Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

SKKN Giải pháp nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.25 KB, 34 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỠNG HỌC SINH
GIỎI MÔN LỊCH SỬ THPT”
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của vấn đề
Theo "chiến lược phát triển con người" của Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ với mục
tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” đã được cụ thể hoá trong
nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc tế mục tiêu
“Bồi dưỡng nhân tài” càng được Đảng và Nhà nước quan tâm lớn “Hiền tài là nguyên
khí quốc gia”. Đất nước muốn phồn thịnh đòi hỏi phải có những nhân tố thích kế để có
hướng đi, có những người tài để giúp nước. Hiện nay, chúng ta đang trong xu thế hội
nhập nền kinh tế quốc tế, gia nhập WTO thì nhân tài là một trong những yếu tố để chúng
ta có thể tiếp cận với sự tiến bộ của khoa học công nghệ của các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Thực hiện mục tiêu đó, ngành giáo dục của chúng ta đang cố gắng hướng đến sự
phát triển tối đa những năng lực tiềm tàng trong mỗi học sinh. Ở các trường Trung học
phổ thông (THPT) hiện nay, đồng thời với nhiệm vụ phổ cập giáo dục, nâng cao chất
lượng đại trà, việc chăm lo bồi dưỡng học sinh giỏi đang được nhiều cấp bộ chính quyền
và nhân dân địa phương quan tâm nhưng nguyên nhân sâu xa nhất đó chính là thực hiện
mục tiêu giáo dục mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Thực tế hiện nay ở các trường THPT công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, trong đó có
việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử đã được chú trọng song vẫn còn những bất cập
nhất định như: cách tuyển chọn, phương pháp giảng dạy còn yếu kém, chưa tìm ra được
hướng đi cụ thể cho công tác này, phần lớn chỉ làm theo kinh nghiệm. Từ những bất cập
trên dẫn đến hiệu quả bồi dưỡng không đạt được như ý muốn.
Mặt khác, do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong đời
sống xã hội. Một số học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ môn lịch sử, coi đó
là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần làm bài tập, không cần đầu tư phí công
vô ích. Dẫn đến hậu quả học sinh không nắm đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai,


nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến trong thực tế ở nhiều trường.
Là một giáo viên dạy bộ môn Lịch sử trường THPT Lý Tự Trọng đặt trên địa bàn
xã Hoài Châu Bắc, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định – học sinh của trường phần lớn là
con em gia đình nông dân, đời sống kinh tế còn khó khăn, học sinh ít được tiếp cận với
các vấn đề lịch sử, văn hóa chuyên sâu từ các kênh thông tin.
Băng khoăn trước thực trạng đó, tôi luôn tìm tòi, nghiên cứu để nâng cao kiến thức
và phương cách giảng dạy của bộ môn để gây hứng thú học tập môn lịch sử cho học sinh,
nhất là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi sao cho đạt hiệu quả. Nhiều năm liền trường tôi
có học sinh giỏi lịch sử cấp tỉnh và cấp Quốc gia.
Xuất phát từ những lý do cơ bản trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Biện pháp bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THPT đạt hiệu quả”.
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Bồi dưỡng học sinh giỏi là công tác cực kì quan trọng giúp cho ngành giáo dục phát
hiện nhân tài, lựa chọn những mầm giống tương lai cho đất nước trong sự nghiệp trồng
người. Đồng thời giúp cho học sinh thực hiện được ước mơ là con ngoan, trò giỏi và có
định hướng đúng về nghề nghiệp của mình trong tương lai.
Đề tài này là nhằm đưa ra một số kinh nghiệm, bí quyết ôn luyện học sinh giỏi môn
lịch sử (chọn đối tượng học sinh, phương pháp ôn luyện, kết quả đạt được).
Góp phần tạo nguồn quan trọng cho đội tuyển học sinh giỏi môn Lịch sử của tỉnh
dự thi cấp Quốc gia đạt kết quả.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm, góp phần khẳng định chất lượng giáo dục và vị thế, uy tín của giáo viên và nhà
trường. Đồng thời còn có ý nghĩa thiết thực trong việc bồi dưỡng tài năng tương lai cho
quê hương, đất nước.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài được xây dựng từ việc tích lũy những kinh nghiệm ở các lớp bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Lịch sử trường THPT Lý Tự Trọng – huyện Hoài Nhơn - tỉnh Bình Định.
II. Phương pháp tiến hành
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
2.1.1. Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài

Dân tộc Việt Nam có lịch sử từ lâu đời, với quá trình hàng nghìn năm dựng nước
và giữ nước. Nhân dân ta không chỉ có truyền thống dân tộc anh hùng mà còn có kinh
nghiệm phong phú, quý báu về việc giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ, về việc rút bài học
quá khứ cho cuộc đấu tranh và lao động trong hiện tại. Kiến thức lịch sử góp phần xây
dựng đường lối, chủ trương, chính sách, trở thành vũ khí sắc bén trong công cuộc dựng
nước và giữ nước. Ngày nay, (theo cố Tổng Bí thư Đỗ Mười) “cùng với quá trình quốc tế
hóa ngày càng mở rộng thì trở về nguồn cũng là một trong những xu thế chung của các
dân tộc trên thế giới. Với chúng ta, đó chính là sự tìm tòi, phát hiện ngày càng sâu sắc
hơn những đặc điểm của xã hội Việt Nam, những phẩm chất cao quý, những giá trị
truyền thống và những bài học lịch sử giúp chúng ta lựa chọn và tiến hành bước đi thích
hợp, hướng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Chất lượng bộ môn Lịch sử được đánh giá không phải bằng việc ghi nhớ nhiều sự
kiện mà cần hiểu đúng lịch sử. Như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Lịch sử
đâu phải là một chuổi sự kiện để người viết sử ghi lại, rồi người giảng sử đọc lại, người
học sử học thuộc lòng”. Điều quan trọng là qua học tập, “chúng ta thấy được cái gì qua
các thời đại lịch sử, và từ đó chúng ta rút ra được kết luận gì, bài học gì, Mác, một nhà
sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin đã vũ trang cho chúng ta một phương pháp luận
đúng đắn để nghiên cứu lịch sử, để rút ra những kết luận có ý nghĩa quan trọng thiết
thực”. Đây chính là cơ sở để những người quan tâm đến sử học và những thầy cô giáo
giảng dạy môn lịch sử cần nhận thức đúng, sâu sắc, ý nghĩa, vị trí của bộ môn Lịch sử ở
trường THPT và tìm ra những phương pháp để nâng cao chất lượng bộ môn, thu hút được
nhiều học sinh tham thích học lịch sử và học giỏi lịch sử.
Mục tiêu bộ môn lịch sử ở trường THPT:
*Về kiến thức:
- Cung cấp kiến thức lịch sử ở chương trình nâng cao lớp 12 THPT, học sinh được
học sâu những sự kiện cơ bản trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới và lịch sử dân
tộc…
- Tiếp tục bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn lịch sử về kiến thức và kĩ năng, tạo hứng
thú say mê học tập, tìm hiểu lịch sử cho học sinh.
- Tạo nguồn cho học sinh đi chuyên sâu một số chuyên ngành lịch sử ở bậc đại

