Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận quản trị sản xuất TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ CỔ PHẦN HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.57 KB, 34 trang )

Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ CỔ PHẦN HÓA
I. Cơ sở lý luận về tài chính doanh nghiệp:
1. Cấu trúc tài chính doanh nghiệp:
Cấu trúc tài chính doanh nghiệp là những mô hình tài chính của doanh nghiệp
được xây dựng trong một chu kỳ kinh doanh, gắn liền với mục tiêu chiến lược cho
một thị trường và thời gian cụ thể. Một cấu trúc tài chính hợp lý, an toàn, hiệu quả trở
thành động lực kinh tế quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Cấu trúc tài chính là sự hỗn hợp giữa nợ và vốn. Cấu trúc vốn và cấu trúc tài
chính lệch nhau về nợ ngắn hạn. Cấu trúc tài chính trong doanh nghiệp có thể tiếp cận
ở 2 góc độ:
+ Cấu trúc vốn tài sản thể hiện cơ cấu các loại phương tiện, tài sản mà doanh
nghiệp sử dụng để thực hiện mục đích kinh doanh.
+ Cấu trúc nguồn tài trợ thể hiện các nguồn lực tài chính có trong nền kinh tế
mà doanh nghiệp có thể huy động được.
Cấu trúc vốn là sự hỗn hợp giữa nợ dài hạn, vốn chủ sở hữu và lợi nhuận. Một
cấu trúc vốn phù hợp là quyết định quan trọng nhằm tối đa hóa lợi ích và quyết định
tới năng lực kinh doanh của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh. Cấu trúc vốn
tối ưu liên quan đến việc đánh đổi giữa chi phí và lợi ích của doanh nghiệp.
+ Tài trợ bằng vốn vay tạo ra “lá chắn thuế” cho doanh nghiệp, đồng thời
giảm mức độ phân tán các quyết định quản lý. Mặt khác, gánh nặng nợ tạo áp lực với
doanh nghiệp (chi phí vay nợ).
+ Tài trợ từ vốn góp cổ phần không làm gia tăng chi phí sử dụng vốn cho
doanh nghiệp. Tuy nhiên, các cổ đông có thể can thiệp vào hoạt động điều hành doanh
nghiệp, làm loãng quyền quản lý doanh nghiệp.
2. Khuynh hướng tài trợ:
Trong nền kinh tế thị trường, để đồng vốn được hoạt động hiệu quả thì phải có
sự chuyển dịch vốn từ kênh nhàn rỗi, kênh dư thừa, kênh chưa có nhu cầu đầu tư sang
kênh thiếu hụt, kênh có nhu cầu đầu tư. Có 2 kênh tài trợ chính là tài trợ trực tiếp và
tài trợ gián tiếp, thể hiện qua sơ đồ sau:


Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 1
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
2.1. Tài trợ trực tiếp:
Tài trợ trực tiếp là việc huy động vốn thông qua thị trường tài chính. Trong đó,
thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế
hiện đại. Một nền kinh tế muốn phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững trước hết
phải đáp ứng đủ nhu cầu về vốn đầu tư. Tới một lúc nào đó, nhu cầu vốn này vượt quá
khả năng đáp ứng của các kênh huy động truyền thống. Mà trên thực tế, đang tồn tại
một lượng vốn rất lớn trong cộng đồng dân cư chưa tham gia vào hoạt động sản xuất
kinh doanh, gây mất cân đối trong nền kinh tế, đó là những người có cơ hội đầu tư
sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu
tư, dẫn đến vốn bị ứ đọng, gây lãng phí. Xuất phát từ nghịch lý này, thị trường chứng
khoán đã ra đời đóng vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng, góp phần thúc đẩy quá trình
tích tụ, tập trung, phân phối vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế.
2.2. Tài trợ gián tiếp:
Thông qua các trung gian tài chính bao gồm: ngân hàng, công ty bảo hiểm,
công ty tài chính, quỹ đầu tư… Trong phạm vi tiểu luận này, ta chỉ tập trung khuynh
hướng tài trợ gián tiếp thông qua các ngân hàng thương mại.
Trung gian tài chính là những tổ chức thực hiện huy động nguồn tiền của
những người tiết kiệm cuối cùng và sau đó cung cấp cho những người cần vốn cuối
cùng.
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 2
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ
thanh toán.

