Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tiểu luận Bút pháp nghệ thuật và quan niệm sáng tác của tác giả trong tiểu thuyết Chốn Xưa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.42 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của văn học Trung Hoa vận động cùng với sự
phát triển của xã hội.Việt Nam chúng ta là nước chịu ảnh hưởng rất lớn của
nền văn hóa Trung Hoa điều này chúng ta không thể phủ nhận, đặc biệt là về
văn học chúng ta đã tiếp thu trên tình thần chọn lọc. Văn học Trung Hoa đã
sớm được bạn đọc Việt Nam yêu thích từ Đường thi, tiểu thuyết chương
hồi…
Vườn văn Trung Quốc đương đại đang rực rỡ khoe sắc với các tên tuổi
tiêu biểu như : Vương Mông, Mạc Ngôn, Trương Hiền Lượng, Giả Bình Ao,
Phùng Ký Tài, Trương Khiết, Thẩm Dung… Có một người tự nhận mình
không hợp với cái ồn ã của văn đàn Trung Quốc hiện nay, nhưng dường như
khi lạnh lùng với ánh hào quang của vòng nguyệt quế, ông lại được các văn
sỹ kính phục hơn cả. Đó là nhà văn Lý Nhuệ - một trong những cột trụ lớn
nhất của văn học Trung Quốc đương đại.
Sinh năm 1950 tại Bắc Kinh, Lý Nhuệ bắt đầu sự nghiệp viết văn từ năm
1970. Văn Lý Nhuệ sâu lắng, gần gũi với đời với người. Dù đề tài có khác
nhau nhưng các tác phẩm của ông đều xoay quanh một chủ đề duy nhất: khám
phá bản chất đời sống con người.
Năm 1998 Lý Nhuệ được bầu làm Phó chủ tịch hội nhà văn tỉnh Sơn
Tây. Năm 2003 ông từ chức và cũng xin rút khỏi hội nhà văn Trung Quốc,
làm một người viết văn tự do
Viết về đề tài lịch sử, Lý Nhuệ đã thổi vào đó cảm hứng hiện đại. Triết lí
mới về lịch sử, về con người được Lý Nhuệ thể hiện qua nghệ thuật tự sự vừa
truyền thống vừa hiện đại.
Hiện nay, việc tìm hiểu và nghiên cứu tác phẩm của Lý Nhuệ chưa được
giới nghiên cứu Việt Nam chú ý nhiều. Chúng tôi chọn tiểu thuyết “Chốn
xưa” làm đề tài nghiên cứu cho niên luận của mình.
2.Lịch sử vấn đề
Chỉ trong 347 trang, Chốn xưa đã phản ánh chiều dài lịch sử Trung
Hoa cận đại đầy khốc liệt. Bằng cách biểu tượng hóa các giá trị và lực lượng


xã hội thành những con người và sự việc cụ thể, với lối viết không gian đồng
hiện, thời gian lịch đại xếp chồng, lịch sử đã được dồn nén tối đa, có khi chỉ
trong một trang ông đã nén lại cả chiều dài nhiều thập kỷ. Đồng thời , kỹ
thuật thể hiện tương phản giúp chuyển tải được đầy đủ tính khốc liệt của lịch
sử, qua đó cho thấy thái độ quyết liệt không khoan nhượng của tác giả , chính
những điều này đã làm nên thành công lớn của tác phẩm.
Đọc Chốn xưa người đọc có cảm tưởng như có hai nước Trung Hoa,
một Trung Hoa đầy tính nhân văn đáng kính và một Trung Hoa bạo liệt, thổ
phỉ. Phải chăng đất nước rộng lớn này kết hợp cả hai nền văn minh lúa nước
và du mục nên đã sản sinh ra một Trung Hoa đầy mâu thuẫn.
Ấn tượng lớn nhất sau khi đọc Chốn xưa, không phải là bi kịch của từng
cá nhân mà là bức tranh toàn cảnh – LỊCH SỬ – lịch sử vô lý là nhân vật
chính trong tiểu thuyết của ông.
Nói như Vương Trí Nhàn, trong khi miêu tả lịch sử, Lý Nhuệ đã mang
lại cho nó một “bộ mặt người”.
Chốn xưa giúp người đọc hiểu rỏ về một thời đại lịch sử đã qua, từ đó
giúp chúng ta tránh lập lại những sai lầm của lịch sử. Chúng ta hiểu quá khứ
để sống cho hiện tại và hướng đến tương lai
3.Đối tượng nghiên cứu
Sở dĩ người viết chọn nghiên cứu về thế giới nhân vật, bởi tìm hiểu về
nhân vật chính là công cụ tốt nhất để người đọc thấu hiểu và đồng cảm được
với tác giả . Nhân vật là thành quả lao động nghệ thuật thiết thực nhất của
người nghệ sĩ. Mỗi tác giả bao giờ cũng tạo dựng cho mình một thế giới nhân
vật riêng biệt, nhận diện những gương mặt ấy là nhiệm vụ của bạn đọc trước
khi bước vào thế giới nghệ thuật riêng của nhà văn.Chính vì vậy niên luận này
xin nghiên cứu về khía cạnh nhân vật trong tác phẩm “Chốn xưa” của nhà văn
Lý Nhuệ.
4.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện Niên luận này người viết sử dụng phương pháp tiếp cận,
phân tích văn bản, phương pháp nghiên cứu tài liệu thống kê, tổng hợp cùng

các phương pháp khác.
Ngoài phần mở đầu và kết luận công trình này gồm có 3 chương:
Chương 1:Nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật
Chương 2:Nhân vật trong tiểu thuyết “Chốn xưa”
Chương 3:Bút pháp nghệ thuật và quan niệm sáng tác của tác giả
Nội dung
Chương 1:Nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật
1.1.Khái niệm nhân vật văn học
Nói đến văn học nhân vật là nói đến con người được miêu tả,thể hiện
trong tác phẩm bằng phương tiện văn học.Nhân vật đó chính là phương tiện
cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng.Miêu tả con
người, đó chính là việc xây dưng nhân vật của nhà văn.Ở đây cần chú ý rằng,
nhân vật trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ,đó
không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ
là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề
nghiệp, tính cách…
Giáo trình Lý luận văn học(Hà Minh Đức chủ biên) định nghĩa về nhân
vật “Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời
sống trong một thời kì lịch sử nhất định”
Trong 150 thuật ngữ văn học Lại Nguyên Ân,cho rằng: “Nhân vật văn
học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người, nó có thể
được xây dựng chỉ dựa trên cơ sở quan niệm ấy”.
Có thể thấy nhân vật là một phương diên quan trọng nhất để thể hiện tư
tưởng của tác phẩm. Nó được đặt ở phương diện hàng đầu trong hình thức của
tác phẩm, quyết định phần lớn cốt truyện, ngôn ngữ. Các nhân vât liên kết
với nhau tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Hệ thống nhân vật bộc lộ nội
dung tác phẩm nhưng có khi tự nó lại là một trong các phương diện kết cấu
tác phẩm
1.2.Nhân vật từ tiểu thuyết truyền thống đến tiểu thuyết
hiện đại

