Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tiểu luận Nhân vật Đông Du Trung Kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.58 KB, 17 trang )

Nhân vật Đông Du Trung Kỳ
. Khái quát chung
Số người Việt Nam tham gia phong trào Đông Du (bao gồm
cả lưu học sinh và người quản lí) cho đến cuối năm 1908 đã lên tới
trên dưới 200 người, đông nhất là Nam Kỳ khoảng trên 100 người,
Trung Kỳ 50 người và Bắc Kỳ 40 người.
2.2 Ngay từ đầu mảnh đất Nghệ Tĩnh đã có những thanh niên
ra đi cùng Phan Bội Châu nh: Nguyễn Thức Canh (tức Trần Hữu
Công hay Trần Trọng Khắc) người Nghệ An, Lê Khiết người
Thanh Hoá đến Yokohama vào tháng 10 năm 1905.
- Trần Trọng Khắc sinh năm 1884, bố nguyên là sơn phòng
xứ Nghệ Tĩnh, khi chính biến năm 1885 thì từ quan về làng dạy
học tư, dạy các học trò như: Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân.
Tháng 3 năm 1906, khi vào dạy ở trường Chấn Võ, đổi tên thành
Trần Hữu Công. Cuối năm 1908 tốt nghiệp trường này. Khi phong
trào Đông du bị giải tán, ông vào học trong trường Trung học
Thành Thành (seijo ở Tôkyô), đồng thời đi học thêm tiếng Anh và
tiềng Đức vào buổi tối, đổi tên thành Trần Trọng Khắc, ông tham
gia thành lập Việt Nam Quang Phục hội ở Quảng Châu năm 1912.
Năm 1913, được Trung Quốc chi học phí, ông vào học tại trường
Cao đẳng sư phạm Tôkyô, đến năm 1922 ông sang du học tại Đức.
2.3 Thế hệ trẻ Trung Kỳ đến với Đông Du
Chỗ dùa vững chắc và cũng là nơi những người khai lập đặt
niềm kỳ vọng là thế hệ trẻ sinh ra vào khoảng thập kỷ 80, 90 của
thế kỷ XIX. Trên phạm vi cả nước, khi thế hệ này ra đời thì người
Pháp đã cơ bản bình định xong Việt Nam. Các hàng ước mà triểu
Nguyễn ký với người Pháp đã có hiệu lực, Bắc và Trung Kỳ llà xứ
bảo hộ, còn Nam Kỳ là thuộc địa. Tuy không được tận mắt chứng
kiến những thất bại của líp cha anh trước đó nhưng họ cảm nhận rõ
khí thế chống Pháp bùng cháy rừng rực trong hàng ngò các sĩ phu
yêu nước.


a. Xuất thân từ các gia đình nhà Nho yêu nước, họ là những
người con đại diện tiêu biểu của Trung Kỳ.
- Phan Bá Ngọc là con của Phan Đình Phùng, sinh ra tại làng
Đông Thái, xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Khi cuộc khởi
nghĩa Cần Vương do thân phụ ông lãnh đạo nổ ra, Phan Bá Ngọc
vẫn còn là một cậu bé thiếu niên, chưa hiểu gì nhiều về việc đời
nhưng rất ham mê tập luyện quân sự. Người cha đã truyền cho ông
nhiệt huyết cách mạng từ rất sớm. Không phải ngẫu nhiên mà
trong trường Đồng văn thư viện ông cùng với Đàm Quốc Khí,
Đặng Tử Mẫn đựơc đánh giá cao là những nhân vật trung tâm, có
chí khí, nhiệt thành, các động tác huấn luyện quân sự chuyên
nghiệp. Tiếc là sau này do cơ sự không thành ông trở thành kẻ hợp
tác vói chính quyền Đông Dương, ông bị chính một nhà cách mạng
Việt Nam ám sát năm 1922 tại Hàng Châu.
- Chí sĩ Hồ Ngọc Lãm (thời niên thiếu có tên là Hồ Xuân
Lan) là cháu ruột của án sát Hồ Bá Ôn đã tử thương năm 1883, cha
cũng tử trân năm 1885. Năm 1906, được mẹ đích thân đưa đường
tới Quảng Ninh để vựơt biên sang Hồng Kông theo Phan Bội Châu
trên đường Đông Du. Anh là một trong ba thanh niên đầu tiên cùng
với Cường Để vào Chấn võ học hiệu. Khi Công Hiến Hội được
thành lập, anh hoạt động nh mét trợ lý thân cận của Phan Bội
Châu, quán xuyến hầu hết mọi công việc quan trọng. Khi phong
trào Đông Du có nguy cơ tan rã, Phan Bội Châu đã hướng dẫn Hồ
Ngọc Lãm sang Trung Quốc, vào học ở Bảo Định quân sự học
hiệu gần Bắc Kinh. Sống ở Trung Quốc anh có nhiều đóng góp,
giúp đỡ cho cách mạng Việt Nam. Gia đình anh đã cưu mang, đùm
bọc các nhà cách mạng đang lưu trú tại Nam Kinh. Nhiều lúc căn
nhà của anh đã trở thành nơi sinh hoạt của hàng chục khách nh: Hà
Huy Tập, Từ Chí Kiên, Hoàng Ngọc Ân… và hai đồng chí cộng
sản người Thái Lan. Đặc biệt trong thời gian Hồ Chủ Tịch bị