Nguồn vốn tài trợ gián tiếp giữ vai trò quan trọng đảm bảo luân chuyển vốn
nhanh, hiệu quả, an toàn và tiết kiệm chi phí đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
3. Xác định giá trị doanh nghiệp:
3.1. Khái niệm giá trị doanh nghiệp:
Giá trị doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp. Xác
định giá trị doanh nghiệp được hiểu và thừa nhận một cách rộng rãi là việc điều tra chi
tiết, đánh giá các hoạt động của công ty nhằm xác định giá trị hiện hữu và tiềm năng
của một doanh nghiệp.
3.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp:
Có hai phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp thường được sử dụng là:
- Phương pháp tài sản: là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở
đánh giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm xác định
giá trị doanh nghiệp.
- Phương pháp dòng tiền chiết khấu: là phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp trên cơ sở khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai.
3.3. Đối tượng xác định giá trị doanh nghiệp:
Các công ty:
- Đã và đang chuẩn bị Cổ phần hóa.
- Dự kiến sẽ có những thay đổi đáng kể về quyền sở hữu hoặc cơ cấu vốn của
công ty: sáp nhập, liên doanh, liên kết, chuyển nhượng vốn, mua bán công ty hoặc
nhượng quyền kinh doanh…
- Chuẩn bị phát hành trái phiếu lần đầu tiên ra công chúng.
- Đang trên đà phát triển và mở rộng qui mô.
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 3
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
3.4. Ý nghĩa của việc xác định giá trị doanh nghiệp đối với quá trình cổ phần hóa:
Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một vấn đề có ý nghĩa quyết định sự
thành công quá trình cổ phần hoá. Một mặt nó đảm bảo lợi ích thiết thực của chính
công ty thực hiện cổ phần và lợi ích của người mua, doanh nghiệp hay các thành viên

trong công ty cổ phần khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghịêp nhà nước. Mặt khác nó
còn có yếu tố tâm lý cho các thành viên tham gia mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Vì
vậy việc xác định giá trị doanh nghiệp có ý nghĩa:
- Trợ giúp cho quá trình chuyển đổi cơ cấu về vốn chủ sở hữu:
+ Cổ đông hoặc nhà đầu tư muốn nắm bắt một cách chi tiết về tình hình hiện
tại của công ty trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
+ Các cơ hội và tiềm năng phát triển trong tương lai.
- Chuẩn bị cho việc phát hành trái phiếu ra công chúng lần đầu (IPO).
- Cải thiện tình hình hoạt động chung của công ty trước thực trạng hoạt động
kém hiệu quả:
+ Quá trình “Xác định giá trị doanh nghiệp” sẽ đánh giá một cách khách quan
các điểm mạnh và điểm yếu của công ty.
+ Giúp công ty đánh giá một cách khách quan các cơ hội, tiềm năng và gia tăng
giá trị cho các cổ đông hiện tại và tương lai.
- Lợi ích của qui trình “Xác định giá trị Doanh nghiệp” là khả năng tổng hợp,
đánh giá, phân tích và khớp lại các dữ liệu quá khứ và triển vọng phát triển trong
tương lai của doanh nghiệp trong một bản báo cáo chính xác và toàn diện.
- Chỉ ra những thay đổi cần thiết về hệ thống tài chính, cơ cấu thành phần cổ
đông hoặc cấu trúc doanh nghiệp.
- Đưa ra những phân tích về hệ thống quản trị và điều hành công ty, đồng thời
cung cấp những đánh giá về năng lực đối với một số các vị trí nhân lực chủ chốt.
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 4
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
II. Cơ sở lý luận về cổ phần hóa:
1. Khái niệm cổ phần hóa:
Cổ phần hóa là hình thức đa dạng hóa quyền sở hữu đối với mọi thành phần
kinh tế, chuyển từ giai đọan tập trung tư bản sang giai đọan tập trung vốn xã hội để
nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.
Ở nước ta cổ phần hóa là việc chuyển đổi các doanh nhiệp Nhà nước thành