Nhân vật trong tiểu thuyết từ truyền thống tới hiện đại là cả một quá trình
phát triển, có sự cách tân, có sự đổi mới. Sự đổi mới chỉ có thể hiểu được
trong mối liên hệ với truyền thống. Nói như vậy có nghĩa là nhân vật trong
tiểu thuyết truyền thống và nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại-giữa chúng
không phải chỉ có sự đối lập và khác biệt mà có thể có sự tồn tại song song
của những yếu tố truyền thống bên cạnh yếu tố hiện đại, yếu tố mới.
Chương 2:Nhân vật trong tiểu thuyết “Chốn xưa”
2.1.Vài nét về tác giả Lý Nhuệ và cuốn tiểu thuyết
Tác phẩm Chốn xưa được dịch sang tiếng Việt đầu năm 2007, từ khi
xuất bản Chốn xưa của Lý Nhuệ đã được nhiều nhà nghiên cứu trong nước
giới thiệu. Chốn xưa” Dữ dội, bi thảm đó là những ấn tượng đầu tiên mà
Chốn xưa -”một trong những cuốn sách đáng kinh ngạc nhất về Trung Quốc”
với độc giả Việt Nam trong thời gian gần đây
Lấy bối cảnh tại Ngân Thành, một vùng tỉnh lẻ chuyên nghề làm muối
mỏ, Chốn xưa xoay quanh số phận chìm nổi của hai dòng họ thanh thế Lý và
Bạch trong dòng xoáy thảm khốc của lịch sử Trung Hoa thế kỷ hai mươi. Qua
hơn ba trăm trang truyện, Lý Nhuệ đã đưa người đọc trở lại chốn xưa và thuở
xưa, từ những ngày danh gia vọng tộc với ghế kiệu, phòng trà, Cửu Tư đường
thâm nghiêm và Bạch viên xa hoa lộng lẫy cho đến buổi thời thế đổi thay,
những cuộc binh biến, bạo loạn rồi Đại cách mạng Văn hóa, và câu chuyện
dừng lại ở những tháng ngày hiện tại. Hiện lên trên phông nền lịch sử đầy
sóng gió ấy là thân phận bất hạnh của các nhân vật. Từ người trung hậu tiết
nghĩa đến kẻ bất nhân phải loạn, bậc vương tôn công tử cho đến người gánh
nước thuê…tất cả cuối cùng đều trở thành vật hiến sinh cho những cuộc cách
mạng, những cuộc thảm sát và tắm máu. Câu chuyện khép lại bằng hình ảnh
Lý Kính Sinh, người con trai duy nhất còn lại của dòng họ Lý nhận được tin
người bác ruột Lý Tử Vân đã chết trong một chung cư dành cho người già
trên đất Mỹ.
2.2.Cuộc đời các nhân vật trong tiểu thuyết “Chốn xưa”
Lý Nãi Chi sinh năm 1910 thời Tuyên Thống – vị hoàng đế cuối cùng.

Lý Nãi Chi có hai người chị là Lý Tử Hận và Lý Tử Vân. Cha mẹ chết sớm,
chị em Nãi Chi ở cùng với Lý Nãi Kính tộc trưởng họ Lý của Cửu Tư Đường.
Năm 17 tuổi, Lý Nãi Chi chứng kiến cái chết của người thầy Triệu Bá Nho bị
hành hình sau cuộc bạo động Thu Thu của nông dân, anh bị chấn động. Vậy
là, cuộc thảm sát tháng 12 năm 1927 ở Ngân Thành đã tạo nên một thanh niên
bi phẫn. Trong nhật ký anh viết: “….Tôi làm thế nào để thoát khỏi cái thế
giới này?…Có cần thiết phải thay đổi cái thế giới bị tê liệt này không?…Sống
như thế này không chút hứng thú, buồn thảm vô cùng! Đọc lại “Gào thét”
của Lỗ Tấn, lẽ nào mọi người đều như kẻ ăn thịt người trong “Nhật ký người
điên” cả hay sao?… Nghe chị Vân nói, tin tức trên tỉnh và ở các tỉnh khác,
càng cảm thấy Trung Quốc thật sự vô vọng.” Rời Ngân Thành lên tỉnh học,
Nãi Chi tham gia phong trào sinh viên biểu tình, diễn thuyết trên đường phố,
rải truyền đơn chống Nhật. Cuối cùng, chỉ còn một tháng nữa tốt nghiệp, anh
bị đuổi học. Nãi Chi bình thản từ chối tấm bằng đại học. Được Cách mạng
móc nối anh tham gia hoạt động bí mật, lợi dụng là người nhà với dòng họ
Cửu Tư Đường làm vỏ bọc, anh trở về Ngân Thành trà trộn với những người
công nhân đào muối. Vì lý tưởng anh hiến dâng cả sự sống và tình yêu của
mình. Nãi Chi từ chối mối tình của Bạch Thu Vân, đi hoạt động cách mạng
cho đến khi bị Quốc dân đảng bắt giam kết án tử hình năm 1939. Nhờ người
chị thứ hai: Lý Tử Vân – vợ của tướng Dương Sở Hùng (một vị tướng của
Quốc dân đảng) can thiệp, trên pháp trường xử bắn, “ theo mật lệnh của
Dương Sở Hùng, viên đạn lẽ ra phải xuyên tim anh thỉ chỉ bắn gãy xương
sườn”, Nãi Chi được hai người chị cứu sống. Trốn thoát, anh được Bạch Thu
Vân chăm sóc, nàng cùng anh tham gia cách mạng đến ngày thắng lợi. Nãi
Chi sống ở Bắc Kinh và sau đó từ Cục trưởng anh lên Thứ trưởng, đúng lúc
thời “Đại cách mạng văn hóa” loại bỏ những phần tử có lý lịch “tư sản tự
do”. Vậy là, Lý Nãi Chi chỉ trong một đêm biến thành kẻ phản bội, gián điệp
nằm vùng cùng mấy thứ trưởng được đưa lên Trường cán bộ 7/5, cải tạo lao
động. Nãi Chi được phân công chăn bò trên nông trường giá lạnh. Vào một
đêm giá rét, trong chuồng bò ở tỉnh Giang Tây, Lý Nãi Chi bị thổ huyết và