Tưỏng Giới Thạch bắt giam taij Quảng Tây, chính Hồ Học Lãm đã
gửi nhiều thư tới Tưởng yêu cầu can thiệp, trả tự do cho lãnh tụ
Việt Nam. Khi Bác về tới Pắc Bó cuối tháng 10 năm 1944 mới biết
tin Hồ Học Lãm đã qua đới tại Quế Lâm ngày 11 tháng 4 năm
1943. Anh ra đi mang theo hoài bão của sự nghiệp cứu nứơc, đồng
thời để lại không Ýt những tác phẩm bất hủ, đó chính là những bài
thơ, những luận văn quân sự mà học giả, nhà nghiên cứu Chương
Thâu đã dày công sưu tầm.
- Lê Cầu Tinh: sinh năm 1982, người Nghệ An. Ông là người
thông minh, khéo léo. Năm 1908, sang Nhật cùng với Hồ Trọng
Mậu, Trần Hữu Lực, vào học trong Đồng văn thư viện được 1
năm thì ốm. Sau lúc giải học, chuyên tập làm nhà chế tạo binh khí,
kiểu súng Nhật Bản thời Minh Trị năm thứ 30 rất giồng. Lê Cầu
Tinh đã giúp Phan Bội Châu bí mật vận chuyển khí giới qua Xiêm
trở về nước, Năm 1913, Lê Cầu Tinh cùng Đặng Tử Kính về
Xiêm mưu việc dinh điền. Sau ông bị chết vì bệnh dịch. Trước lúc
hy sinh, Lê Cầu Tinh vẫn nêu cao ý chí tấm gương của một nhà
cách mạng yêu nước, động viên anh em chờ đợi thời cơ, quyết tâm
sống mái với kẻ thù.
- Hoàng Trọng Mậu (Nguyễn Đức Công), người Nghệ An,
thông hiều chữ Hán, giỏi về văn khoa cử. Lóc phong tràp bắt đầu
anh liền bỏ lối học cử nghiệp, đem hết của cải xuất dương. Vào
trường học ở Đông Kinh hơn nửa năm, anh chăm chỉ nghiên cứu
các môn khoa học, chữ Nhật và đặc biệt là quân sự. Sau khi phong
trào Đông Du tan rã trên đất Nhật, anh vẫn không nản lòng, tiếp
tục đi theo chí hướng mà Duy tân hội đã lùa chọn – con đường vũ
trang bạo động. Vào năm 1912, Việt Nam Quang Phục Hội thành
lập, anh phô trách việc quân vụ cùng với Phan Bội Châu soạn thảo
cuốn Việt Nam Quang Phục Quân phương lựơc, bày mưu tính kế
chuẩn bị vũ khí, lực lượng trở về giải phóng đất nước. Dù định