Công ty cổ phần nhằm đa dạng hóa các hình thức sở hữu, thực chất là phát triển hình
thức sở hữu hỗn hợp phục vụ cho việc tăng nguồn lực cho sản xuất, kinh doanh vì lợi
ích của người lao động.
2. Bản chất cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước:
Cổ phần hóa chính là phương thức thực hiện xã hội hóa quyền sở hữu, tức là
chuyển từ hình thái kinh doanh một chủ sở hữu là nhà nước thành công ty cổ phần với
nhiều chủ sở hữu thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau, là mô hình doanh nghiệp
phù hợp với nền kinh tế thị trường.
3. Kinh nghiệm cổ phần hóa từ các nước:
Chỉ trong hai năm 2004-2005, hơn 60 nước đã thực hiện gần 400 trường hợp
cổ phần hóa với tổng giá trị khoảng 90 tỷ USD. Hai nền kinh tế mới nổi là Trung
Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ đóng góp hơn 1/3 các hoạt động này với giá trị tính bằng USD
tương ứng là 18 tỷ và 12,6 tỷ. Ấn Độ và Pakistan cũng đặc biệt tích cực với tổng giá
trị hoạt động cổ phần hóa tương đương 8 tỷ USD.
Từ thực tế cổ phần hóa ở các nước trong vài thập kỷ qua có thể rút ra một số
kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, phải xem xét nghiêm túc đến lợi ích của người lao động. Tình trạng
người lao động bị mất việc là một vấn đề cần xem xét, thường gặp phải sự phản kháng
mạnh mẽ từ người lao động, các chính trị gia và những ngành khác trong xã hội.
Thứ hai, cổ phần hóa cũng phải đi kèm cải cách thị trường, một mặt tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi cho chủ sở hữu mới hoạt động có lãi nhưng đồng thời,
đảm bảo lợi ích của công chúng.
Thứ ba, Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc ban hành Hệ thống các văn
bản pháp luật mang tính nhất quán và hiệu quả để thực hiện tiến trình cổ phần hóa.
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 5
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
Thứ tư, cần nhận thức rằng chính sách cổ phần hóa là một bộ phận của chương
trình cải cách kinh tế theo hướng thị trường. Để có thể hấp dẫn các nhà đầu tư và tối
đa hóa nguồn thu, nhà nước phải bảo đảm môi trường kinh doanh đủ hấp dẫn bằng các

cải cách liên quan và chính sách kinh tế lành mạnh.
Thứ năm, kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy một trong những vấn đề nảy
sinh trong quá trình cổ phần hóa chính là thất thoát tài sản nhà nước. Ở Trung Quốc,
một số doanh nghiệp cổ phần trong quá trình cải tổ đánh giá thấp giá trị tài sản. Tình
trạng thường gặp là lấy một bộ phận tài sản hữu hình qui ra cổ phần bằng nguyên giá
trị, ví dụ như đánh giá giá trị đất đai như lúc mua, không tính thêm phần giá tăng theo
thị trường.
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 6
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
PHẦN II: THỰC TIỄN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ ĐÁNH GIÁ
QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC:
I. Thực tiễn về tài chính doanh nghiệp:
1. Thực tiễn cấu trúc tài chính doanh nghiệp:
Trước hết ta xem xét nguồn vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay thể
hiện qua bảng sau:
VỐN BÌNH QUÂN TRÊN 1 DOANH NGHIỆP (Đơn vị: tỷ đồng)
Loại DN
2004 2005 2006 2007
1. DN Nhà nước
265 354 475 626
2. DN ngoài nhà nước
6.0 6.6 8.0 12.4
3. DN FDI
142 143 155 172
Nguồn: Tổng cục thống kê
Qua bảng thống kê trên, ta có thể thấy doanh nghiệp nhà nước có vốn bình
quân trên một doanh nghiệp lớn nhất, thấp nhất là các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp ngoài nhà nước đa phần là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Tốc độ tăng vốn của doanh nghiệp nhà nước nhanh hơn các doanh nghiệp