chết lặng lẽ khi ngoài trời tuyết bay trắng xóa. Đến lúc chết Nãi Chi vẫn còn
thảng thốt viết chi chít trên tờ Nhân dân nhật báo một từ: “…cách mạng, cách
mạng, cách mạng, cách mạng… chữ dày ken, chữ nọ nối tiếp chữ kia. Không
ai hiểu ông viết thế để làm gì, không ai hiểu tâm trạng ông khi viết những chữ
ấy lên trang báo”. Nó vẫn còn là một dấu hỏi?
Bạch Thu Vân là con gái của Bạch Thụy Đức, một nhà doanh nghiệp có
thực lực tài chính hùng hậu ở Ngân Thành. Bạch Thụy Đức du học từ Mỹ về
đem theo những kiến thức khoa học kỹ thuật làm thay đổi phương thức sản
xuất lạc hậu. Ông là người đầu tiên đưa cơ giới vào khai thác muối, sản xuất
muối theo phương thức hóa học, cũng là người đầu tiên ở Ngân Thành mua ô
tô Ford bốn máy, xây biệt thự tráng lệ kiểu Tây phương. Gia đình Bạch Thu
Vân và biệt thự Bạch Viên trở thành cảnh Tây trong con mắt người Ngân
Thành. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình thương gia giàu có nhưng Bạch
Thu Vân là một tiểu thư khuê các có đầu óc cấp tiến, nàng được gia đình cho
lên tỉnh học cùng trường với Lý Tử Vân chị của Lý Nãi Chi. Biết Nãi Chi yêu
mình nhưng từ chối, Thu Vân đau khổ. Về sau, khi Lý Nãi Chi bị án tử hình
vượt thoát, nàng lén trốn gia đình, bỏ học quyết tâm theo người yêu, không sợ
gian khổ, hiểm nguy. Bạch Thu Vân và Lý Nãi Chi sinh được ba người con
Lý Kinh Sinh, Lý Diên An và Lý Tiểu Nhược. Ngày chồng bị bắt cải tạo, họ
để lại cho nàng một tờ “Mệnh lệnh”, bắt nàng phải “triệt để phân rõ ranh giới
với tên phản bội, gián điệp, phải tố giác tội trạng, đồng thời trong một ngày
gần đây sẽ phải tham gia đội lao động cải tạo lũ tà ma quỷ quái, nếu không
sẽ chung số phận không đáng bãi cứt chó như Lý Nãi Chi”. Trương Tài, viên
quản lý đội cải tạo lao động là một công nhân nông nghiệp, rất thô khỏe.
Được làm đội trưởng đội cải tạo anh vui lắm, vì ngày nào cũng nắm trong tay
các quan ông, quan bà. Trong đội, hắn đặc biệt rất khoái Thu Vân, đơn giản vì
nàng là quan to nhất. Vợ thứ trưởng. Ngày đầu tiên, hắn phân công nàng đảo
phân ở hai cái bể lớn để múc phân tưới rau, hành hạ nàng như một thú vui.
“Hôm nay đội ta có thêm một nhân vật cỡ bự, bà phu nhân thứ trưởng, hãy
nhìn đôi găng tay này, trắng qúa! Tôi nghe nói, hiện tại y không được phát

lương nữa, tiền tiết kiệm cũng bị tổ chuyên án giữ, bây giờ thì chúng ta bình
đẳng như nhau. Tôi làm lụng cả đời mà cũng không có nổi đôi găng tay này,
vậy bà nghĩ bà là thứ của quý gì? Bà còn tỏ ra là lá ngọc cành vàng ở đây
hay sao, bà cũng như những người kia, mẹ kiếp bà, bà cũng chỉ là đồ cứt
chó!”. Bạch Thu Vân trải qua hai năm cải tạo lao động, trở thành một công
nhân nông nghiệp đúng tiêu chuẩn, làm cỏ, cắt lúa, gánh nước, quạt thóc, hái
bông, phun thuốc trừ sâu… việc gì cũng thạo. Đến một ngày mệt mỏi tận
xương tủy, không chịu đựng được nữa nàng uống thuốc ngủ tự tử, mong lấy
cái chết để chấm dứt cuộc sống tù túng, mòn mỏi và khốn khổ.
Bé Lý Chi Sinh cháu trai của tộc trưởng Lý Nãi Kính khi vừa chào đời
mẹ chết, lại đúng vào lúc cả gia tộc 32 người đàn ông nhà Cửu Tư Đường bị
đem xử bắn “vì là bọn địa chủ phản cách mạng”. Mồ côi cha mẹ, Chi Sinh
được Lý Tử Hận đem về nuôi. Cuộc “Đại cách mạng văn hóa” 1966 Chi Sinh
mới là cậu bé vừa lên trung học, em bị lũ bạn cùng lớp đánh hội đồng vì là
“chó con của nhà Cửu Tư Đường”. Hai hôm sau, lũ bạn học của Chi Sinh,
tràn vào bắt “chó con” Chi Sinh lên cầu “Hồng Vệ” để “tẩy não”. Tất cả
những ai bị gọi là “yêu ma quỷ quái”(từ của Mao chủ tịch viết trong cuốn cẩm
nang) đều bị dẫn lên cầu, ném xuống sông Ngân Khê. Những ngày ấy, quần
chúng cách mạng trống giong cờ mở đứng chật hai bờ sông. Bé Chi Sinh khóc
lóc, kêu la thảm thiết cũng chẳng ích gì, em cũng bị lôi lên cầu và ném xuống
sông.
Ông Đông đầu bạc trắng – người gánh nước thuê cho gia đình Cửu Tư
Đường – là tên nô lệ trung thành - vì nhảy xuống sông cứu Chi Sinh, nên bị
đòn hội chợ máu me đầm đìa, ngất xỉu. Cả hai một trẻ một già đều bị ném trở
lại dòng sông cuộn xiết, trong tiếng hò reo rầm trời.
Lý Tử Hận chị cả của Lý Nãi Chi và Lý Tử Vân là một người đàn bà
mang đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ phương Đông. Người con
gái xinh đẹp, mảnh mai nhưng lại có một nghị lực phi thường. Nhẫn nhục hy
sinh suốt cuộc đời vì người thân. Từ năm lên bảy, đã nhận trách nhiệm của
người cha căn dặn trước khi ông mất: “ Tử Hận, con đã bảy tuổi, con là chị,

