Và “ Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho con người, ở mọi lứa tuổi,
mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong sự nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, khuyến khích, huy động và
tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục” ( Các quan điểm chỉ đạo phát
triển Giáo dục – chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010).
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, của toàn dân, giáo dục nước ta đã có
những tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên để cho nền giáo dục nước nhà có những bước nhảy vọt cả
về quy mô và chất lượng, các nhà quản lý giáo dục, các thầy cô giáo cần đầu tư nhiều hơn
nữa để từng bước nâng cao chất lượng hiệu quả giảng dạy. Muốn làm được điều này một
trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu đó là việc huy động học sinh ra lớp và duy
trì sĩ số để đảm bảo chuyên cần.
Thực tế công tác quản lý hoạt động dạy giáo dục cũng như công tác huy động học sinh ra
lớp nhiều năm qua tại trường Tiểu học Ba cụm Nam còn nhiều hạn chế. Với cương vị là
một Hiệu trưởng - người quản lý tất cả các hoạt động giáo dục của nhà trường tôi thấy
cần phải có sự đầu tư và đổi mới công tác quản lý, cũng như việc đưa ra các biện pháp

huy động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số để đảm bảo chuyên cần của nhà trường để đem
lại hiệu quả giáo dục cao hơn.
III. HIỆN TRẠNG:
Trường tiểu học Ba Cụm Nam đóng trên địa bàn xã Ba Cụm Nam – Khánh Sơn. Trước
năm 1992 là một điểm trường thuộc trường cấp 1+2 Ba Cụm. Năm 1992 Trường Tiểu
học Ba Cụm Nam được thành lập. Điểm chính của trường nằm ở thôn Ka Tơ. Những năm
đầu thành lập trường chỉ có 5 lớp học, cơ sở hạ tầng thấp kém, thiếu thốn. Lực lượng giáo
viên chủ yếu là người sở tại (Người dân tộc Raclay). Năm 2001 theo quy hoạch phát triển
của địa phương trường chuyển về thôn Suối Me và được xây dựng lại với 10 phòng học
cấp 4, 01 phòng làm việc cho Ban giám hiệu. Nhìn chung cơ sở hạ tầng còn thấp kém,
trang thiết bị thiếu thốn cũ kỹ lạc hậu. Từ năm học 2003 – 2004 đội ngũ cán bộ giáo viên
của nhà trường được tăng cường và thay đổi nhiều. Tính đến năm học 2011 – 2012 có 12
3
giáo viên trẻ người kinh ở địa phương khác đạt trình độ cao đẳng sư phạm đào tạo hệ
chính quy về trường.
Là một trường đóng trên địa bàn là một xã vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế
đặc biệt khó khăn. Dân số của xã có trên 95% là người dân tộc thiểu số nên phần lớn học
sinh của trường là con em người dân tộc thiểu số. Điều kiện sản xuất canh tác của bà con
nhân dân phụ thuộc hoàn toàn vào nương rẫy, quanh năm thiếu ăn. Trình độ dân trí thấp.
Cha mẹ ít quan tâm đến việc học tập của con em mình, có nhiều em phải phụ giúp cha mẹ
việc nương rẫy, việc nhà. Vì thế nhà trường rất khó khăn trong công tác vận động học
sinh ra lớp và duy trì sĩ số để đảm bảo chuyên cần. Những năm học trước đây học sinh bỏ
học, học sinh hay nghỉ học chiếm tỷ lệ cao, cụ thể:
Stt Năm
học
Số HS
đầu
năm
Số HS
cuối