chưa có cơ hội để thực hiện thành công, anh bị địch bắt ở Hương
Cảng, giải về Hà Nội tống giam. Giặc Pháp bảo anh thó tội thì sẽ
được tha nhưng anh kiên quyết không khuất phục và cuối cùng bị
bắn chết.
- Trần Hữu Lực (Nguyễn Thức Đường), em ruột của Nguyễn
Thức Canh, con cụ Nguyễn Thức Tự (thầy dạy học của Phan Bội
Châu), quê ở Nghi Léc, Nghệ An. Có năng khiếu quân sự, vốn đã
ngưỡng mộ Phan từ nhỏ nên khi Phan Bội Châu khởi sự Đông Du,
Trần Hữu Lực hăng hái xuất dương. Ông trở thành một trong
những lưu học sinh đạt kết quả tốt nhất trên đất Nhật Bản. Khi tổ
chức Đông Du bị giải tán, ông ở lại ở Nhật Bản àm thuê để học
tiếp, rồi về Trung Quốc học trường cán bộ Lục quân Quảng Tây,
tốt nghiệp được phong cấp Thiếu uý chỉ huy một tiểu đội. Sau này
khi Việt Nam Quang Phục hội được thành lập, ông được phái về
Xiêm vận động thanh niên tham gia Quang phục quân, mưu sự bạo
động, ám sát. Ông bị bắt đưa về Hà Nội, bị thực dân Pháp kết tội tử
hình và bị hành quyết cùng với Hoàng Trọng Mậu năm 1916. Tấm
gương Trần Hữu Lực đã khiến cho hậu thế phải ngưỡng mộ, đền
thờ ông nơi quê hương Nghi Léc ngày ngày khói hương Êm áp vẫn
toả hương.
- Trần Đông Phong: khi xuất dương Đông Du ông mới chỉ
tròn 21 tuổi nhưng đó là một thanh niên sớm trưởng thành với
nhiệt tình cách mạng cháy bỏng. Đông Phong quê ở Nghệ An, con
trai của một gia đình giàu có, khi Phan Bội Châu về nước năm
1905 đã hiến một khoản tiến lớn. Năm 1907, ông bị bắt do ủng hộ
Đông Du, nhưng mua chuộc được cai tù đã vượt ngục thành công.
Năm 1908, ông quyết định sang Nhật, được một thời gian ngắn
thấy hoàn cảnh túng quẫn của các đồng chí nên viết thư mong
muốn gia đình gửi tiền sang ủng hộ, không thấy hồi âm, Đông
Phong đã tù tử ở Tôkyô, để lại bc thư đầy cảm động:

Tuyệt mệnh
Thời giữ thế dịch
Sự giữ tâm vi
Hư sinh đồ nhuế
Hà dĩ sinh vi
Thời và thế đổi
Việc trái với lòng
Sống thừa chán sống
Một chết cho xong!
Mộ của liệt sĩ Trần Đông Phong được xây dựng tại Tôkyô -
nơi chính anh đã hy sinh. Ngày nay những người Việt Nam sang
Nhật Bản đều tìm đến địa điểm này để dâng hương, tỏ lòng thành
kính và khâm phục.
- Phạm Đương Nhân: sinh năm 1886, người Hà Tĩnh, từ nhỏ
rất chịu khó học Hán học. Anh trai của Phạm Đương Nhân là
Phạm Ngôn đã đỗ thi Hương và khuyên em trai nên sang Nhật học.
Đương Nhân được vào học trong Đồng văn thư viện, khi phong
trào Đông Du tan rã ông tiếp tục cống hiến ở Xiêm. Năm 1912,
ông trở lại Trung Quốc. Xuân năm 1914 vào học trong trường sĩ
quan Bảo Định ở Bắc Kinh. Anh ốm mất khi vừa tốt nghiệp vào
mùa thu năm 1916, lúc vừa đầy 30 tuổi.
- Hoàng Xuân Hành: sinh năm 1870 tại làng Hoàng Trù,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông sinh trưởng trong mét gia
đình nông dân. Bè ông tuy chỉ là nông dân nhưng đã chắt chiu cho
con học chữ Hán khá dài. Thầy học của ông là Hoàng Xuân Hành
là cụ Hoàng Đường, ông ngóại của chủ tịch Hồ Chí Minh. Lòng
yêu nước sớm nảy nở nên ông đã trở thành bạn tâm đắc với Phan
Bội Châu. Năm 1904, ông tham gia hội Duy Tân, sau đó ông được
Phan Bội Châu cử ra Yên Thế xây dựng căn cứ trên một qủa đồi
trong Phồn Xương, thường gọi là đồn “Tú Nghệ”. Ýt lâu sau ông