có câu này cha dặn con phải nhớ: tất cả không là gì, chỉ có sự học là cao
nhất. Các em con lớn lên, nhất thiết con phải để các em học hành nên người”.
Bắt đầu từ đó nàng đã gánh trách nhiệm làm cha và cả làm mẹ dạy dỗ hai em.
Năm hai mươi bốn tuổi, khi Lý Nãi Chi và Lý Tử Vân băn khoăn không
muốn lên tỉnh học vì lo chị một mình ở quê nhà, Tử Hận đã dùng nhan châm
tự hủy hoại nhan sắc của mình, ăn chay niệm Phật để cho hai em toàn tâm ý
lên tỉnh học, không bận tâm về mình. Khi dòng họ Cửu Tư Đường 32 người
từ già đến trẻ bị bắn chết, Tử Hận đem đứa cháu mới sinh mồ côi cha mẹ của
dòng họ về nuôi cho đến ngày đứa trẻ bị ném xuống cầu “Tẩy nảo”. Lặng lẽ
chôn cất người thân, Tử Hận sống âm thầm và sau đó chết trong ngôi nhà
hoang vắng ở Cửu Tư Đường không một ai hay biết.
Kết thúc tác phẩm là cái chết cô đơn của Lý Tử Vân vợ tướng Dương Sở
Hùng – người cuối cùng của nhà Cửu Tư Đường – tại khu chung cư người già
ở bang Virginia, nước Mỹ vào những năm cuối thập kỷ 80 thời Trung Quốc
đổi mới.
Thông qua những cái chết của hai dòng họ Lý, Bạch, tác giả phản ảnh rõ
nét bi kịch con người trong dòng chảy lịch sử Trung Hoa suốt thế kỷ 20.
2.3.Ý nghĩa những cái chết trong tiểu thuyết “Chốn xưa”
Trong một lần phỏng vấn người ta hỏi ông: “Trong tiểu thuyết của ông
có nhiều người bị giết và nhiều cảnh giết người, ông định nói lên điều gì?”.
Lý Nhuệ trả lời: “Một bộ lịch sử nhân loại cũng có thể coi đấy là một bộ
lịch sử tàn sát. Thông thường, một nhóm người này muốn chứng tỏ và quán
triệt một ý chí này, đã tàn sát một nhóm người khác; sau một thời gian, nhóm
người kia muốn chứng tỏ và quán triệt ý chí, lại tàn sát nhóm người này.
Cuối cùng, lịch sử sẽ vứt bỏ tất cả những cái gọi là ý chí thuộc về con người,
để những số phận bị tiêu diệt tỏ rõ nỗi cô đơn, đau khổ và sự hoang đường vô
lý… Hầu hết những nhân vật chính trong tiểu thuyết của tôi đều chết, họ
không làm anh hùng để chết, họ chết trong dòng chảy của lịch sử…Không thể
trốn chạy cái chết những năm tháng ấy, ý nghĩa của những cái chết và bao
năm tháng cuộc đời mất đi khiến tôi cảm thấy sâu sắc nỗi đau của con người

vì con người”.
Thầy giáo Triệu Bá Nho – tượng trưng cho những nhà nho yêu nước làm
cách mạng thời kỳ đầu say mê và tin tưởng vào lý tưởng của chủ nghĩa Mác
mặc dù biết cuộc khởi nghĩa sẽ thất bại, bản thân không cho phép cậu học trò
Lý Nãi Chi tham gia, nhưng vẫn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân, bình
thản lên pháp trường xử trảm.
Trần Cẩu Nhi – tượng trưng cho tầng lớp nông dân tham gia bạo lực cách
mạng rất nhiệt tình và hiệu quả do lòng đố kỵ và hận thù giai cấp mà không
có chút khái niệm về lý tưởng chính trị nào, loại người có công với cách mạng
nhưng kém hiểu biết cũng nhanh chóng trở thành tai họa của nhân dân.
Lý Nãi Kính tộc trưởng nhà Cửu Tư Đường – tượng trưng cho thành
phần Trung Hoa phong kiến cổ truyền – sống nhân nghĩa, trách nhiệm, khôn
ngoan lèo lái cả gia tộc vượt qua bao thăng trầm binh biến, loạn lạc nhưng
cuối cùng thời “Tập thể hóa ruộng đất” – dòng họ nhiều đời mở hầu bao cứu
trợ, giúp đỡ biết bao người nghèo khổ học hành- lại bị cách mạng đem xử bắn
vì được xem là thành phần địa chủ “phản cách mạng”.
Lý Nãi Chi – một trí thức mới mang khát vọng lớn lao muốn thay đổi xã
hội – dám từ bỏ mảnh bằng đại học, tham gia cách mạng những ngày đầu để
cuối cùng trong “Đại cách mạng văn hóa” vì không chứng minh được lý lịch
“trong sạch” của mình, phải đi cải tạo chăn bò và chết âm thầm trên nông
trường lạnh giá.
Lý Tử Hận – tượng trưng cho giá trị nhân văn cao cả của truyền thống
Trung Hoa – hy sinh suốt cuộc đời vì người thân, rốt cuộc cũng không bảo vệ
được đứa cháu đích tôn bị “quần chúng” vứt xuống sông “tẩy não”, sau đó
chết âm thầm trong ngôi nhà Cửu Tư Đường không ai hay biết.
Bạch Thu Vân, con gái một thương gia giàu có nức tiếng Ngân Thành –
tượng trưng cho lớp nhà giàu mới, ảnh hưởng Tây học, sẵn sàng vì tình yêu
theo chồng tham gia cách mạng, cuối cùng vẫn bị xem là “tiểu thư thối tha
con nhà tư sản” bị đày ải lao động trên nông trường, mệt mỏi đói khổ đến
cùng cực phải tự tử để thoát khỏi sự khổ ải của kiếp người.

Đó là những bi kịch.
Cái “chân lý” mà biết bao người hy sinh khi đi tìm, không ngờ đã lần
lượt giết chết họ. Đầu thế kỷ 20, khi người Trung Hoa đang lúng túng đi tìm
lối thoát cho một xã hội phong kiến đến thời suy tàn, họ phân vân giữa nhiều
ngã đường – phóng tầm nhìn sang Nhật, sang Tây,…bất ngờ chạm đến chủ
nghĩa Marx-Lenin, cứ ngỡ phát hiện ra “chân lý”, cái gọi là chân lý mang tính
“khoa học” đó đã được Mao Trạch Đông bùa phép cho tham vọng cá nhân và
chủ nghĩa dân tộc – biến Trung Hoa thành một chảo dầu sôi.
Trãi qua bao biến động của đất nước, Lý Nhuệ thấm thía nhận ra điều
cay đắng: “Tính vô lý của lịch sử đã tàn nhẫn dìm chết sinh mạng con người,
khiến tôi thể nghiệm sâu sắc rằng lịch sử vô lý nhất lại được tạo ra từ nhân
loại có lý tính nhất, con người tự tạo ra cảnh khốn cùng không thể giải thoát
của chính mình. Đó là một bi kịch lớn, một nỗi đau vô cùng tận”.
Đó còn là sự vô lý trong cách mà mỗi con người lao theo cái ác với toàn
bộ ý chí một cách tự nguyện.
Lưu Quang Đệ, nhân danh bước đi của lịch sử vì quyền lợi của giai cấp
vô sản đạp lên tình nhà hủy hoại giá trị truyền thống Trung Quốc, xung phong
bắn phát súng đầu tiên vào ông trẻ của anh là Lý Nãi Kính- được coi là phần
tử “phản cách mạng”. Tại sao Lưu Quang Đệ người cháu ruột phải tỏ ra hồ
hởi ra tay đối với chính người họ hàng của mình. Người thân tự tay giết người
thân – người Trung Quốc giết người Trung Quốc, nhân danh tư tưởng đấu
tranh giai cấp được du nhập từ phương Tây.
Lý Diên An con gái Lý Nãi Chi, một cô gái xinh đẹp, giới trí thức thành
phố. Xung phong ghi tên lên vùng núi Thiểm Bắc để “trở thành một điển
hình”. Cô quyết “làm cho người lấm bùn đất, tay thành chai” để thay đổi thịt
da xương cốt, cải tạo bản thân. Phân rõ ranh giới với bố là một Thứ trưởng.
Tình nguyện lấy Lệch một nông dân chăn cừu, không biết chữ, cả đời không
tắm, hôi thối bẩn thỉu – cốt sao để thế hệ sau của mình là thành phần nông dân
ưu tú của cách mạng như lời Mao chủ tịch: “Sạch sẽ nhất là công nhân và
nông dân, cho dù tay họ đen bẩn, chân họ giẫm vào phân bò thì vẫn còn sạch