năm
Số HS bỏ
học/ Tỷ lệ
Số HS hay
nghỉ học/Tỷ
lệ
Ghi chú
01 2005-
2006
161 HS 158 HS 3HS =1,9% 16 HS=9,9%
02 2006-
2007
185 HS 182 HS 3HS=1,65% 18 HS=9,7%
03 2007-
2008
168 HS 163 HS 3HS=
1,78%
16 HS=9,8% 02 HS
chuyển
trường
IV. NGUYÊN NHÂN:
1. Thực tế cho thấy những nguyên nhân học sinh bỏ học và hay nghỉ học chủ yếu là:
2. Trình độ dân trí thấp, cha mẹ chưa nhận thức được tầm quan trong của việc học của
con cái. Hầu hết cha mẹ học sinh chưa thực sự quan tâm việc học hành của con cái.
3. Điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, không đủ cái ăn cái mặc cho con đi học.
4. Ý thức, động cơ, thái độ học tập của học sinh còn thấp, ham chơi, không thích học tập.
5. Một số em do học yếu, mất căn bản, xấu hổ, mặc cảm. Vào lớp hay bị thầy cô la rầy,
các bạn chê cười, đối xử thiếu thân thiện nên nghỉ học, bỏ học.
4
6. Giáo viên chủ nhiệm chưa thực hiện hết vai trò trách nhiệm, thiếu động viên nhắc nhở

học sinh, chưa làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Một số giáo viên chưa gần gũi, giúp đỡ
học sinh thậm chí còn có thái độ thiếu thiện cảm với học sinh làm cho nhiều em có mặc
cảm, chán học.
7. Trong giảng dạy, một số giáo viên còn quá khắt khe với học sinh, giảng dạy theo lối
mòn, khó hiểu, hay gắt gỏng làm cho học sinh cảm thấy khó khăn trong học tập sinh ra
nản mà bỏ học.
V. GIẢI PHÁP:
Tìm hiểu được nguyên nhân tôi đề ra những nhóm biện pháp thực hiện như sau:
5.1. Thành lập Ban vận động học sinh ra lớp:
Đầu năm học nhà trường ra quyết định thành lập Ban vận động học sinh ra lớp. Hiệu
trưởng vừa là Trưởng ban chỉ đạo, vừa là người trực tiếp thực hiện ở tuyến cơ sở. Do đó
Hiệu trưởng có vai trò hết sức quan trọng, phải ý thức đầy đủ ý nghĩa của vấn đề huy
động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số để đảm bảo chuyên cần là hai công việc phải tiến
hành song song có quan hệ nhân quả. Muốn làm được công tác này hiệu trưởng phải tập
trung vào các khâu sau:
Đẩy mạnh hiệu quả công tác quản lý chỉ đạo, tăng cường ý thức trách nhiệm của đội ngũ
cán bộ, giáo viên và nhân viên trong công tác vận động học sinh ra lớp. Ban giám hiệu
nhà trường, các thầy cô giáo và các tổ chức đoàn thể xác định việc huy động học sinh ra
lớp và đảm bảo sĩ số học sinh là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là công việc thường
xuyên, nó vừa ảnh hưởng trực tiếp và toàn diện đến các hoạt động của nhà trường, nó vừa
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giáo dục. Từ đó nhà trường đã đưa ra các biện pháp
quyết liệt, thiết thực, huy động toàn trường tích cực tham gia, cụ thể:
+ Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho cán bộ giáo viên,
xây dựng tập thể đoàn kết, tâm quyết với nghề nghiệp, thương yêu tôn trọng học sinh, đối
xử công bằng với học sinh để tránh đi những mặc cảm ngăn cách giữa thầy với trò; xây
dựng mối quan hệ thân thiện tốt đẹp tình thầy - trò. Bản thân thầy, cô giáo phải luôn luôn
tự rèn luyện để hoàn thiện mình; phải luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
+ Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các cuộc vận động: Cuộc vận động “Hai không với 4
nội dung” ; “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; “Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực”; “Mỗi thầy, cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức tự