học, cao đẳng.
* Về kĩ năng:
- Hình thành kĩ năng tư duy lịch sử và tư duy logic, nâng cao năng lực xem xét,
đánh giá sự kiện, hiện tượng trong mối quan hệ không gian, thời gian và nhân vật lịch sử.
- Rèn luyện kĩ năng học tập bộ môn một cách độc lập, thông minh như làm việc
sách giáo khoa, sưu tầm và sử dụng các loại tư liệu lịch sử, làm bài thực hành.
- Phát triển khả năng phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp, .v.v.
- Vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề trong quá trình học tập.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
*Thuận lợi:
- Trong hệ thống các môn học ở trường THPT trong đó có môn lịch sử cũng có vai
trò quan trọng, trong việc giáo dục giáo dưỡng học sinh, lòng yêu quê hương đất nước,
lòng tự hào dân tộc… là hành trang quan trọng, trước khi học sinh rời mái Trường trung
học phổ thông, bước vào môi trường mới.
- Được sự quan tâm của Sở GD- ĐT tỉnh Bình Định, Chi bộ, Ban giám hiệu và các
đoàn thể trong trường THPT Lý Tự Trọng.
- Thầy, cô giáo cùng bộ môn đều nhiệt tình tích cực, trong cải tiến phương pháp,
luôn học tập trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, thông qua hội thảo, thao giảng, sử dụng
công nghệ thông tin…góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử.
- Một bộ phận học sinh yêu thích và quyết tâm học tập môn lịch sử như thi vào đội
giỏi cấp trường, cấp tỉnh, cấp quốc gia và thi Đại học khối C.
* Khó khăn:
- Quan niệm xã hội về vị trí môn lịch sử đường đi hẹp, lợi ích kinh tế thấp.
- Quan niệm chưa đầy đủ của một số nhà quản lý giáo dục, phụ huynh học sinh và
cả giáo viên.
- Học sinh chưa đầu tư quĩ thời gian thường xuyên cho việc học môn lịch sử.
- Khối lượng kiến thức môn lịch sử ở một số bài còn dàn trải khá nặng, một số giáo
viên còn bị động trong khai thác kiến thức, chưa mạnh dạn để học sinh tự tìm hiểu một
phần kiến nào đó, trong bài dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

- Đề và đáp án môn lịch sử thi tốt nghiệp, đại học trong những năm vừa qua còn
câu nệ quá nhiều câu chữ, kiến thức SGK, hạn chế việc phát huy tư duy lịch sử cho học
sinh.
- Thông thường học sinh ít chịu đọc SGK và câu hỏi SGK trước, để có chủ định
xây dựng và tiếp thu bài mới –dẫn đến tính hợp tác của học sinh không cao. Kỹ năng thảo
luận nhóm ở một số học sinh chưa cao - nhất là tính hợp tác.
- Thực trạng dạy học môn Lịch sử ở trường THPT hiện nay như trên nên giáo viên
khó phát hiện và lựa chọn được đối tượng học sinh có năng khiếu để bồi dưỡng. Hơn nữa
dạy môn sử hiện nay ở trường phổ thông thiếu nhiều trang thiết bị như: tranh ảnh, bản
đồ… Mặt khác, việc dạy môn Lịch sử đôi khi bị giới hạn về thời gian tiết học/đơn vị bài
nên khi chú trọng dạy cho học sinh hứng thú thì lại không hết chương trình so với quy
định. Chính vì vậy nhiều khi cũng phải dạy “chay” để đuổi kịp với chương trình”. Giáo
viên không có hứng thú để đầu tư bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Để học sinh yêu thích môn Lịch sử, hứng thú học lịch sử và tham gia học lớp bồi
dưỡng học sinh giỏi đi thi đạt hiệu quả, tôi không ngừng tìm tòi, nghiên cứu tư liệu, phát
huy tác dụng của đồ dùng học tập,…
- Chất lượng học tập bộ môn Lịch sử của học sinh ở các lớp tôi phụ trách giảng dạy
và kết quả học sinh giỏi môn lịch sử cấp tỉnh và cấp Quốc gia hàng năm ở trường THPT
Lý Tự Trọng – Bình Định ngày càng tăng là động lực để tôi cố công đầu tư cho việc
nghiên cứu giảng dạy bộ môn lịch sử này.
* Đánh giá cơ sở thực tiễn: Căn cứ vào chất lượng bộ môn và kết quả học sinh
giỏi môn lịch sử cấp tỉnh và cấp Quốc gia hàng năm, tôi thấy:
- Phần lớn lãnh đạo và giáo viên đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác
dạy bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử.
- Song vẫn còn một số giáo viên dạy lịch sử chưa thực sự tâm huyết, chưa thực sự
đầu tư cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, nên khi chuyên môn phân công bồi dưỡng
không đạt hiệu quả.
- Học sinh rất hứng thú học môn lịch sử khi giáo viên có sự đầu tư vào bài giảng và
biết phát huy tính tích cực của học sinh.
Vì vậy, việc nghiên cứu và những đề xuất của đề tài là hiệu quả, thiết thực, phù hợp

với yêu cầu và nhiệm vụ của ngành, của đồng nghiệp tâm huyết với bộ môn lịch sử.
2.2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp
2.2.1. Biện pháp nghiên cứu
Tôi tiến hành nghiên cứu các sách giáo trình lịch sử và những tư liệu có liên quan
phục vụ cho việc giảng dạy môn lịch sử để biên soạn giáo trình bồi dưỡng cho học sinh
giỏi.
Qua các kênh thông tin, qua chương trình dạy học, qua chương trình tập huấn thay
sách, chương trình bồi dưỡng thương xuyên, qua cách ra đề học sinh giỏi những năm gần
đây…, tôi nhận thấy sự chuyển biến rõ nét trong cấu tạo đề kiểm tra, đề thi đại học, cao
đẳng – đặc biệt là đề thi học sinh giỏi.
2.2.2. Thời gian tiến hành
Qua hơn 8 năm học (2003 – 2012) đảm nhận việc dạy bồi dưỡng cho đội tuyển học
sinh giỏi môn lịch sử của trường THPT Lý Tự Trọng – Bình Định tôi đúc kết được những
kinh nghiệm, bí quyết ôn luyện học sinh giỏi môn lịch sử đạt hiệu quả (chọn đối tượng
học sinh, phương pháp ôn luyện, …).
B. NỘI DUNG
I. MỤC TIÊU
- Làm rõ lý luận và thực trạng trong công tác dạy - học và bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Lịch sử ở trường THPT.
- Đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử đạt hiệu quả ở
trường THPT Lý Tự Trọng – Bình Định.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Yêu cầu chung
2.1.1. Yêu cầu một học sinh giỏi
- Nhiều người thường nghĩ Lịch sử là môn học thuộc lòng nhưng thật ra muốn học
giỏi thì phải đọc và hiểu sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”.
Nhưng quan trọng nhất, người học giỏi lịch sử phải biết hệ thống hóa các nội dung lịch sử
bằng những sơ đồ nhánh, biểu đồ thống kê tư duy theo từng sự kiện, mốc thời gian. Từ
đó, ta mới có thể dễ dàng ghi nhớ nội dung và dữ liệu của môn học. Bởi, môn lịch sử là
một môn khoa học biện chứng.