hơn giai cấp tư sản, tiểu tư sản và cả trí thức nữa”. Khi nghe tin mẹ chết, cha
chết cô không về thăm, không chịu để tang. Diên An thản nhiên lý lẽ: “là
đảng viên không làm điều lạc hậu, không để chuyện này ảnh hưởng đến công
tác cách mạng xây dựng đồng ruộng Đại Trại của đội, hơn nữa đã phân rõ
ranh giới với gia đình rồi, không về.”
Một người ngu dốt như Lệch còn biết : “Người nhà quê rất xem trọng
hai người: người sinh ra mình, người mình sinh ra. Cha mẹ chết mà không để
tang chẳng hóa ra súc vật hay sao?”
Tại sao một trí thức có học vấn như Diên An lại không hiểu đạo đức tối
thiểu của một con người?
Tất cả sản phẩm đó chính là hậu quả giáo dục con người mới xã hội chủ
nghĩa của Mao Trạch Đông. Dưới thời Mao chủ tịch mọi giá trị truyền thống
tốt đẹp của Trung Hoa đều bị đào tận gốc, trốc tận rễ, thay vào đó là tham
vọng cá nhân và chủ nghĩa cơ hội. Những con người như Lưu Quang Đệ, Lý
Diên An không phải là cá biệt, giai đoạn đó những người như họ là phổ quát
(11) – họ sẵn sàng phá bỏ những vật cản, ngăn trở bước đường tương lai của
họ, cho dù đó là cha mẹ, vợ chồng, anh em dòng họ. Tất cả những điều đó đã
tạo ra một “xã hội mất gốc” đạo đức cổ truyền bị chà đạp, nhân phẩm con
người suy đồi và tha hóa đến mức “Không có một công thức đạo đức giản dị
nào mà nhà trường có thể chuyển tải”. Chính tác giả Lý Nhuệ cũng từng nhìn
nhận: “Nửa thế kỷ trở lại đây, truyền thống văn hóa Trung Quốc bị tan rã
khủng khiếp và thất bại thảm hại…(…)…Tôi cảm nhận được nỗi khổ về tinh
thần của người Trung Quốc, và tôi dùng tiểu thuyết để biểu thị nỗi khổ ấy”
Chốn xưa mổ xẻ mọi ung nhọt của chủ nghĩa Mao một cách thẳng
thừng.Tác giả vạch rõ bản chất thật của những ngụy tín, hư ảo, sự ngu dốt của
một thể chế đã phá nát nền tảng đạo đức của một đất nước, giết chết tâm hồn
bao thế hệ, hậu quả di hại đến tương lai đời sau.
Chương 3:Bút pháp nghệ thuật và quan niệm sáng tác của
tác giả
Với bút pháp lạnh lùng, bạo liệt, Lý Nhuệ vạch trần tường tận xã hội tàn

bạo mà ông từng sống một cách không khoan nhượng: từ đầu đến cuối tác
phẩm toàn là máu người. Mở đầu bằng những cái chết của 108 phần tử phản
cách mạng, óc bắn tung trắng xóa điểm “lốm đốm trắng đỏ như sương mùa
thu” trên bức tường đá; cuộc thảm sát 3.800 nông dân bạo động, người bị bắn
người bị chặt đầu, máu nhuộm đỏ dòng Ngân Khê, 57 đảng viên cộng sản bị
chém và bị bêu đầu ở cổng thành khắp năm huyện suốt một năm ròng, bêu
cho đến khi thịt nát tóc rụng biến thành những cái xương sọ; 10 đội viên xích
vệ nông dân bị trói vào cột gỗ, biến thành mười đống lửa kêu gào thảm
thiết…hai hôm sau, có người còn thấy mười cái thi thể cháy dở co rúm, run
rẩy trên những cọc gỗ cháy đen.
Hãy xem tác giả miêu tả cái chết của đội trưởng Xích vệ Trần Cẩu Nhi
và cái chết của thầy giáo Triệu Bá Nho với lối miêu tả tương phản gay gắt:
Trần Cẩu Nhi lãnh đạo đội Xích vệ nông dân bị lột sạch quần áo, bị trói
vào cọc gỗ, đao phủ cắt bộ phận sinh thực rõ to “đã từng được thưởng thức
vô số các bà các cô khắp năm huyện” khi đội Xích vệ tạm thời chiếm được
thành địa phương – Chỉ mới mấy tháng trước những người nông dân đời đời
kiếp kiếp đói nghèo đón chào bạo động tưng bừng như đón Tết, Trần Cẩu Nhi
như hung thần cầm lưỡi hái, đi đến đâu chém sạch đến đấy, “có rất nhiều đầu
người đỏ máu buộc dây treo lủng lẳng, giống như đèn lồng treo khắp đường
làng ngõ xóm vào mỗi dịp Tết đón xuân” – Cẩu Nhi mất cái của đàn ông, máu
chảy đầm đìa, mắt nhìn miếng thịt không còn dùng được nữa bị vứt ra kia,
anh ta kêu gào chửi bới…tiếng gào khản đặc, vỡ vụn không còn ra tiếng gào
của con người. Tên đao phủ lại cắt lưỡi Cẩu Nhi, Cẩu Nhi không nói được
nữa, vẫn trừng mắt, giãy giụa trên cái cọc gỗ, miệng phun từng búng máu –
anh ta vẫn đang chửi, vẫn giãy giụa, cho đến khi tên đao phủ cầm trái tim còn
nóng trên tay mới đột ngột dừng lại. Chỉ trong khoảnh khắc, tất cả mọi người
có mặt tại hiện trường đều kinh ngạc, kẻ giết người và người xem giết người
đều kinh hãi bởi sự phẫn nộ xung thiên của Trần Cẩu Nhi. (tr 17-20)
Thầy giáo Triệu Bá Nho bước lên đoạn đầu đài, mặc áo dài, cái kính vẫn
trên sống mũi, vẫn giản dị, nho nhã, dáng vẻ ung dung, bình tĩnh như mọi khi,