lại trở về Nghệ An cùng với Đội Quyên, Đội Phấn và Thần Sơn…
xây dựng căn cứ ở Bố Lư, Thanh Chương và Tân Kỳ. Ông cùng
các đồng chí của mình tích cực tham gia phong trào Đông Du bằng
cách vận động quyên góp tài chính, ủng hộ thanh niên xuất dương,
Ông khao khát sớm được sang Nhật để mở rộng tầm nhìn, thế
nhưng đó cũng chính là thời điểm Đông Du gặp nhiều khó khăn.
Phan Bội Châu rất khâm phục khẩu khí của Hoàng Xuân Hành,
nhưng Phan đã khuyên ông chưa vội xuất dương sang Nhật. Năm
1915, ông bị bắt, mãi đến năm 1926 mới được thoát khỏi nhà tù.
Khi Phan Bội Châu trở về với hình ảnh “Ông già Bến Ngự”,
Hoàng Xuân Hành đã tình nguyện ở lại chăm sóc như một người
nghĩa bộc trọn đời chung thuỷ cho đến ngày Phan từ biệt thế giới
(29/10/1940).
b. Giới thương nhân, đồng bào lương giáo Trung Kỳ đoàn kết
ủng hộ sự nghiệp Đông Du.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc dưới tác động của công cuộc tư sản
hoá do người Pháp tiến hành, đặc biệt là sự trỗi dậy của ý thức dân
téc mạnh mẽ, một số trí thức Nho Học đã mạnh dạn đứng ra mở
các hiệu buôn. Mục đích kinh doanh không chỉ làm giàu cho bản
thân mà còn tiến đến những mục tiêu cao cả hơn chính là phá vỡ
rào cản về ý thức hệ phong kiến đang ràng buộc họ.
Những nhà Nho đi buôn lại rất tâm huyết, tận tâm với công
cuộc canh tân đất nước và tận tình với phong trào Đông Du. Động
cơ nào khiến họ tận tình và tận tâm với phong trào Đông Du? Đó
chính là chủ nghĩa yêu nước và những nhận thức mới của thời đại.
Họ không trực tiếp đến Nhật Bản nhưng tham gia phong trào Đông
Du qua nhiều hình thức: họ có thể gửi con em mình sang Nhật du
học, quảng bá hình ảnh phong trào Đông Du ở trong nước qua việc
tuyên truyền sách báo cổ động của các chí sĩ Đông Du, hình thức
có hiệu quả và thiết thực hơn là những món tiền không nhỏ mà họ

đóng góp đã làm giảm bớt được phần nào những khó khăn về tài
chính ở nơi đất khách quê người. Trong Duy Tân hội, Phan Bội
Châu đã thành lập một “ban kinh tài”. Họ vừa làm nhiệm vụ vận
động kinh phí, vừa tuyển mọo học sinh. Phần đông những yếu
nhân trong ban này là những thủ lĩnh cũ của phong trào Cần
Vương (Đội Quyên, Đội Quảng, Tán Quýnh) hoặc một số đồng chí
mới của Phan Bội Châu (Lê Võ, Đặng Thái Thân, Trần Văn Bỉnh).
Hầu hết những người trong ban kinh tài đều tán thành chủ trương
“bạo động” của hội Duy Tân nên trong quá trình hoạt động khuyên
góp họ còn mua sắm súng đạn, xây dựng các căn cứ để khi có điều
kiện sẽ làm cuộc bạo động toàn dân giải phóng đất nước. Hai nhân
vật tiêu biểu trong ban kinh tài là Đội Quyên và Đội Quảng.
- Đội Quyên (tên thật là Lê Quyên) sinh ra ở huyện Đức Thọ,
Hà Tĩnh. Khi phong trào Cần Vương bùng nổ, ông đã chiến đấu
dưới ngọn cờ của Phan Đình Phùng, trở thành một kỹ thuật viên
giúp Cao Thắng trong ban làm và thử nghiệm thuốc súng. Khi khởi
nghĩa Phan Đình Phùng thất bại, ông không chịu khuất phục. Giữa
lúc đó, ngọn cờ yêu nước của Phan Bội Châu đã làm ông nấc lòng,
ông được chuyển vào hoạt động trong ban kinh tài của hội Đông
Du.
- Ngô Quảng: sinh tại huyện Nghi Léc, tỉnh Nghệ An đã từng
tham gia phong trào Cần Vương ở Nghệ An, sau đó cũng gia nhập
và chiến đấu tích cực trong đội quân của Phan Đình Phùng. Khi
cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại, ông vẫn cùng Lê
Quyên kiên cường bám trụ trong nhân dân để hoạt động trước khi
tham gia ban kinh tài của hội Đông Du. Chính nhờ những hoạt
đông tích cực của Lê Quyên, Ngô Quảng và những người khác
như: Lê Võ, Tán Quỳnh, Đặng Thái Thân mà trong những năm đầu
phong trào Đông Du đã có được một số cơ sở kinh tế để đảm bảo
một phần kinh tế cho học sinh sang Nhật ăn học và hoạt động.