- Là học sinh giỏi Lịch sử không phải chỉ cần tính siêng học bài mà là phải có khả
năng lập luận, thông minh, trí nhớ tốt. Đặc biệt là phải có niềm đam mê, yêu thích Sử
học.
- Học sinh giỏi Lịch sử không những phải hoàn thành các bài tập của giáo viên giao
mà còn phải chuẩn bị bài trước ở nhà (theo những câu gợi mở của giáo viên). Sau khi
thảo luận nhóm và được giáo viên giảng giải thêm, học sinh mới hiểu sâu được kiến thức.
- Ngoài việc học tập ở lớp, học sinh phải tham khảo thêm nhiều sách vở do giáo
viên gợi ý hoặc tự tìm tòi. Học sinh phải có sổ tay để ghi chép những nội dung quan
trọng. Đây là tư liệu cần thiết, giúp học sinh dễ dàng tra cứu, không mất nhiều thời gian
truy tìm, khi cần thiết.
- Học sinh không những nắm được những kiến thức của giáo viên mà còn phải biết
độc lập suy nghĩ, tìm tòi, biết khái quát nội dung chương trình, hay thắc mắc những gì
mình còn nhận thức mơ hồ.
- Nhưng nắm vững lý thuyết chưa đủ mà học sinh còn phải rèn luyện kỹ năng phân
tích đề; kỹ năng viết bài và trình bày bài làm. Nhìn một bài làm hay, thì chữ đẹp bao giờ
cũng dễ gây thiện cảm cho người đọc. Đây là một công việc khó khăn, học sinh cần phải
được luyện tập lâu dài, thông qua các bài viết hằng tháng (có sự sửa chữa của giáo viên).
Ngoài ra, học sinh giỏi môn Lịch sử phải biết sử dụng triệt để các thao tác phân
tích, tổng hợp để đánh giá, nhận định về một sự kiện hay vấn đề lịch sử, biết chọn ra
những chi tiết, sự kiện lịch sử nào để chứng minh, giải thích theo yêu cầu của đề bài. Hơn
nữa, học sinh ấy phải biết trình bày một bài làm sử có hệ thống, logic,…
2.1.2. Cách chọn học sinh giỏi.
- Trường THPT Lý Tự Trọng lâu nay chọn học sinh giỏi theo quy trình: Tổ chức thi
tuyển chọn đội tuyển vào cuối mỗi năm học để bồi dưỡng trong thời gian hè. Vào đầu
mỗi năm học mới tiếp tục tổ chức thi chọn lần hai và tăng cường bồi dưỡng để tham gia
dự thi các kì cấp tỉnh. Việc chuyển chọn như vậy tôi thấy hiệu quả nhưng chỉ tốt với các
môn tự nhiên, vì trường tôi học sinh hệ A đều học ban khoa học tự nhiên, nên đối với bộ
môn lịch sử tôi thấy việc tuyển lựa rất khó, do học sinh cứ xem thường môn lịch sử cho
đó là môn học phụ. Nên giáo viên dạy môn lịch sử phải lựa chọn đối tượng sau cùng.
Những em có năng khiếu đặc biệt thường thích ôn luyện các môn học tự nhiên. Vì có

kiến thức cơ bản, vững vàng các em cần nắm rõ các công thức, quy tắc, định nghĩa, định
lí rồi linh hoạt nhạy bén, áp dụng để làm bài. Còn các môn học ít tiết như lịch sử, địa lí
cần học bài dài và nhiều nên phần đông các em rất chán.
- Kết hợp với kết quả của các đợt thi học sinh giỏi, khi dạy trên lớp tôi thường ra đề
kiểm tra theo hướng mở hoặc đưa ra những câu hỏi, bài tập nhận thức để khuyến khích
học sinh có sự đầu tư, sáng tạo khi trả lời trước tập thể lớp hay viết trong làm bài và
thưởng điểm cho những học sinh biết cách làm bài đúng theo yêu cầu và có sáng tạo.
- Tôi tiến hành chọn những học sinh có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề
nhanh, đúng bản chất sự kiện, vấn đề lịch sử. Trong bài viết, tôi đặc biệt chú ý những bài
học sinh trả lời đúng yêu cầu thể hiện nắm vững kiến thức, trình bày, lập luận logic, kết
hợp chữ viết rõ ràng, nếu viết đẹp càng tốt.
- Trong những năm gần đây, việc lựa chọn học sinh giỏi môn Lịch sử vào đội tuyển
của trường, tôi không chờ đợi đến kết quả của các kì thi cấp trường vào cuối mỗi năm
học, mà ngay khi dạy ở đầu năm lớp 10, hoặc qua các bài kiểm tra trong học kì I ở lớp
10, 11 phát hiện học sinh có năng khiếu, có sự yêu thích học Lịch sử tôi trực tiếp gặp các
em để tìm hiểu tâm lý, khơi dậy ở học sinh niềm đam mê, giới thiệu các em tham gia vào
đội tuyển để bồi dưỡng. Phân tích cho các em niềm tự hào, hãnh diện khi đỗ đạt. Đã là
học sinh giỏi cấp tỉnh, đặc biệt cấp Quốc gia có giải thì đương nhiên bất cứ môn học nào
cũng được hưởng chế độ ưu tiên ngang nhau và vinh quang như nhau.
- Bên cạnh đó, tôi còn gặp các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm thăm hỏi tình
hình học tập của các em để chọn ra những học sinh có năng lực, có tố chất thông minh và
làm siêng. Học sinh đó phải học khá các môn khác, nhất là môn Toán, Ngữ văn, vì môn
lịch sử cũng cần ở học sinh khả năng phân tích, tư duy logic và kết hợp những kiến thức
văn, thơ minh họa cho bài viết thêm sinh động, giảm sự khô khan nhàm chán gây được
thiện cảm cho người đọc.
- Trong tiến trình lựa chọn học sinh giỏi, có nhiều lúc tôi cảm thấy tiếc và buồn vì
có những học sinh có năng lực, có sự đam mê nhưng sợ gia đình không cho thi đại học
khối C. Nhưng hiện nay các em đạt giải Quốc gia được tuyển thẳng Đại học, Cao đẳng,
điều này phần nào khuyến khích các em tự nguyện tiếp tục tham gia học bồi dưỡng để dự
thi (em Nguyễn Công Ly từ lớp 10 thi cấp tỉnh lớp 11 đạt giải, lớp 11 thi cấp tỉnh lớp 12