ngoài nhà nước và doanh nghiệp FDI, cho thấy doanh nghiệp nhà nước được bổ sung
vốn từ ngân sách nhà nước tăng qua các năm.
Ta xem xét hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp Việt Nam qua
bảng sau:
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 7
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
HỆ SỐ NỢ TRÊN VỐN CHỦ SỞ HỮU
Loại DN 2004 2005 2006 2007
1. DN Nhà nước 2.68 3.22 3.50 3.30
2. DN ngoài nhà nước 1.55 1.77 1.80 1.73
3. DN FDI 1.19 1.32 1.34 1.48
Nguồn: Tổng cục thống kê
Từ bảng trên ta thấy các doanh nghiệp nhà nước có hệ số nợ trên vốn chủ sỡ
hữu lớn nhất, cho thấy các doanh nghiệp nhà nước vay nợ nhiều thể hiện tỷ lệ đòn bẩy
lớn và tính rủi ro cao. Điều này chứng tỏ khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhà
nước dễ dàng hơn các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp FDI.
2. Thực tiễn khuynh hướng tài trợ:
2.1. Thông qua thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày
20/7/2000 đánh dấu một bước phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Mặc dù
quy mô còn nhỏ bé song bước đầu đã thu hút được sự quan tâm của công chúng đầu
tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nó cũng là một trong những kênh huy động vốn
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển
kinh tế đất nước. Theo Bộ Tài Chính mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt
Nam tính đến cuối tháng 12/2009 vào khoảng 620 ngàn tỷ đồng tương đương gần
38% GDP năm 2009. So với cuối năm 2008 (225 ngàn tỷ đồng), mức vốn hóa đã tăng
gần gấp 3 lần.
Có thể thống kế nguồn vốn huy động được thông qua thị trường chứng khoán
theo hình sau:

Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 8
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
Nguồn: Ủy Ban chứng khoán nhà nước
Nguồn vốn huy động thông qua thị trường chứng khóan từ những năm mới
hình thành rất ít và có sự tăng vọt trong những năm 2006, 2007 khi thị trường chứng
khoán phát triển và giảm trong năm 2008, 2009 khi Việt Nam đối mặt với khủng
hoảng kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp không ít khó khăn và những hạn chế. Điều đầu
tiên đáng nói là thị trường của chúng ta chưa thực sự trở thành một công cụ để huy
động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. So với quy mô của các thị trường khác, thì
thị trường của chúng ta còn quá nhỏ bé. Hàng hoá trên thị trường đã tăng về quy mô,
song thực sự là chưa tương xứng. Có nhiều nguyên nhân cho vấn đề này, nhưng có thể
thấy rõ là quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm.
Xét về khía cạnh đóng góp của thị trường chứng khoán vào việc huy động vốn
của doanh nghiệp cũng có 2 mặt. Vào thời điểm thị trường chứng khoán phát triển
nóng, việc huy động vốn dễ dàng hơn so với với thời điểm thị trường trầm lắng, các
nhà đầu tư thờ ơ với việc công ty niêm yết phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn mà
không quan tâm đến khả năng hoạt động kinh doanh thực sự của doanh nghiệp.
2.2. Thông qua các trung gian tài chính:
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 9
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
Hoạt động tài trợ vốn thông qua các trung gian tài chính chủ yếu là các ngân
hàng thương mại. Tính đến tháng 11 năm 2009, cả nước có 453,800 doanh nghiệp vừa
và nhỏ chiếm 90% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, lực lượng đông đảo này đã
đóng góp hơn 26% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tạo ra khoảng 26% công ăn việc
làm trong cả nước. Có sự đóng góp đáng kể này, nhưng hầu hết các doanh nghiệp vừa
và nhỏ này đều gặp khó khăn về nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Ở nhiều nước, doanh
nghiệp ra đời bao giờ vốn tự có cũng là chính, còn ở Việt Nam doanh nghiệp ra đời