Cùng với giới thương nhân, chức sắc, đồng bào công giáo
đóng một vai trò to lớn trong sự nghiệp Đông Du. Sù gia nhập của
những người công giáo và phong trào chống thực dân trên đất
Trung Kỳ đã được Khâm sứ Trung Kỳ E. Groleau nói tới trong bản
phóc trình cuối nhiệm kỳ (số 107 ngày 11/2/1911) gửi lên toàn
quyền, trước khi ông ta rời nhiệm sở: “Những kẻ cầm đầu phong
trào đã lôi cuốn vào hàng ngò của họ nhiều linh mục và thầy giảng
công giáo vùng Nghệ Tĩnh bằng lời hưa sẽ nâng đõ giới công giáo
trong tương lai và bằng cách bày tỏ tình thân thiện, cũng có thể
bằng cả thoả hiệp về vật chất. Nh vậy, qua trung gian những người
Êy họ tạo được một ảnh hưởng chính trị rộng rãi trong quần chúng
công giáo tại vùng này…Và họ đã khuyên góp những số tiền khá
lớn vào việc gia tăng ngân sách cho phe Cường Để”. Vượt trên rào
cản của ý thức hệ, chủ nghĩa dân téc hẹp hòi, Phan Bội Châu nhận
thấy sự cần thiết phải điều hoà, đoàn kết lương giáo vì mục tiêu
giải phóng dân téc. Tư tưởng của ông đã được không Ýt giới trí
thức Thiên chóa ủng hộ. Cuối năm 1904, Phan Bội Châu, Đặng
Thái Thân ra Nghệ An cùng với Mai Lão Bạng, Ngô Quảng, linh
mục Thông ở Mộ Vĩnh (Thanh Chương), linh mục Chung (Quảng
Bình) triệu tập một cuộc họp ở làng Léc Thọ (xã Nghi Thọ- Nghi
Léc) thành lập Duy tân giáo đồ hội ở Nghệ Tĩnh. Trong giáo hội,
Phan Bội Châu đã có được những người đầy tâm phóc, đầy nhiệt
huyết nh: Ngô Quảng, Trần Văn Bỉnh, Mai Lão Bạng. Và khi đã có
tổ chức, có lực lương ban lãnh đạo Giáo đồ hội đã xúc tiến ngay
những công việc theo chủ trương của Duy tân hội.
Thứ nhất tuyên truyền trong giáo hội tinh thần yêu nước, xoá
bỏ thành kiến giáo- lương, đánh đuổi giặc Pháp, giành quyền độc
lập.
Thứ hai: kêu gọi các giáo dân hằng hái xúc tiến mở hiệu
buôn bán để chấn hưng thực nghiệp, quyên góp tài chính giúp các