học và sáng tạo”, đẩy mạnh dân chủ trong trường học, xây dựng ý thức làm chủ, tự giác,
tinh thần trách nhiệm.
5
+ Quản lý tốt việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng: “Phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo tiếp thu kiến thức của học sinh; khuyến khích sự chuyên cần, ý
thức vươn lên, khuyến khích học sinh tham gia đóng góp ý kiến, cùng các thầy cô giáo
viên thực hiện các tiết học có hiệu quả hơn. Từ đó giúp học sinh “Hiểu bài sâu, nhớ bài
lâu”, ham thích học tập, có động cơ, thái độ học tập đúng.
+ Hàng tháng giáo viên chủ nhiệm, giáo viên trực tuần phối hợp với Tổng phụ trách Đội
tổng hợp những học sinh hay nghỉ học, hay nghỉ sinh hoạt đội, sinh hoạt sao và dự báo
những trường hợp có nguy cơ bỏ học, những thời điểm học sinh hay nghỉ học báo cáo
trước hội đồng nhà trường để bàn đưa ra giải pháp cụ thể cho từng trường hợp.
+ Nhà trường thường xuyên tổ chức chiến dịch đi vận động học sinh ra lớp theo hình
thức đi tập thể, nghĩa là toàn thể hội đồng nhà trường cùng đi đến từng nhà học sinh hay
nghỉ học, những học sinh có nguy co bỏ học để trực tiếp gặp cha mẹ báo cáo, trao đổi
tình học tập của con em họ và tuyên truyền, vận động cha mẹ quan tâm đến việc học của
con em mình từ đó vận động học sinh ra lớp.
+ Chỉ đạo Đội TNTP và Ban chấp hành công đoàn thường xuyên tổ chức các hoạt động
tập thể vui tươi, lành mạnh, các cuộc thi bổ ích, lý thú .v.v. Từ các hoạt động trên tạo
hứng thú cho các em thích được đến trường, thích đi học và làm cho học sinh mến bạn
hơn, kính yêu thầy cô, yêu trường, yêu lớp.v.v. từ đó ý nghĩ nghỉ học giữa chừng của một
số học sinh không nảy sinh, góp phần giảm tỷ lệ học sinh bỏ học xuống mức thấp nhất.
+ Tăng cường công tác phụ đạo học sinh yếu kém để giảm nguy cơ bỏ học do chán nản,
khuyến khích sự cố gắng vươn lên, tạo điều kiện cho học sinh yếu kém có cơ hội được
học tập, rèn luyện lại.
+ Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục để có kinh phí hỗ trợ, động viên học sinh nghèo,
khó khăn về vật chất và tinh thần bằng các hình thức: quần áo đồng phục học sinh; cấp vở
viết; bút, đồ dùng học tập.v.v. Đầu năm học nhà trường phối hợp với UBND xã xin các
đơn vị đỡ đầu của tỉnh một số đồ dùng cho học sinh như quần áo đồng phục học sinh, vở
viết, bút, bảng con, cặp sách để phát cho học sinh như một món quà khuyến khích động

viên các em ngay từ đầu năm học mới. Mặt khác học sinh tới lớp giáo viên không để học
sinh ngồi chơi trong giờ học vì thiếu đồ dùng học tập như bút, bảng con, vở.v.v. Để khắc
phục tình trạng này nhà trường luôn dự trữ một số lượng nhất định các đồ dùng bảng con,
bút, vở.v.v. trong phòng thiết bị và giao cho giáo viên thiết bị quản lý để khi giáo viên
nào có học sinh lớp mình thiếu đồ dùng gì thì liên hệ với giáo viên thiết bị để được hỗ
trợ. Nguồn kinh phí này nhà trường lấy từ nguồn xã hội hóa giáo dục của các đơn vị tài
trợ.
5.2. Làm tốt công tác tham mưu, phối hợp:
6
Tham mưu, phối hợp là một công tác quan trọng trong hoạt động quản lí trường học.
Trong những năm học vừa qua nhà trường đã tham mưu kịp thời cho UBND xã về kế
hoạch phát triển giáo dục hàng năm và từng giai đoạn. Đây là một nhiệm vụ góp phần
đắc lực cho việc phát triển bền vững cả về số lượng và chất lượng, không chỉ nhằm phối
hợp huy động học sinh ra lớp mà quan trọng hơn là phải phối hợp để đảm bảo thực hiện
thắng lợi công tác phổ cập giáo dục và xây dựng xã hội học tập trên địa bàn xã.
+ Hàng tháng báo cáo đầy đủ, kịp thời tình hình học sinh ra lớp của nhà trường để lãnh
đạo địa phương ó trách nhiệm quán triệt, triển khai cho cán bộ thôn, bản, các đoàn thể để
họ thấy rõ ý nghĩa, tác dụng, mục tiêu, yêu cầu của việc thực hiện cuộc vận động học sinh
đến trường và duy trì sĩ số học sinh là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Coi đây là công
việc chung, không chỉ là công việc của nhà trường mà còn là công việc của các lực lượng
địa phương; là trách nhiệm của chính quyền địa phương.
+ Ban giám hiệu nhà trường phối hợp chặt chẽ với các trưởng thôn để tham dự các cuộc
họp, các buổi triển khai các chương trình phát triển kinh tế-xã hội ở từng thôn để trực tiếp
báo cáo tình hình hoạt động của nhà trường; tình hình học tập ở trường, ở nhà của học
sinh; tình hình học sinh ra lớp.v.v, qua đây tuyên truyền và vận động bà con nhân dân
quan tâm đúng mực đến việc học của con em cũng như động viên con em đến trường.
Tham mưu, phối hợp tốt là một giải pháp quan trọng góp phần đảm bảo các điều kiện
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phổ cập của địa phương.
5.3. Tổ chức tốt các buổi họp phụ huynh:
Trong bốn năm học gần đây nhà trường đã tổ chức tốt các buổi họp phụ huynh học sinh