đạt giải và lớp 12 đạt giải Quốc gia - năm 2012).
- Với cách lựa chọn như trên, trong 4 năm gần đây trường tôi có số lượng HSG
môn Lịch sử đạt giải cấp tỉnh khá cao: Năm học 2008 – 2009 – 2 giải tỉnh – 2 giải Quốc
gia, 2009 – 2010 – 3 giải (trong đó có 2 em HS lớp 10 đạt giải lớp 11), 2010 – 2011 – 3
giải (có 1 em HS lớp 10 đạt giải lớp 11 và 1 em lớp 11 đạt giải lớp 12), 2011 – 2012 – 4
giải tỉnh – 1 giải Quốc gia (trong đó có 1 em HS lớp 10 đạt giải lớp 11). (xem thêm ở
phần phụ lục 1)
Vậy vấn đề đặt ra là cần phải phát hiện những học sinh có khả năng giỏi Lịch sử từ
lúc nào? Nên tổ chức bồi dưỡng từ lớp nào? Trên thực tế, có nhiều trường khi chuẩn bị
thi học sinh giỏi cấp tỉnh mới tập trung học sinh để ôn luyện, nhưng theo tôi việc phát
hiện và chọn học sinh giỏi phải làm sớm – đầu mỗi năm học mới; tổ chức bồi dưỡng phải
thường xuyên, không nhất thiết phải thi để vào các lớp bồi dưỡng mà ở các tiết học, các
môn học các em cần phải quan tâm, được uốn nắn và phát hiện.
2.1.3. Yêu cầu một bài lịch sử đạt hiệu quả.
- Phải biết suy luận. Bài làm môn lịch sử cần đi thẳng vào vấn đề, không viết dong
dài, dẫn đến lạc đề. Hãy đọc kỹ đề bài, hiểu rõ câu hỏi và thiết kế những kiến thức đã học
theo ý đồ của câu hỏi, đừng bắt câu hỏi phải đi theo kiến thức có sẵn của mình. Học sinh
phải biết chọn ra những chi tiết, sự kiện lịch sử nào để chứng minh, giải thích theo yêu
cầu của đề bài.
- Không được phép làm bài theo kiểu nhớ mang máng. Môn Sử là một môn tuyệt
đối kỵ với các khái niệm mù mờ. Ví dụ không được nhớ nhầm “Mặt trận dân tộc thống
nhất” thành “Mặt trận thống nhất dân tộc”. Không được viết lẫn lộn giữa những chữ “đấu
tranh”, "“chiến đấu”, “khởi nghĩa”…
- Một bài sử hay là bài viết của học sinh đó biết thổi hồn vào những con số, phải tái
hiện được sự kiện, hiện trượng, vấn đề lịch sử.
2.2. Xây dựng chương trình giảng dạy
Ôn luyện học sinh giỏi không giống như tiết dạy ở lớp học bình thường. Vì ở lớp ta
dạy cho học sinh phù hợp với ba đối tượng (khá giỏi, trung bình và yếu kém). Song dạy
cho học sinh giỏi là ta dạy để đưa các em đi thi. Đối tượng dự thi đều ngang tầm nhau về
mặt học lực, nhận thức. Vì vậy, việc xây dựng nội dung chương trình là hết sức cần thiết.

Đây là công việc quan trọng đầu tiên sau khi thành lập đội tuyển. Tôi xây dựng chương
trình – kế hoạch bồi dưỡng theo tiến trình phát triển của lịch sử gồm 2 phần như sau:
1) PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI
a) Lịch sử thế giới cổ đại.
b) Lịch sử thế giới trung đại.
c) Lịch sử thế giới cận đại.
d) Lịch sử thế giới hiện đại.
2) PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM
a) Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ X.
b) Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX.
c) Lịch sử Việt Nam từ1858-1918.
d) Lịch sử Việt Nam từ 1919-2000.
* Giai đoạn Việt Nam từ (1919-1930).
* Giai đoạn Việt Nam từ (1930-1945).
* Giai đoạn Việt Nam từ (1945-1954).
* Giai đoạn Việt Nam từ (1954-1975).
* Giai đoạn Việt Nam từ (1975-2000).
* Soạn hệ thống câu hỏi và bài tập lịch sử (chú trọng bài tập nâng cao) để luyện tập
cho mỗi phần dạy. (xem thêm ở phần phụ lục 2)
Ngoài ra, tôi tập trung biên soạn các chuyên đề nâng cao trong chương trình để bổ
sung kiến thức cho học sinh khi bồi dưỡng như: Chuyên đề Cách mạng tư sản, chuyên đề
về phong trào công nhân; chuyên đề về Nguyễn Ái Quốc, chuyên đề Đảng cộng sản Việt
Nam,
2.3. Tiến hành bồi dưỡng
2.3.1. Cung cấp kiến thức
Phân phối chương trình và yêu cầu kiến thức trong chương trình lịch sử ở trường
THPT chỉ dừng lại ở mức độ nhất định, nên bài giảng trong SGK đều nhằm mục đích
cung cấp kiến thức cơ bản về tiến trình lịch sử thế giới và Việt Nam theo diện rộng, chưa
đi vào chiều sâu. Đối với HSG yêu cầu phải hiểu biết sâu sắc và toàn diện. Các em phải
nắm chắc bản chất các sự kiện, hiện tượng lịch sử, các vấn đề lịch sử,… để có đủ tự tin,

có sự sáng tạo khi giải quyết bất kì đề thi nào.
Một việc quan trọng để cung cấp kiến thức cho học sinh là chọn và giới thiệu
những tài liệu đảm bảo chất lượng cho các em. Thị trường sách hiện nay khá phong phú,
hay dở đan xen, nhưng quỹ thời gian của học sinh thì có hạn, nên tôi chọn và mua hoặc
phô tô cho học sinh các sách như: Sách giáo khoa của Ban khoa học xã hội (chương trình
cũ), Sách lịch sử Nâng cao (chương trình mới), sách giáo trình,…
Trong chương trình bồi dưỡng, tôi kết hợp dạy kỹ hệ thống kiến thức cơ bản theo
chuẩn kiến thức, kỹ năng bằng việc lựa chọn những sự kiện, những vấn đề lịch sử trọng
tâm cho các em rồi tiến hành mở rộng kiến thức bằng các chuyên đề nâng cao.
Các chuyên đề của tôi viết không giống như một tiểu luận hay luận văn lịch sử mà
đi sâu làm rõ được hoàn cảnh lịch sử, nội dung bản chất của các vấn đề lịch sử, các giai
đoạn lịch sử; mối quan hệ giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Đảm bảo cho học sinh đạt
được mức độ về kiến thức lo-gíc là: nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá
và sáng tạo, chứ không phải nhồi nhét kiến thức cho học sinh. Một số Chuyên đề tôi viết
để phục vụ cho việc bồi dưỡng HSG:
- Phần lịch sử thế giới:
+ Văn hóa cổ đại.
+ Phát kiến địa lí.
+ Cách mạng tư sản (thời cận đại).
+ Phong trào công nhân (cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX).
+ Chủ nghĩa đế quốc.
+ Chủ nghĩa xã hội khoa học.
+ Cách mạng tháng Mười Nga và công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô,…
- Phần lịch sử Việt Nam:
+ Những chiến thắng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc.
+ Phong trào Cần Vương.
+ Phong trào yêu nước trước khi có Đảng.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
+ Nguyễn Ái Quốc và vai trò của Người đối với cách mạng Việt Nam.
+ Cách mạng tháng Tám năm 1945.