học sinh xuất dương du học. Trong những năm 1906-1909, các hội
viên của Duy tân hội và một số giáo dân đã mở khá nhiều hội
buôn, hiệu buôn, vừa làm tài chính cho hội, vừa là nơi liên lạc giữa
những người cách mệnh: Triều Dương thương quán (của Đặng
Nguyên Cấn, Ngô Đức Kế… ở Vinh), hiệu Mộng Hanh (của Lê
Văn Huân ở chợ Trổ), hội buôn Tiên Long và cửa hàng Đông Thái
ở Đức Thọ, hội buôn Thuận Nghĩa ở Quỳnh Lưu, hội tằm của
Nguyễn Văn Hộ (Mỹ Dụ, Hưng Nguyên), hội buôn lá nón (Kẻ
Tùng), cửa hàng chợ huyện (Can Lộc)… Ngoài tiền đóng góp của
các hiệu buôn, hội buôn số tiền đồng bào lương giáo quyên góp
ủng hộ học sinh ngày càng tăng.
Thứ ba: tuyển chọn, gửi thanh niên công giáo xuất dương du
học cũng là việc lớn của Duy tân Giáo hội đồ. Năm 1908, Ban lãnh
đạo hội cử Mai Lão Bạng sang Nhật “tham gia việc ngoài”, để giới
thiệu những người công giáo gia nhập Duy tân hội.
- Mai Lão Bạng:
- Nguyễn Hộ cũng là giáo dân sinh ra và lớn lên ở Vinh
(Nghệ An). Ông tham gia hoạt động chống Pháp từ trong phong
trào Cần Vương. Tuy gia đình có điều kiện thuận lợi để cho ông
theo nghiệp khoa cử, song ông từ bỏ. Khi Pháp đánh chíêm thành
Nghệ An, ông đã tham gia cùng nhiều đồng chí khác và ông bị bắt
khi cuộc chiếm thành thất bại. Sau đó ông tiếp tục sự nghiệp cách
mạng của mình bằng cách tích cực ủng hộ phong trào Đông Du.
Nhiều lần bị địch bắt nhưng ông vẫn giữ khí tiết cách mạng. Khi
phong trào Đông Du tan rã, Nguyễn Hộ trở lại công việc của một
giáo dân tốt, xây dựng quê hương mong chờ thời cơ.
- Lê Khánh, thường được dân gọi với cái tên gần gũi “thầy
Già Khánh” (một danh từ dùng trong giáo hội thời Êy để chỉ sinh
viên đã vào học Đại chủng viện). Lê Khánh là người huyện Nghi
Léc (Nghệ An), thời thanh niên được theo học trong các chủng

viện (Tiểu chủng viện rồi Đại chủng viện). Cụ thân sinh hy vọng
sau này ông sẽ trở thành linh mục. Nhưng rồi vì cảm thấy nỗi nhục
của người dân mất nước, nên ông đã xuất tu, bỏ chủng viện ra đi
tìm đường cứu nước.Ông đã rất dau xót khi thấy nhân dân trong
cảnh lầm than cực khoỏ dưới ách thống trị của bọn thực dân. Ông
thường nghĩ: “Chúa đã lấy máu rửa cái dơ của đời này. Nay tổ
quốc đồng bào bị tai ách như thế, nếu chúng ra không biết bỏ mình
cứu vít, ngồi nhìn nước mất, chủng diệt thì tương lai sẽ tuyên giáo
cái gì?”. Sau khi ra khỏi chủng viện ông được tự do giao thiệp với
bên ngoài. Nhờ đó ông được Trần Văn Bỉnh giới thiệu với những
người phụ trách Duy tân hội và ông đã tích cực hoạt động cho
phong trào Đông Du. Hồi Êy tổ chức thường lấy xã Đoài làm nơi
liên lạc đi về. Sau nhiều lần trao đổi họ đã nhất trí với chủ trương
của Phan Bội Châu và thấy việc cấp thiết trước mắt là phải đoàn
kết lương giáo và đào tạo cán bộ. Do đó những người công giáo
yêu nước đã quyết định chọn trong hai chủng viện ở Xã Đoài một
số chủng sinh và gửi sang Nhật học. Vào năm 1909, phong trào
Đông Du tại Nhật Bản tan rã, Lê Khánh bị địch truy nã gắt gao
nhưng ông vẫn cố sức hoạt động để xây dựng lại cơ sở, sau đó Lê
Khánh bị bắt và bị giam ở nhà lao Vinh.
- Còng từ xã Đoài ra đi có người học thành tài, điển hình là
trưòng hợp Lưu Văn Quế (tức Yừn Đan hoặc Yến Đơn), khi được
sang Nhật du học đổi họ tên là Lý Trọng Bá (có sách còn chép là
Lưu Song Tử), vì nhập quốc tịch Trung Quốc nên được cấp học
bổng khá lâu dài. Yừn Đan đã tốt nghiệp trường cao đẳng công
nghiệp sau đó lại học tại trường Bách khoa và đạu kỹ sư công
chánh. Tuy vậy, sự không mấy thuận lợi của đất nước trong thời
gian này không cho phép anh trở về nước để phục vụ. Anh chính là
một trong không nhiều lưu học sinh của Đông Du thành đạt ở nước
ngoài; đó cũng chính là trái quả vui của một sự nghiệp còn dang

dở.

×