định kỳ 3 lần/ năm học: lần 1 họp vào đầu tháng 9; lần 2 họp vào tháng 1 (sau khi kiểm
tra hết HKI); lần 3 họp vào cuối tháng 5 (sau khi kiểm tra hết HKII). Phải chọn ngày nào,
vào buổi nào để mời cha mẹ học sinh đến dự họp đông đủ nhất. Ngoài dùng hình thức là
viết giấy mời họp thì nhà trường đã phối hợp với đài truyền thanh xã để thông báo cho
cha mẹ học sinh biết ngày, giờ đến họp. Khi mời được đông đủ cha mẹ học sinh đến dự
họp hiệu trưởng trự tiếp báo tình hình học tập của học sinh và các hoạt động của nhà
trường trong năm học, đặc biệt nhấn mạnh vào tình hình học sinh ra lớp và điều kiện học
tập của học (Đồ dùng học tập của cá nhân học sinh) để cha mẹ biết và quan tâm cùng
phối hợp với nhà trường để thực hiện tốt công tác này.
VI. KẾT QUẢ THỰC HIỆN:
Qua nhiều biện pháp tác động đồng bộ khác nhau, đặc biệt là sự cố gắng của đội ngũ
cán bộ, giáo viên, các đoàn thể trong trường học; sự đồng tình, hỗ trợ của phụ huynh học
sinh và sự phối kết hợp của cấp ủy chính quyền địa phương, đặc biệt là đội ngũ thôn
trưởng đã tạo điều kiện cho nhà trường có điều kiện để tiếp xúc với bà con nhân dân trong
7
các buổi họp thôn. Từ đó việc huy động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số đảm bảo chuyên
cần trong ba năm học qua đạt tốt. Cụ thể như sau:
Stt Năm
học
Số HS
đầu
năm
Số HS
cuối
năm
Số HS bỏ
học/ Tỷ lệ
Số HS hay
nghỉ học/Tỷ
lệ

Ghi chú
01 2008-
2009
161 HS 159 HS 2HS
=1,24%
13
HS=16,1%
02 2009-
2010
149 HS 149 HS 0 HS=0% 4 HS=2,68%
03 2010-
2011
160 HS 158 HS 0 HS= 0% 4 HS=2,5% 01 HS
chuyển
trường
01 HS chết
đuối
04 2011-
2012
156 HS 155HS 1
HS=0,64%
3 HS =1,9% 01 HS lớp
1 theo cha
mẹ lên
nương rẫy
Như vậy tỷ lệ duy trì sĩ số học sinh của nhà trường trong ba năm học gần đây đạt từ 97%,
trở lên, tỷ lệ bỏ học sinh bỏ học luôn dưới 1%. Khi đã huy động được học sinh ra lớp và
đảm bảo chuyên cần thì đây là một điều kiện tốt nhất để nhà trường nâng cao chất lượng
giáo dục trong những năm gần đây, cụ thể:
* Xếp loại học lực cuối năm

Stt Năm
học
Học lực Ghi
chú
Giỏi Khá TB Yếu
01 2007-
2008
5
HS=3,1%
19 HS
=11,7%
68 HS
=41,7%
71 HS
=43,5%
8
02 2008-
2009
9 HS
=5,7%
28 HS
=17,6%
83 HS
=52,2%
39 HS
=24,5%
03 2009-
2010
10 HS
=6,7%