+ Vai trò của Hậu phương trong cách mạng Việt Nam (1945 - 1975),…
+ Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng Việt Nam (từ năm 1945 đến nay)
Những kiến thức từ các chuyên đề là công cụ giúp học sinh giải quyết tốt các loại
đề thi. Tôi tiến hành dạy từng chuyên đề phù hợp với khả năng và chương trình của từng
khối lớp cho học sinh bồi dưỡng.
Sau khi dạy xong một chuyên đề, một bài lịch sử, tôi yêu cầu học sinh phải dành
một khoảng thời gian để suy nghĩ, nhìn nhận vẫn đề đó, đặc biệt là ý nghĩa của sự kiện đó
với giai đoạn trước và sau nó. Ví dụ: như khi học về Cần Vương thì hãy đối chiếu nó với
phong trào chống Pháp trong những năm 1858 - 1884 hay phong trào dân chủ tư sản đầu
thế kỷ XX hay như khi học về cuộc vận động dân chủ 1936-1939 thì phải tìm hiểu xem
nó giống và khác gì so với phong trào 1930-1931 hay về sau là với cuộc vận động giải
phóng dân tộc 1939-1945 Làm như vậy sẽ giúp học sinh nhớ được kiến thức và nếu
gặp các dạng bài hệ thống, so sánh học sinh làm bài đạt hiệu quả cao hơn.
Theo tôi, để một học sinh được tham gia dự thi HSG môn Lịch sử các cấp học sinh
đó phải nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn Lịch sử – Kiến thức cơ bản ở đây không
chỉ là những sự kiện đơn lẻ mà phải bao gồm hệ thống những hiểu biết cần thiết về những
sự kiện, niên đại, nhân vật, địa danh, các nguyên lý, quy luật, những kết luận khái quát,
phương pháp, kỹ năng. Vì vậy, khi nắm vững kiến thức học sinh mới có khả năng ứng
phó được với các loại câu hỏi, bài tập.
2.3.2. Rèn luyện kỹ năng
2.3.2.1. Kỹ năng tìm hiểu tài liệu
Nội dung chương trình lịch sử quá rộng, tôi không đủ thời gian để dạy từng bài
trong SGK, nên việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu trước bài trong SGK là rất quan trọng.
Sách giáo khoa lịch sử THPT được biên soạn – trình bày theo bài, theo tiến trình thời
gian. Tôi đã hướng dẫn học sinh nắm được mục đích – yêu cầu, những sự kiện quan trọng
và trọng tâm kiến thức của từng bài học lịch sử từ lớp 10 đến lớp 12. Trên cơ sở đó các
em về nhà tìm hiểu kỹ sách giáo khoa và trả lời những câu hỏi trong SGK yêu cầu. Với
cách làm trên khi ôn luyện cho học sinh tôi chỉ tập trung phân tích chuyên sâu những nội
dung lịch sử.
Để tìm hiểu tài liệu đạt hiệu quả học sinh cần phải:

1.Nắm đề: Đề ở đây là tên đề bài, tên tiểu mục. Nhiều học sinh học thuộc nội dung
nhưng lại không nhớ tên tiểu mục, khi làm bài có thể “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, nghĩa
là lạc đề.
Vậy trước khi học tiểu mục nào, nên nắm chắc tên tiểu mục ấy. Chuyển tiểu mục ấy
thành câu hỏi. Ví dụ như “Ba tổ chức Đảng cộng sản nối tiếp nhau ra đời năm 1929”. Tự
đặt ra câu hỏi như: “Ba tổ chức cộng sản ấy tên là gì? Tại sao ra đời? Bao giờ? Ở đâu? Có
ý nghĩa gì?” Như vậy kích thích hứng thú học tập, hiểu sâu, nhớ lâu. Đó là chủ động
trong học tập.
2.Nắm khung: Khung là dàn ý của cả bài hoặc của từng phần. Trước khi học cả bài
hay từng phần nên nắm chắc cái dàn ý của nó. Dàn ý thường theo giai đoạn hoặc theo sự
kiện, bao gồm: nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa. Nắm khung giúp nhớ có hệ
thống và nhớ lâu, dễ trả lời những câu hỏi tổng hợp.
3.Nắm chốt: Lịch sử bao giờ cũng gắn liền sự kiện – địa danh – nhân vật lịch sử.
Nên “chốt” là thời điểm gắn với một sự kiện quan trọng hoặc tương đối quan trọng. Ở
lịch sử lớp 12 yêu cầu học sinh phải nhớ cả ngày, tháng, năm. Nếu chỉ là tương đối quan
trọng, có thể chỉ cần nhớ tháng và năm, thậm chí chỉ nhớ năm, cũng tạm được. Nên tìm
các mối quan hệ giữa các chốt về thời gian và sự kiện thì dễ nhớ và nhớ lâu.
4.Thuật ngữ: Cần phải nhớ đúng những thuật ngữ lịch sử, không được nhầm lẫn
giữa một số thuật ngữ “đấu tranh”, “chiến đấu”, “khởi nghĩa”,…vì mỗi chữ có một nghĩa
khác nhau.
2.3.2.2. Kỹ năng phân tích đề
Về các Đề thi HSG thường có mấy loại sau đây:
- Loại đề hệ thống kiến thức lịch sử, nhằm nêu một số kiến thức cơ bản nhất để
qua đó phác họa bức tranh chung về một thời kỳ, một sự kiện lịch sử. Song đây không
phải là liệt kê kiến thức đơn thuần mà yêu cầu học sinh biết lựa chọn một số sự kiện chủ
yếu, tiêu biểu, được hệ thống hóa để làm toát lên một chủ đề nhất định. Ví dụ: Lập bảng
kê các các nước tham gia khối ASEAN theo nội dung sau:
STT Tên nước Thủ đô Ngày giành độc lập Nét nổi bật trong tình
hình hiện nay
Khi lập bảng hệ thống hóa kiến thức, học sinh phải đọc kỹ đề, hiểu rõ vấn đề được

đặt ra để lựa chọn những kiến thức phù hợp. Lập bảng hệ thống hóa kiến thức cần phải
chia ra các cột, nội dung mỗi cột là một đề mục các cột hợp thành hệ thống, giải quyết
chủ đề được đặt ra. Một số học sinh không được hướng dẫn kỹ thường viết thành bài tự
luận.
- Loại đề thi tự luận: Có nhiều dạng yêu cầu theo mẫu tự luận
Ví dụ 1: Vì sao Hội nghị BCH TW Đảng (11/1939) chủ trương chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược? Trình bày nội dung và ý nghĩa của Hội nghị này.
Ví dụ 2: Vì sao ta mở chiến dịch Biên giới thu - đông 1950? Chiến dịch này có
bước tiến gì so với chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947?
Ví dụ 3: Nêu ý nghĩa quốc tế của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Cách
mạng tháng Mười Nga thành công đã tác động đến cách mạng Việt Nam như thế nào?
Các loại đề thi như trên không chỉ yêu cầu học sinh phải nhận biết chính xác sự
kiện, nhận thức đúng bản chất lịch sử mà còn đòi hỏi học sinh thể hiện khả năng lập luận,
trình bày, diễn đạt tốt.
Ngoài ra còn có loại đề thi có câu hỏi đặt ra để lý giải một vấn đề đã được xác định,
hoặc bình luận, chứng minh câu nói nổi tiếng của một nhân vật lịch sử bằng những quan
điểm, bằng các sự kiện.
Ví dụ 1: Vì sao Lênin nói cách mạng tư sản Pháp (1789) là “Cuộc đại cách mạng”?
Ví dụ 2: Chứng minh: Cách mạng tư sản Pháp (1789) phát triển theo hướng đi lên.
Loại đề thi trên tương đối khó, tôi hướng dẫn, yêu cầu học sinh phải đọc kỹ và hiểu
đúng câu nói của nhân vật, một nhận định, đánh giá và sử dụng những sự kiện lịch sử cụ
thể, chính xác để chứng minh.
Loại đề nhận thức lịch sử: Là đề theo một chủ đề hay vấn đề lịch sử nhất định
được đặt dưới dạng câu hỏi yêu cầu cần giải đáp. Loại đề này thường có nội dung khó,
yêu cầu học sinh phải suy nghĩ nhiều, hiểu biết kiến thức lịch sử chính xác, hệ thống; học
sinh phải có năng lực độc lập suy nghĩ để giải quyết vấn đề nêu ra, học sinh phải có trình
độ tư duy cao, có khả năng lập luận, lý giải vấn đề. Các dạng thường gặp như:
+ Đề thi xác định, phân tích tính chất của sự kiện lịch sử:
Ví dụ: Trình bày hoàn cảnh lịch sử, nội dung chính sách kinh tế mới (NEP) của
nước Nga Xô viết.