thầy vuốt mái tóc rũ xuống trước mặt, lộ rõ khuôn mặt tiều tụy và nhợt nhạt
của kẻ thất bại. Thầy chỉ vào biển người xem ông bị hành hình, nói: Không
thể giết hết quần chúng lao khổ! Không thể giết hết những người cộng sản!;
… Hãy nhìn thế giới ngày mai, phải là thế giới cờ đỏ! Tiếp theo, ba tên đao
phủ nắm chặt hai cánh tay thầy giáo đẩy thầy nằm trên một thớt gỗ vừa to vừa
bẩn, một tên giơ cao lưỡi búa to bản, chỉ nghe thấy một tiếp phập, chém
phăng cái đầu chứa đầy kiến thức và lý tưởng, chứa đầy chủ nghĩa và chân
lý, chứa đầy những câu thơ và ý nghĩ cháy bỏng. (tr 20-21)
Lối viết tương phản, mang tính tượng trưng cao, còn thể hiện ở cái chết
về mặt thể xác của Lý Tử Hận và cái chết về mặt tinh thần của Lý Diên An.
Cái chết của Tử Hận là sự kết thúc của một giai đoạn lịch sử đã qua ,
nhưng giá trị tinh thần nhân văn của nó vẫn mãi trường tồn. Tử Hận chết
nhưng “đức hy sinh” của cô vẫn là tấm gương đẹp cho người đời sau: “Hàng
xóm nói, khi họ phá cửa vào thì thấy bộ xương nằm trên cái giường gỗ đàn
hương có chạm khắc hoa văn, ruồi nhặng ào ào bay ra cửa, ruồi nhặng đen
đặc, tưởng chừng xô ngã cả người.(…)…Tất cả vô cùng ngạc nhiên phát
hiện, thi thể bà Sáu trong trang phục đẹp như cô dâu về nhà chồng. Xung
quanh bà toàn lụa là gấm vóc, những tấm gấm hoa do bàn tay bà tự thêu.
Mọi người cùng nín thở, lặng lẽ nhìn bộ xương được bọc trong gấm vóc, cùng
nghĩ đến người đàn bà có một không hai ở Ngân Thành này. Không ai biết bà
chết từ lúc nào, cũng không ai biết bà chết trong đau khổ hay sướng vui, càng
không ai biết tại sao bà lại tô điểm cho cái chết đẹp như thế, khiến họ phải
kinh ngạc và sợ hãi”.
Đến đây, người đọc tinh tế sẽ liên tưởng ngay đến hình ảnh Lý Tử Hận
hàng ngày ngồi bên khung cửa thêu những tấm gấm hoa rực rỡ, tấm áo cô dâu
mà bất cứ người con gái nào cũng ao ước được một lần mặc trong đời. Thì ra,
tuy đã tự mình dùng một bó nhang đang cháy đỏ đâm vào mặt, hủy hoại nhan
sắc để cả đời không nghĩ đến chuyện lấy chồng, cho hai em toàn tâm toàn ý
ăn học, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn Lý Tử Hận vẫn luôn ước mơ về hạnh
phúc riêng tư, điều này càng làm tăng thêm ý nghĩa đẹp đẽ của sự hy sinh đó.

Ước mơ “mặc áo cô dâu trong ngày cưới” đã được nàng thực hiện khi chết.
Qua đó, người đọc càng thấm thía hơn sự chịu đựng âm thầm của Tử Hận
suốt những tháng năm dài. Lẽ tự nhiên, bất cứ người con gái nào, sắc đẹp
cũng là điều quan trọng nhất, có ai dám tự hủy hoại dung nhan xinh đẹp của
mình? thế mà Tử Hận đã làm. Tôi nghĩ, tác giả Lý Nhuệ đã phải dụng công
rất nhiều cho sự hy sinh “rất đẹp” này ngay từ những hình ảnh đầu tiên, người
đọc tưởng chừng bình thường nhưng lại ẩn nhiều hàm ý – trong cái chết mục
rửa về mặt thể xác ấy – lại sáng bừng lên một tâm hồn cao cả.
Ngược lại với Lý Tử Hận là cái chết về mặt linh hồn của Lý Diên An .
Đêm hợp hôn của Diên An và Lệch chính là đêm Diên An tự giết linh hồn
mình. Nhà văn Lý Nhuệ đã rất tài tình khi miêu tả đám cưới và “đêm động
phòng” có một không hai này, vì nó quá đặc biệt.
Lần đầu tiên gặp Lệch, biết là anh chăn cừu, không biết chữ, thành phần
bần cố nông thứ thiệt, hôm sau Diên An chủ động gặp và đề nghị cưới nhau
để được …báo chí đưa tin “điển hình”. “Sau khi nhận giấy đăng ký kết hôn,
Diên An đưa Lệch mười đồng và bộ đồ mới, nói Lệch đến nhà tắm công cộng
tắm. Lệch vui lắm, mặt đỏ bừng vì cả đời Lệch chưa tắm bao giờ. Lệch đến
nơi thì nhà tắm đang sửa chữa, tạm nghỉ. Đành lặn lội về thôn, bộ đồ mới vẫn
kẹp nách vì biết rằng đây là bộ đồ động phòng. Hôn lễ đúng như Diên An nói,
cách mạng hóa. Cô dâu chú rể cúc cung bái lạy Mao chủ tịch ba lạy, đọc hai
đoạn lời dạy của Người, sau đấy ông bí thư nói: hai người hát bài Đông
phương hồng. Hát xong, ông bí thư sốt ruột, vỗ tay: Xong rồi, nhập phòng đi
thôi. Phòng ở là một cái hang khoét trong lòng đất trên cao nguyên hoàng thổ,
tối đen. Cho đến khi ăn cơm tối xong, thắp đèn, trải giường trải chiếu. Lệch
đành thú nhận chưa tắm được, xin lỗi vợ nếu mình sợ bẩn để tôi nấu chút
nước rửa qua. Nhưng chậu nước nhỏ chỉ mới rửa được nửa thân trên. “Khi
Diên An đẩy cửa bước vào, Lệch vội lấy tay che nửa người dưới, anh ta nói
…Mình…Diên An ngước lên, rồi vội nhắm mắt lại. Cô không ngờ Lệch to
khỏe và bẩn đến thế. Lệch nói: Mình xem, nửa chậu nước không đủ…Diên
An đi sâu vào trong hang, thổi tắt đèn, lập tức bóng tối bao trùm như trong