49 HS
=32,9%
64 HS
=42,9%
26 HS
=17,5%
04 2010-
2011
11HS
=6,96%
55 HS
=34,81%
82 HS
=51,9%
10 HS
=6,33%
* Xếp loại hạnh kiểm cuối năm
Stt Năm học Tổng số
HS
Hạnh kiểm
Ghi chú
THĐĐ THCĐĐ
01 2007-2008 163 HS 158
HS=96,9%
5 HS =3,1%
02 2008-2009 159 HS 155HS
=97,5%
4HS =2,5 %
03 2009-2010 149 HS 149 HS
=100%

0 HS = 0%
04 2010-2011 158 HS 158 HS
=100%
0 HS = 0%
VII. KẾT LUẬN:
7.1. Kết quả đạt được:
Đảng ta nhận định: “Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển xã hội”, đó
là một nhận thức hoàn toàn khoa học và biện chứng. Trong đó, trẻ em là mầm non, là
nguồn lực của đất nước. Mầm non có được chăm sóc tốt thì mới có thể phát triển thành
hoa thơm trái ngọt được. Bác Hồ từng dạy “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu hay không ? Chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Điều này cho
thấy việc phát triển sự nghiệp giáo dục là một trong những ưu tiên hàng đầu hiện nay của
9
đất nước. Để sự nghiệp giáo dục và đào tạo thành công thì công việc đầu tiên là phải huy
động học sinh ra lớp thành công.
Với những giải pháp đã thực hiện trong ba năm vừa qua, trường Tiểu học Ba Cụm Nam
nhận thấy đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Tỷ lệ học sinh chuyên cần tăng lên và
luôn đạt trên 97%, số học sinh bỏ học giảm hẳn so với năm học trước đây (tỷ lệ học sinh
bỏ học đã xuống dưới 1%). Chất lượng giáo dục của nhà trường được nâng lên rõ rệt: Tỷ
lệ học sinh khá giỏi tăng cao theo từng năm, tỷ lệ học sinh giảm hẳn từ trên 43% năm
trong năm học 2007-2008 xuống dưới 7% trong năm học 2010-2011. Các chỉ tiêu phấn
đấu đều đạt và vượt mức ban đầu nhà trường đề ra.
Năm học 2011-2012 nhà trường đã và đang tiếp tục thực hiện tốt các biện pháp huy động
học sinh ra lớp và đảm bảo chuyên cần.
Qua quá trình thực hiện công tác trên tôi nhận thấy: Phải có sự đồng tâm nhất trí cao,
phát huy trách nhiệm của đội ngũ CB, GV, NV, phụ huynh và đặc biệt là phát huy được
vai trò của xã hội hóa giáo dục. Chủ động, sáng tạo, đề ra những biện pháp và cách thức
tổ chức thực hiện phù hợp điều kiện của trường, của địa phương để làm tốt công tác huy
động học sinh ra lớp, chống học sinh bỏ học giữa chừng và duy trì sĩ số học sinh, đảm