+ Đề thi về xác lập mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện lịch sử:
Ví dụ: Hãy sắp xếp theo trình tự thời gian các sự kiện chủ yếu từ khi Nguyễn Ái
Quốc về nước (1941) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến khi Cách mạng tháng
Tám thành công và giải thích mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử này?
Loại đề thi này yêu cầu học sinh phải suy nghĩ kỹ, nếu không sẽ dễ nhầm lẫn với
loại đề hệ thống hóa kiến thức cơ bản đã trình bày trên. Đề thi yêu cầu thí sinh không chỉ
ghi nhớ các sự kiện lịch sử theo tiến trình thời gian mà điều quan trọng là thí sinh phải lý
giải mối quan hệ giữa các sự kiện đã được lựa chọn.
+ Đề thi xác định tính kế thừa giữa các sự kiện lịch sử, giai đoạn, thời kì lịch sử:
Đề yêu cầu học sinh phải hiểu rõ quá trình phát triển liên tục, thống nhất, tính phong phú,
đa dạng, cụ thể của các sự kiện, giai đoạn, thời kì lịch sử. Khi làm loại đề này, học sinh
phải nắm vững một vấn đề có tính quy luật trong sự phát triển của lịch sử. Sự kiện xảy ra
trước tác động đến sự ra đời và phát triển của sự kiện tiếp sau, chúng có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Đề thi xác định tính kế thừa giữa các sự kiện trong quá trình lịch sử cũng như
loại đề thi về mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, song nó tập trung hơn vào một sự
kiện chính; nó nâng cao hơn về mặt khái quát – lý luận. Ví dụ: Trên cơ sở trình bày mục
đích của Hội Duy Tân và Việt Nam Quang phục hội, anh (chị) hiểu gì về tư tưởng cứu
nước của Phan Bội Châu?
- Loại bài thi thực hành lịch sử: Yêu cầu học sinh không chỉ có biểu tượng lịch sử
chính xác, giàu hình ảnh mà còn biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống,
lao động và công tác xã hội. Vì vậy, nội dung bài thi thực hành lịch sử giúp học sinh rèn
luyện kỹ năng bộ môn. Những số liệu, câu hỏi đưa ra trong bài làm cần ngắn gọn, rõ
ràng, đầy đủ, dễ hiểu và giải quyết được vấn đề đặt ra. Đề thi thường gặp vẽ bản đồ, lược
đồ gồm sử dụng bản đồ câm đến vẽ và trình bày theo bản đồ.
Ví dụ 1: Dùng bản đồ câm các nước Đông Nam Á vào nửa sau thế kỉ XX, ghi tên
nước, ngày giành độc lập và tên thủ đô.
Ví dụ 2: Vẽ bản đồ và tường thuật (viết) diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945.
Để giải quyết được những dạng đề như trên khâu quan trọng là việc phân tích đề,
bởi vì phân tích đề tốt sẽ giúp học sinh xác định, lựa chọn đúng kiến thức, lập dàn ý dễ

dàng. Phân tích đề đúng sẽ tránh trường hợp lạc đề, lệch đề.
Cấu tạo đề thi học sinh giỏi hiện nay rất nhiều câu, nhiều dạng đề, đòi hỏi học sinh
phải tư duy và xử lý nhanh các kỹ năng phân tích đề, phân bố thời gian, xác định thời
gian, không gian, nội dung lịch sử và yêu cầu của câu hỏi … sao cho phù hợp là kỹ năng
cần rèn luyện thường xuyên.
2.3.2.3. Kỹ năng làm bài
- Phân tích câu hỏi trong đề thi
Phải đọc hết và hiểu chính xác từng từ, từng chữ trong câu hỏi. Trong đề thi, một
câu hỏi chặt chẽ sẽ không có từ nào là “thừa”. Đọc kĩ câu hỏi để xác định thời gian,
không gian, nội dung lịch sử và yêu cầu của câu hỏi (trình bày, so sánh, giải thích, phân
tích, đánh giá )
- Phân bố thời gian cho hợp lí. Hãy căn cứ vào điểm số của từng câu mà tính thời
gian, mỗi điểm khoảng 15 phút là phù hợp.
- Lập dàn ý chi tiết
Hãy coi mỗi câu hỏi như một bài viết ngắn, lập dàn ý, xác định những ý chính và
trình tự của các ý. Sau đó hãy “mở bài”, đừng mất nhiều thời gian suy nghĩ về “mở bài”.
Khi đã xác định đúng nội dung sẽ biết mở bài thế nào, và nên mở bài trực tiếp, ngắn gọn
– không quá 10 dòng. Sau khi viết hết nội dung, khắc sẽ biết kết luận. Đừng nghĩ trước
kết luận, và cũng chỉ nên kết luận thật ngắn gọn.
Về hình thức, không phải ai cũng viết được chữ đẹp, câu hay, nhưng hãy cố gắng
viết cho rõ ràng, đúng câu, đúng chính tả, đừng dùng từ sáo rỗng, dài dòng, đừng viết tắt.
Hãy luôn nhớ: Đúng, đủ, rõ ràng, lời văn giản dị, trình bày khoa học. Tuyệt đối không
được viết tùy tiện, rườm rà.
Khuyến khích học sinh có thể dẫn chứng thơ, văn, những nhận định, đánh giá,… để
minh họa trong quá trình làm bài thi.
*Lưu ý: Để làm một bài thi lịch sử đạt hiệu quả cao học sinh phải:
1. Hiểu đề: Đọc thật kĩ từng chữ trong câu hỏi để hiểu rõ người ta hỏi vấn đề gì?
Phạm vi thời gian của câu hỏi là từ năm nào đến năm nào? Như vậy tránh được lạc đề
hoặc thiếu ý.
2.Dựng khung: Dù thuộc đến mấy cũng không viết ngay vào giấy thi. Hãy viết dàn

ý vào giấy nháp sao cho thật đầy đủ và có hệ thống, đáp ứng yêu cầu của câu hỏi.
3.Cắm chốt: Ở mỗi phần của dàn ý ấy, ghi những chốt, nghĩa là sự kiện quan trọng
cùng với thời điểm của nó. Như vậy bài làm sẽ không bỏ sót những sự kiện quan trọng.
4.Viết sạch: Viết vào giấy thi một cách sáng sủa, dễ đọc. Hết mỗi ý chính, mỗi sự
kiện nên xuống dòng. Thấy cần thiết để làm nổi bật từng giai đoạn, từng sự kiện, từng ý
nghĩa có thể ghi 1, 2, 3 hoặc a, b, c hoặc gạch đầu dòng, vì Lịch sử là một môn khoa học
xã hội, có thể trình bày một cách có hệ thống. Như vậy cũng dễ cho người chấm. Bài thi
lịch sử trong những năm gần đây nhiều câu nên học sinh không được chủ quan, viết quá
dài - rườm rà.
Chữ nào sai thì gạch đè lên, không nên xoá lem nhem, không đưa vào ngoặc đơn.
Nếu trót thiếu cả một đoạn dài, có thể ghi bổ sung xuống cuối bài. Phải chia thời gian để
trả lời đủ các câu hỏi, tránh đầu voi đuôi chuột.
5.Đọc lại: Phải tính toán thời gian, để khi viết bài xong, vẫn còn độ 10, 15 phút.
Nhất thiết phải đọc lại bài để sửa chữa những chỗ sai sót nhầm lẫn rồi mới nộp bài. Đọc
lại là khâu rất quan trọng để bài thi được điểm cao hơn.
2.3.2.4. Chấm và sửa bài
Một học sinh giỏi không chỉ nắm vững kiến thức lịch sử, vững kỹ năng mà còn có
sự sáng tạo. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng cho học sinh tôi thường xuyên quan tâm
đến việc chấm và sửa bài cho học sinh. Bài viết cần phải được sửa chữa, chỉ bảo cụ thể,
để phát huy những cái hay, sửa sai kịp thời những cái dở, để có sự nhìn nhận đánh giá
một cách công bằng, khách quan mỗi khi tuyển lựa đội tuyển chính thức đi dự thi.
Sau khi dạy một chuyên đề, hay một giai đoạn lịch sử tôi thường tổ chức kiểm tra
để chấm và sửa bài cho học sinh. Kiểm tra có thể cho bài tập các em về nhà làm, quy
định thời gian nộp bài, nhưng theo tôi tốt nhất là cho học sinh làm bài kiểm tra ngay trên
lớp bồi dưỡng.
Ngoài ra tôi còn khuyến khích học sinh có thể tự tìm đề để viết rồi đưa cho thầy cô
sửa giúp, sau đó viết lại nhuần nhuyễn. Cách này giúp học sinh tăng khả năng trình bày,
diễn đạt của bạn và tạo thêm kỹ năng ứng phó tốt với mọi loại đề.
2.4. Khả năng áp dụng
Đề tài có tính khả thi, có thể áp dụng lâu dài và rộng rãi cho giáo viên dạy bồi