huyệt mộ bịt kín. Trong bóng tối dày dặc, Diên An cởi bỏ từng chiếc áo quần
rồi nói: Em quyết làm việc này đến cùng”. Nhưng khi cái cơ thể to khỏe và
rắn chắc bao bọc bởi hơi đàn ông và mùi gây của cừu dê đè xuống, Diên An
đau như bị dao đâm, cô đẩy, đánh, kêu la, giãy giụa.(…) Thế nhưng, sáng
hôm sau cô nhìn Lệch và nói: Em nghĩ kỹ rồi, em sẽ làm việc này đến cùng.”
Tôi nghĩ, Lý Nhuệ đã cố tình miêu tả “điều ấy” diễn ra trong một hang
sâu trong lòng đất, tối đen như huyệt mộ, làm người đọc liên tưởng đến hành
động của những động vật cấp thấp.
Đối với người con gái, điều thiêng liêng nhất là sự trong trắng. Bất cứ cô
gái nào cũng mong muốn dâng hiến sự trong trắng của mình cho người đàn
ông mà mình yêu thương, quý trọng. Thế nhưng, Diên An đã làm gì cuộc đời
cô? Tôi nghĩ rằng giây phút hợp hôn chính là giây phút linh hồn cô đã chấm
dứt, chính cô là người chủ động giết chết linh hồn mình.
Thế nhưng, đọc kỹ lại trường đoạn đám cưới, có điều gì đó bi thảm hơn
ẩn sâu từ ngữ lạnh lùng của tác giả, tôi phân vân: có thật Diên An không yêu
quý tấm thân trong trắng của mình, có thật cô không hối tiếc khi tự dâng hiến
đời mình cho một người đàn ông dơ bẩn, ngu dốt mà cô không hề yêu
thương? Tôi không tin, bởi hình ảnh: “…dòng nước mắt trào ra nóng hổi, rơi
lã chã trong đêm đông vắng lặng năm 1969” khi cô đứng ngoài hang chờ
Lệch tắm? Tại sao cô phải cắn răng âm thầm khóc? Có điều gì đó còn kinh
khủng hơn nếu không bằng mọi cách được là người “bần cố nông”.
Đó chính là lời tố cáo khủng khiếp nhất về một thể chế đã biến con người
sống không ra sống, chết không ra chết, hành động như một cỗ máy.
Người xưa nói lịch sử tạo tính cách, quả không sai. Con người làm sao
thoát nỗi dòng chảy của lịch sử.
Chính lối miêu tả lạnh lùng, tương phản này đã gây hiệu ứng cảm xúc
mạnh cho độc giả, tăng tính bạo liệt của sự việc.
Bên cạnh đó, Chốn xưa có nhiều trường đoạn miêu tả lắng đọng như
cảnh Thư ốc Trời Xanh tại Cửu Tư Đường của dòng họ Lý, hay vẻ thơ mộng
và hùng tráng của dòng Ngân Khê xanh thẫm. Đặc biệt, trường đoạn mô tả

nghề làm muối tại thành phố Ngân Thành vừa hoành tráng vừa bi thương:
“Hai bờ sông Ngân Khê là những giá ròng rọc sừng sững, những đường ống
dẫn muối dọc ngang, thuyền mua muối cắm sào đậu san sát nơi bến sông,
nghe thấy điệu hát kéo xe quặn lòng của những người công nhân chở muối.
Một trăm tám mươi đàn ông, vai gùi nặng, người cúi rạp đi về phía trước như
những con ngựa thồ hàng. Theo tiết tấu bài hát, nước muối từ dưới sâu hơn
trăm trượng múc lên mặt đất. Điệu hát bắt nguồn từ những gùi muối trên lưng
tạo nên sức mạnh lay động lòng người. Ngồi bên xe lĩnh xướng là chị em
được thuê ở viện Phù dung và lầu Hoa đào, việc các cô làm được gọi là “ngồi
mâm xe”. Những ngày nắng nóng, các cô ngồi mâm xe để lộ bờ vai tròn lẳn
và cặp đùi trắng nõn. Có lúc để an ủi những “ngựa” ở càng xe, chị em cất
giọng thỏ thẻ hát điệu “khúc bài” hoặc điệu “áo hồng loan” hoặc “chuồn
chuồn ngọc”, hát những bài mà các cô không làm nổi và vĩnh viễn không bao
giờ làm nổi:Từ nay đoạn tuyệt lại qua/Khóa lầu ngọc, tẩy phấn son, không
làm con hát/Lấy anh bán rau cùng vui cuộc sống/Bỏ mặc chuyện người,
chuyên việc mình tôi.” ( tr 95-96)
Với phương pháp lập đi lập lại sự kiện và các mốc thời gian: cuộc bạo
động của nông dân 5 huyện thuộc Ngân Thành tháng 12 năm 1927: 3.800
nông dân bị bắn chết, 57 đảng viên bị chém bêu đầu, 57 bộ xương sọ; vào tiết
sương giáng năm 1951: 108 người bị hành hình, 32 người đàn ông nhà họ
Lý… quá khứ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Chốn xưa như một vòng
xoáy sai lầm, tạo ám ảnh về tính vô lý của lịch sử, khiến độc giả bị day dứt
không thể nào quên.
Ngoài ra, Lý Nhuệ thường sử dụng tài tình thủ pháp đồng hiện của điện
ảnh. Trong cùng một thời gian tác giả miêu tả nhiều sự việc xảy ra cùng một
lúc ở nhiều không gian cách xa nhau, nhằm mở rộng tầm nhìn bao quát cho
độc giả. Chỉ trong một tích tắt Lý Nhuệ đã đưa người đọc đi từ Ngân Thành
đến Bắc Kinh rồi sang Đài Loan, qua những thước phim ngoạn mục: “ Vào
lúc óc của ba mươi hai người đàn ông dòng họ Lý dính đầy bức tường, Lý Tử
Hận ngất trong căn nhà trống rỗng, Lý Nãi Chi cưỡi trên chiếc máy kéo

Staline 55 chạy băng băng trên cánh đồng phì nhiêu và Lý Kinh Sinh oa oa
chào đời, nhà họ Lý chỉ còn một người mặc tang phục kêu khóc thảm thiết, đó
là Lý Tử Vân, chị ba của Lý Nãi Chi. Nhưng Tử Vân không khóc vì gia đình
họ Lý mà khóc chồng là tướng Dương Sở Hùng, khóc vì chồng chết ở nơi đất
khách quê người mà lễ truy điệu có long trọng đến mấy cũng không thay đổi
số trời định.” (tr 12)
Lý Nhuệ là nhà văn có lối viết cổ điển, ông viết theo sự dẫn dắt của nội
tâm. Mặc dù sau này tác giả vẫn chưa ưng ý về mặt hình thức nhưng với tôi,
chính vì không áp dụng nhiều kỹ thuật Chốn xưa mang vẻ đẹp giản dị, tự
nhiên của người viết lần đầu mà mọi dồn nén bấy lâu được thỏa sức tuôn trào.
Trong một lần phỏng vấn, người ta hỏi ông: “ Ông có bị ảnh hưởng thủ
pháp kể chuyện (tự thuật) của Borges, nhất là cách vận dụng thời gian và
không gian?
Lý Nhuệ trả lời: “Không biết tôi có bị ảnh hưởng của Borges hay không.
Cứ theo lòng mình để suy ra, tôi vẫn chưa bằng lòng về sự cố gắng của mình
đối với hình thức của Chốn xưa. Tôi vẫn nghĩ, về hình thức nên chăng đi xa
hơn nữa?…Xa “tả thực” hơn, gần ngụ ngôn và “tả ý” hơn….( ) Nhưng tôi
cho rằng, hình thức tuyệt nhiên không phải là một thứ thao tác mang tính kĩ
thuật bề ngoài, hình thức phải tuôn trào rất tự nhiên và chân thành từ trong
thế giới nội tâm nhà văn, ở đấy, bất cứ một chút làm dáng hoặc lên gân nào
cũng sẽ chôn vùi bản thân tác phẩm và tác giả. Thời đại chúng ta rất dễ bị
“thời thượng” nhận chìm, thà rằng tôi tin ở nội tâm và tình cảm mình.”
Đánh giá ngòi bút Lý Nhuệ, nhà phê bình Vương Trí Nhàn viết: “… Lý
Nhuệ gợi lại ấn tượng về một dòng văn xuôi có cái chất sang trọng, quý
phái… Điều mà người ta cần nhớ từ trường hợp Lý Nhuệ, đó là mỗi ngòi bút
phải giữ riêng lấy sự đơn độc tinh thần, không theo đuôi, không bầy đàn, việc
đi tìm cái mới không phải là một trò chơi trội mà cũng thiêng liêng và đầy
thách thức như mọi việc khác của đời sống”
Thật vậy, với văn phong mãnh liệt pha trộn cổ điển và hiện đại, văn ông
mang nặng chiều sâu, với lối viết tương phản, tưởng chừng bình dị nhưng