bảo chuyên cần. Đây là một điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng một cách bền
vững.
7.2. Những bài học kinh nghiệm:
1. Huy động học sinh ra lớp là hoạt động mang tính xã hội hóa rõ rệt, do đó phải có sự
chỉ đạo thống nhất, xuyên suốt, sự phối hợp hài hòa giữa các cấp, các ngành, mà chủ
động là Hiệu trưởng trường học. Trong mỗi thời điểm, mỗi điều kiện, mỗi hoàn cảnh
khác nhau nhà trường phải luôn kiên định, chủ động và sáng tạo trong công tác vận động
học sinh ra lớp kết hợp với các biện pháp duy trì sĩ số để đảm bảo chuyên cần. Hai mặt
công tác trên phải luôn gắn bó và được tiến hành đồng thời. Có thế mới đủ điều kiện để
đảm bảo nâng cao chất lượng ở mỗi trường học.
2. Muốn khắc phục tình trạng học sinh bỏ học phải theo dõi và nắm vững sĩ số học sinh
hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng đồng thời có biện pháp hữu hiệu để khắc phục, phòng
ngừa. Phải tìm hiểu nguyên nhân đối tượng bỏ học, học sinh hay nghỉ học, tìm biện pháp
khắc phục nguyên nhân đó. Xử lý từng trường hợp cụ thể, không hò hét chung chung.
3. Giáo viên phải có tình yêu thương và tận tình giúp đỡ các em. Luôn phải kiên trì, tận
tâm tận lực và phải tâm niệm rằng: “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Một điều quan trọng
nhất là sự nhiệt tình giảng dạy của các thầy cô giáo. Những bài giảng của thầy cô cần
phải tạo cho các en tâm lí muốn học và thích đến lớp hơn. Các thầy cô giáo không những
chỉ dạy kiến thức mà còn phải dỗ học sinh học bài . Vì vậy với giáo viên không chỉ cần
10
có chuyên môn tốt mà còn phải rất kiên trì, hiểu tâm lí học sinh và tận tụy với nghề. Nếu
yêu cầu ở các em quá cao hay phương pháp không phù hợp có thể khiến các em có tâm lí
“sợ học” bởi vậy bài giảng phải luôn vừa sức với học sinh nhưng kiến thức vẫn đủ và
sinh động, lí thú, từ đó học sinh mới đi học đều.
4. Khi tổ chức đi vận động học sinh ra lớp phải đi tập thể có đông đủ ban giám hiệu, các
thầy cô giáo, các nhân viên đến gặp trực tiếp cha mẹ học sinh như một chiến dịch đi vận
động học sinh ra lớp. Tổ chức đi như vậy vừa tạo ra không khí, động lực cho tất cả cán bộ
giáo viên, nhân viên khi đi vận động học sinh, vừa làm cho cha mẹ, học sinh thấy sự quan
tâm đến việc học của học sinh không chỉ có thầy cô chủ nhiệm mà tất cả cán bộ giáo
viên, nhân viên trong nhà trường cũng đều quan tâm. Bên canh đó cần phải phát huy hết

vai trò của giáo viên, nhân viên người sở tại để họ trao đổi với cha mẹ học sinh bằng
tiếng Raclay thì sẽ đem lại hiệu quả cao hơn.
5. Trong công tác tham mưu, phối hợp với cấp ủy chính quyền địa phương phải kịp thời.
Mặt khác ban giám hiệu đặc biệt là Hiệu trưởng phải thường xuyên có mặt trong các buổi
họp thôn hay các buổi triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội hay công tác
y tế.v.v. để trực tiếp báo cáo trao đổi tình hình học tập của học sinh và các hoạt động của
nhà trường với bà con nhân dân mới đem lại hiệu quả tốt.
6. Thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể, các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục
thể thao cho học sinh. Qua các hoạt động này cho thấy các em đến trường không những
đến để học mà đến trường là vừa được học, vừa được chơi.
7. Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục.
Đề tài trên đây đã đưa ra những cơ sở lý luận, thực trạng, nguyên nhân và những giải
pháp của việc huy động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số học sinh để đảm bảo chuyên cần
nhằm đáp ứng tốt cho công tác phổ cập giáo dục và xây dựng xã hội học tập trong địa bàn
với đặc thù của trường tiểu học Ba Cụm Nam – Khánh Sơn – Khánh Hòa. Qua đó đã đề
xuất các biện pháp nhằm làm tốt công tác huy động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số đảm
bảo chuyên cần để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.
7.3. Kiến nghị
+ Với phòng GD&ĐT:
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các trường học, đặc biệt là các điểm trường. Trong
đầu tư xây dựng cần quan tâm hơn nữa đến các trường, các điểm trường ở xa, chú trọng
đến việc quy hoạch xây dựng khu sân chơi.
- Mở lớp học tiếng dân tộc Raclay trong hè cho đội ngũ cán bộ quản lý các trường học để
họ có kiến thức, kỹ năng giao tiếp bằng tiếng dân tộc Raclay trong công tác.
11
Ba Cụm Nam, ngày 28 tháng 3 năm 2012
NGƯỜI THỰC HIỆN

Trịnh Đình Ba
12

×