dưỡng học sinh giỏi bộ lịch sử ở trường THPT
Kết quả học sinh giỏi môn lịch sử của trường THPT Lý Tự Trọng đạt được liên tục
trong 8 năm qua (17 giải cấp tỉnh, 4 giải cấp quốc gia) là cơ sở để tôi nghiên cứu, thực
hiện đề tài này và sẽ áp dụng vào công tác giảng dạy, bồi dưỡng đội tuyển HSG của
trường trong những năm học tiếp theo.
2.5. Lợi ích kinh tế - xã hội
- Đề tài thực hiện không tốn kém về mặt kinh tế mà còn thực hiện tốt cho quá trình
dạy bồi dưỡng đội tuyển HSG cho các trường THPT. Đề tài cung cấp cho giáo viên có
tâm huyết với bộ môn lịch sử hướng đi và cách thức thực hiện việc bồi dưỡng học sinh
giỏi đạt hiệu quả.
- Đề tài còn giúp cho những học sinh yêu thích và có năng khiếu lịch sử, học sinh
thi Đại học khối C sẽ thực hiện được ước mơ.
C. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trình bày ở trên tôi khẳng định mục đích nghiên cứu đặt ra đã được
hoàn tất. Trong quá trình nghiên cứu tôi xin rút ra một số kết luận sau:
- Để bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử đạt hiệu quả trước hết phải có những giáo
viên vững về kiến thức, kỹ năng thực hành lịch sử.
- Thực sự yêu nghề, tâm huyết với công việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Niềm đam
mê là yếu tố rất cần thiết khi bạn muốn dạy tốt và có học sinh học tốt môn Lịch sử.
- Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, đọc sách báo để ngày càng làm phong
phú thêm vốn kiến thức của mình.
- Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, ghi chép giáo án một cách khoa học.
- Tham khảo nhiều sách báo tài liệu có liên quan, giao lưu học hỏi các bạn đồng
nghiệp có nhiều kinh nghiệm, các trường có bề dày thành tích.
- Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh, mẫu mực trong lời nói, việc làm,
thái độ, cử chỉ có tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh noi theo.
- Giáo viên phải khơi dậy niềm say mê, hứng thú của học sinh đối với môn học
Lịch sử, luôn phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các em tham gia học tập.
Trong quá trình nghiên cứu, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực trạng công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi môn lịch sử ở Trường THPT Lý tự Trọng - tỉnh Bình Định. Đề tài xin mạnh

dạn đề xuất một số biện pháp có tính thực tiễn phù hợp với tình hình bồi dưỡng học sinh
giỏi lịch sử hiện nay.
- Tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử.
+ Phát hiện những học sinh có khả năng trở thành học sinh giỏi lịch sử.
+ Bồi dưỡng kiến thức lịch sử.
+ Bồi dưỡng kỹ năng tìm hiểu tài liệu lịch sử.
+ Bồi dưỡng kỹ năng phân tích đề.
+ Bồi dưỡng kỹ năng làm bài thi lịch sử.
Đề tài triển khai nghiên cứu ở Trường THPT Lý Tự Trọng – tỉnh Bình Định được
tập thể giáo viên trong Tổ chuyên môn: Văn – Sử - GDCD tán thành. Đề tài chỉ có tác
dụng trả lời câu hỏi làm thế nào để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch
sử ở trương THPT. Hy vọng các biện pháp đề ra sẽ có thể áp dụng tốt ở các trường
THPT.

Kiến nghị:
- Đối với Ban giám hiệu nhà trường nên tổ chức thi chọn đội tuyển và bồi dưỡng
học sinh giỏi ngay từ đầu lớp 10 chú trọng hơn công tác khảo sát, lựa chọn học sinh vào
lớp bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Chuyên môn nhà trường nên tổ chức các buổi ngoại khoá lịch sử báo cáo kinh
nghiệm học tập bộ môn
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH HỌC SINH GIỎI ĐẠT GIẢI CỦA TRƯỜNG THPT LÝ TỰ
TRỌNG
A. HỌC SINH GIỎI CẤP TỈNH
TT HỌ VÀ TÊN LỚP NĂM HỌC GHI CHÚ
1. BÙI THỊ MỸ THỌ 11A2 2004 - 2005
2. NGUYỄN THỊ HOÀI
THANH
11A1 2005 - 2006
3. NGUYỄN THỊ VÂNG 11A1 2005 - 2006

4. NGUYỄN THỊ HOÀI
THANH
12A1 2006 - 2007
5. NGUYỄN THỊ VÂNG 12A1 2006 - 2007
6. DƯƠNG THỊ HỒNG TIẾN 12A6 2008 - 2009
7. TRƯƠNG VĂN ĐÌNH 12A6 2008 - 2009
8. NGUYỄN THỊ BÌNH 11A8 2009 - 2010
9. NGUYỄN CÔNG LY 10A2 2009 - 2010
10. BÙI THANH TIẾN 10A4 2009 - 2010
11. NGUYỄN THỊ BÌNH 12A8 2010 - 2011
12. NGUYỄN CÔNG LY 11A2 2010 - 2011
13. TRẦN THỊ KIM DUNG 10A1 2010 - 2011
14. NGUYỄN CÔNG LY 12A2 2011 - 2012
15. TRẦN THỊ KIM DUNG 11A1 2011 - 2012
16. NGUYỄN T. HỒNG 11A2 2011 - 2012
NHUNG
17. TRẦN THỊ HOÀI VI 10A3 2011 - 2012
18. TRẦN THỊ KIM DUNG 12A1 2012 - 2013
19. NGUYỄN T. HỒNG
NHUNG
12A2 2012 - 2013
20. ĐOÀN THỊ MỸ THÙY 11A2 2012 - 2013
21. NGUYỄN THỊ THU THÁI 11A4 2012 - 2013
B. HỌC SINH GIỎI CẤP QUỐC GIA
TT HỌ VÀ TÊN LỚP NĂM HỌC GHI CHÚ
1. NGUYỄN THỊ HOÀI
THANH
12A1 2006 - 2007
2. DƯƠNG THỊ HỒNG TIẾN 12A6 2008 - 2009
3. TRƯƠNG VĂN ĐÌNH 12A6 2008 - 2009