từng chi tiết đều có dụng ý, mang đầy tính tượng trưng hàm nghĩa bao quát,
sâu rộng. Chốn xưa phảng phất thơ Đường, mang phong vị cổ điển. Điểm
xuyết trong tác phẩm là những hoành phi, câu đối, thơ Đường của Tô Thức,
bút tích của Tô Đông Pha.
Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng cảnh báo những nguy cơ tiềm ẩn
của chủ nghĩa dân tộc cực đoan phục vụ cho các ý đồ chính trị bành trướng
nhất thời của một thể chế, nguy hại không chỉ cho dân tộc Trung Hoa mà cho
cả các dân tộc khác. Những thế hệ như Lý Diên An, như Lưu Quang Đệ vẫn
còn, và tác hại của nó sẽ khôn lường.
Nhưng tôi hy vọng, với một dân tộc đã từng có một nền văn minh rực rỡ
khiến cả nhân loại phải kính ngưỡng, Trung Hoa sẽ biết cách vượt qua những
giới hạn để phát triển trên tinh thần nhân văn cao đẹp, phù hợp với xu thế phát
triển chung của nhân loại.
Với tác phẩm Chốn xưa, Lý Nhuệ chứng tỏ là một nhà văn tự do, bản
lĩnh, ngòi bút ông không quỵ lụy quyền lực, không kỵ húy lịch sử, ông viết
theo tiếng gọi của con tim, như lời ông nói: “ Tôi rất ghét cái lịch sử vô lý,
ghét cay ghét đắng cái lịch sử vì “mục đích hợp lý” mà giết người hợp lý. Có
lẽ đó là di sản văn hóa? Nghe đã quá nhiều những lời bịp bợm thiêng liêng. …
Cái gọi là “lịch sử khách quan chân thực” chớp mắt trở thành những lời dối
trá. Tất cả những lời dối trá đều coi thường sinh mạng con người. Tôi muốn
vớt những sinh mạng bị chết sặc bởi những lời dối trá lên cho mọi người
xem…”
Kết luận:
Nếu căn cứ vào những giai đoạn lịch sử kế tiếp, những sự kiện lịch sử cụ
thể được ken dày trong tác phẩm, người đọc dễ lầm tưởng Chốn xưa là một
cuốn tiểu thuyết lịch sử. Thế nhưng, tái hiện lịch sử dường như không phải là
mục đích Lý Nhuệ hướng tới, khám phá ra những phẩm chất tâm hồn cũng
như số phận bi kịch của mỗi cá nhân và của cả một cộng đồng, một dân tộc
trong những biến cố thảm khốc nhất, đó là điều Lý Nhuệ tìm kiếm trong
Chốn xưa. Bằng những trang viết có sức lay động mạnh mẽ, Lý Nhuệ đã giúp

độc giả có cái nhìn sâu sắc hơn về dân tộc mình, một dân tộc của những đấng
trượng phu, những bậc liệt nữ và cả bọn sát nhân tàn bạo, một dân tộc luẩn
quẩn trong vòng dựng xây để rồi tự hủy, một dân tộc khổ đau nhiều hơn hạnh
phúc, một dân tộc mà trang nào trong lịch sử cũng hằn in những cuộc thanh
trừng, thảm sát, tắm máu. Khách quan khi nhìn nhận lịch sử nhưng lại đầy
xúc cảm khi tái hiện trước mắt người đọc thân phận của mỗi con người, Lý
Nhuệ đã thành công khi viết về nỗi đau của những cuộc đời bị vùi dập và hủy
hoại trong dòng chảy lịch sử. Những cái chết đau đớn, nhiều khi man rợ, kinh
hoàng của các nhân vật xuất hiện đều đặn ở mỗi chương đoạn tác phẩm là
minh chứng sâu sắc cho thân phận bất hạnh của con người, cho sự vô lý, thậm
chí vô nghĩa của những cuộc binh biến. Chốn xưa sẽ là một tác phẩm hay và
hoàn thiện nếu như Lý Nhuệ tiết chế bớt xúc cảm của mình dành cho các
nhân vật, đặc biệt là các nhân vật nữ, điều này khiến mạch chuyện đôi chỗ bị
kéo dài hơn mức cần thiết. Thế nhưng, dòng chảy cảm xúc mãnh liệt ấy là
điều có thể lý giải, khi nhiều chi tiết trong tác phẩm bắt nguồn từ câu chuyện
có thật về gia đình nhà văn.
Xin mượn lời của Lý Nhuệ để kết thúc bài viết này: “Xưa nay, sự tồn tại
của văn học chưa bao giờ giảm bớt nỗi khổ dù chỉ một chút xíu, nhưng sự tồn
tại của văn học luôn chứng minh sự tàn nhẫn của áp bức bóc lột, luôn chứng
minh cái giá của những sinh mạng bị đọa đày đau khổ, luôn chứng minh nỗi
buồn của con người tự trói mình, luôn chứng minh con người nên được hạnh
phúc tự do”.
Tài liệu tham khảo:
1.Vân Anh, Chốn xưa một cuốn sách đáng kinh ngạc nhất về Trung
Quốc
2.Lại Nguyên Ân chủ biên(1983), Số phận của tiểu thuyết, NXB tác
phẩm mới, Hà Nội
3.Đặng Anh Đào(2007) ,Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện
đại, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội
4.Hà Minh Đức chủ biên(2001), Lý luận văn học,NXB Giáo dục, Hà Nội

5.Lê Bá Hán chủ biên, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,Từ điển thuật
ngữ văn học, in lần 3, nxb ĐHQGHN, 1968
6. Lý Nhuệ, Chốn xưa, (Sơn Lê dịch), nxb Hội nhà văn, 2007.
7. Minh Tuệ, Chốn xưa và nỗi đau ám ảnh .
8.Trần Đình Sử, Giáo trình dẫn luận thi pháp
9.Trần Đình Sử chủ biên, Tự sự học:một số vấn đề lí luận và lịch sử, nxb
ĐHSP, 2004
10.Số phận tiểu thuyết, nxb Tác phẩm mới, 1993

×