4. NGUYỄN CÔNG LY 12A2 2011 - 2012
PHỤ LỤC 2
MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP LỊCH SỬ
A.PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI:
Câu 1: Hội nghị Ianta (2/1945) diễn ra trong hoàn cảnh nào? Hội nghị đã có những
quyết định quan trọng nào?
Câu 2: Liên Hợp Quốc: Hoàn cảnh ra đời, mục đích, nguyên tắt hoạt động và vai
trò của Liên hợp quốc.
Câu 3: Sự đối lập về chính trị và kinh tế giữa hai khối nước: Tây Âu TBCN và
Đông Âu XHCN như thế nào?
Câu 4: Trình bày những thành tựu chủ yếu trong công cuộc xây dựng CNXH của
Liên Xô từ năm 1945 đến giữa những năm 70. Những thành tựu đó có ý nghĩa gì?.
Câu 5: Trình bày những thành tựu chính các nước Đông Âu đạt được trong công
cuộc xây dựng CNXH từ năm 1950 đến giữa những năm 70. Những thành tựu đó có ý
nghĩa gì?.
Câu 6: Phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của chế độ XHCN ở Liên
Xô và các nước Đông Âu.
Câu 7: Sự thành lập nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và ý nghĩa của sự thành
lập nhà nước này? Hãy cho biết đường lối và thành tựu cải cách và mở cửa của Trung
Quốc?.
Câu 8: Trình bày những nét chính về phong trào đấu tranh giành độc lập ở Đông
Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ hai?.
Câu 9: Trình bày những nét chính về cuộc đấu tranh chống đế quốc của nhân dân
Lào từ năm 1945 đến năm 1975.
Câu 10: Qúa trình xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa của các nước Đông
Nam Á từ sau khi giành độc lập đến năm 2000 như thế nào?.
Câu 11: Qúa trình thành lập, mục tiêu, nguyên tắc và sự phát triển của Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN). Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập tổ chức
này?.
Câu 12: Những biến đổi của các nước Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ

hai?
Câu 13: Trình bày khái quát phong trào đấu tranh giành độc lập ở Ấn Độ từ năm
1945 đến năm 1950.
Câu 14: Trình bày các giai đoạn phát triển và thắng lợi của phong trào giải phóng
dân tộc ở Châu Phi từ năm 1945 đến nay. Phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Phi có
đặc điểm gì? Những khó khăn thử thách mà Châu Phi đang gặp phải?.
Câu 15: Những nét chính về phong trào giải phóng dân tộc ở Mĩ Latinh từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai? Cuộc đấu tranh giành độc lập ở Cuba diễn ra như thế nào?.
Câu 16: Tình hình nước Mỹ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay:Sự phát
triển nhảy vọt về kinh tế và khoa học – kĩ thuật như thế nào? Những nguyên nhân dẫn tới
sự phát triển kinh tế của Mỹ. Chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ như thế nào?.
Câu 17: Sự phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới
thứ hai như thế nào? Những nguyên nhân của sự phát triển đó?.
Câu 18: Trình bày khái quát sự phát triển của các nước Tây Âu qua các giai đoạn
từ 1945 đến năm 2000. Sự thành lập và phát triển của Liên minh châu Âu (EU). Vì sao
nói Liên minh châu Au là tổ chức liên kết khu vực lớn nhất thế giới?
Câu 19: Những nội dung nào dẫn đến sự mâu thuẫn Đông – Tây và khởi đầu cho
cuộc chiến tranh lạnh?
Câu 20: Trình bày các xu thế phát triển của thế giới sau chiến tranh lạnh chấm dứt.
Liên hệ đến công cuộc đổi mới của đất nước ta.
Câu 21: Trình bày nguồn gốc, đặc điểm, thành tựu và tác động của Cách mạng
khoa học công nghệ nửa sau thế kỉ XX.
Câu 22: Xu thế toàn cầu hóa được thể hiện trên những lĩnh vực nào? Vì sao nói
toàn cầu hóa vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với các nước đang phát triển?.
Câu 23: Các xu thế phát triển của thế giới hiện nay là gì? Những thời cơ và những
thách thức đặt ra cho dân tộc Việt Nam trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế như
thế nào?.
B.PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM:
Câu 24: Nguyên nhân và hoạt động khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp ở Việt
Nam? Cuộc khai thác lần thứ hai của TD Pháp ở Việt Nam làm cho xã hội Việt Nam biến

đổi như thế nào? Phân tích khả năng cách mạng của từng tầng lớp giai cấp xã hội Việt
Nam từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
Câu 25: Trình bày những hoạt động yêu nước của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ
1919 đến năm 1925.
-Quá trình chuyển biến của Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước trở thành một
người cộng sản đã diễn ra như thế nào?(Gợi ý: trình bày tóm tắt tiểu sử, những hoạt động
yêu nước từ 1911 đến 1925)
Câu 26: Sự ra đời của ba tổ chức Cộng sản trong năm 1929: Hoàn cảnh ra đời, quá
trình hình thành và ý nghĩa lịch sử.
Câu 27: Trình bày hoàn cảnh, nội dung của hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930.
Nội dung của Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt - cương lĩnh chính trị đầu tiên được
Nguyễn Ái Quốc trình bày tại hội nghị thành lập Đảng. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam? Tại sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặc vĩ
đại của cách mạng Việt Nam?.
Câu 28: Nguyên nhân, diễn biến chính và ý nghĩa lịch sử Phong trào cách mạng
1930 - 1931. Nêu rõ sự ra đời và hoạt động của Xô viết Nghệ – Tĩnh. Vì sao nói phong
trào cách mạng 1930 - 1931 là cuộc tập dượt đầu tiên của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng chuẩn bị cho thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945.
Câu 29: Cao trào vận động dân chủ 1936 - 1939: Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương
của Đảng ta, diễn biến, kết quả và ý nghĩa lịch sử.
Câu 30: Trình bày nguyên nhân, diễn biến, ý nghĩa lịch sử của Khởi nghĩa Bắc
Sơn, Khởi nghĩa Nam Kì và Binh biến Đô Lương.
Câu 31: Trình bày hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa lịch sử của hội nghị TW Đảng
lần thứ VI (11/1939).
Câu 32: Trình bày hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa lịch sử của hội nghị TW Đảng
lần thứ VIII (5/1941).
Câu 33: Tại sao trong 2 năm 1939, 1941 Ban chấp hành Trung ương Đảng đều
triệu tập hội nghị? Vấn đề quan trọng nhất được các hội nghị đề cập tới là gì?
Câu 34: Mặt Trận Việt Minh được thành lập như thế nào? Mặt Trận Việt Minh có
những đóng góp gì đối với thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám 1945?.

Câu 35: Khi Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương, Đảng ta có chủ trương
gì? Nội dung của chủ trương đó như thế nào?(Nội dung của bản chỉ thị Nhật – Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta). Trình bày diễn biến và ý nghĩa lịch sử của cao trào
khánh Nhật cứu nước.
Câu 36: Cách mạng tháng Tám 1945: Nguyên nhân (hoàn cảnh lịch sử), diễn biến
chính và ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Tám. Phân tích, nguyên nhân thành công

×