vốn điều lệ rất ít (bình quân 1 doanh nghiệp vừa và nhỏ dưới 10 tỷ đồng), hoạt động
sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay.
Về lý thuyết doanh nghiệp Việt Nam đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
với đặc thù vốn ít, nhưng là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng của các ngân hàng.
Bằng chứng là, ước tính có đến 80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ là từ kênh ngân hàng. Còn về phía Ngân hàng, cho vay dựa trên tính hiệu quả,
khả thi của phương án, đề án kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhưng trên thực tế thì doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận vốn ngân
hàng. Theo thống kê số vốn ngân hàng mà doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận chỉ đáp
ứng 30% nhu cầu. Mặc dù là đối tượng khách hàng tiềm năng nhưng rõ ràng giữa
doanh nghiệp vừa và nhỏ và Ngân hàng vẫn còn một khoảng cách. Theo điều tra của
Cục Phát Triển Doanh Nghiệp – Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư vào tháng 9 năm 2007 thì
chỉ có 33 % doanh nghiệp có khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng, 49% doanh
nghiệp khó tiếp cận và 18% doanh nghiệp không tiếp cận được. Nguyên nhân của vấn
đề này có thể là do:
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ năng lực tài chính hạn chế, vốn thấp, trình độ quản
lý kinh doanh thấp, tính minh bạch chưa cao, chưa có khả năng lập dự án…
- Ngân hàng chưa thực sự đổi mới cách phục vụ đối tượng doanh nghiệp vừa
và nhỏ, còn thụ động trong tiếp cận, nắm bắt và phân tích hoạt động của các doanh
nghiệp, chính sách khách hàng chưa rõ, chưa sát, chưa cụ thể (thể hiện trong quy định
về xếp loại khách hàng, lãi suất). Cơ chế tín dụng vẫn giữ nguyên từ quốc doanh sang
các thành phần kinh tế khác.
Vì thế bản thân doanh nghiệp vừa và nhỏ cần nâng cao trình độ quản lý, kinh
doanh, đặc biệt cần có cơ chế tài chính minh bạch; các ngân hàng cần đổi mới cung
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 10
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
cách cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, tích cực tham gia cùng doanh nghiệp
từ khâu lập dự án, giám sát thực hiện, thậm chí đào tạo cho doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước: hoạt động chưa hiệu quả, năng lực điều

hành còn yếu kém, cơ chế sáp nhập phân chia không rõ ràng Giai đoạn 2000-2003
dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng (chủ yếu là Ngân hàng thương mại quốc
doanh) đối với các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng cao 70%/tổng dư nợ của hệ
thống ngân hàng và tỷ lệ này giảm dần qua các năm đến tháng 3 năm 2009 chỉ còn
36%. Nguyên nhân là do giai đoạn 2000, các ngân hàng rất ưu ái cho các doanh
nghiệp nhà nước, do cơ chế cho vay đảm bảo bằng tài sản nhà nước, vay theo chỉ thị
theo chương trình của chính phủ. Về sau, các ngân hàng càng nhận thấy các doanh
nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ không hiệu quả và theo xu hướng của cơ chế thị
trường cũng như sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các ngân hàng thương mại, thì
các ngân hàng cũng phải lựa chọn kênh đầu tư cho vay hiệu quả và an toàn hơn.
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
% Dư nợ cho vay/tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng đối với DNNN qua các năm
Như vậy, doanh nghiệp nhà nước cần có sự thay đổi về thể chế, cơ cấu tổ chức,
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh để có thể tiếp cận vốn.
3. Thực trạng xác định giá trị doanh nghiệp:
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 11
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
Từ 1992 đến nay, việc xác định giá trị doanh nghiệp có nhiều diễn biến phức
tạp, có thể được xem xét qua các giai đoạn sau:
3.1. Giai đoạn từ 08/06/1992 đến 07/05/1996:
Trong giai đoạn này, việc xác định giá trị doanh nghiệp chủ yếu phục vụ cho
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Xác định giá trị doanh nghiệp trong
giai đoạn này chủ yếu được tiến hành theo phương pháp có điều chỉnh theo thông tư
số 36/TC-CN hướng dẫn xử lý một số vấn đề tài chính khi thực hiện thí điểm chuyển
một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần theo tinh thần nghị quyết số
202/CT ngày 08/06/1992, là hướng dẫn đầu tiên từ phía cơ quan nhà nước. Theo
thông tư này, giá trị doanh nghiệp bao gồm giá trị tài sản cố định, tài sản lưu động,
được đánh giá lại sau kiểm kê và chi phí ban đầu về quyền sử dụng đất, lợi thế doanh
nghiệp. Về nguyên tắc căn cứ xác định giá trị doanh nghiệp là thực trạng những tài

sản thuộc nguồn vốn nhà nước, hệ thống giá sau tổng kiểm kê theo quy định của nhà
nước. Các yếu tố tạo ra hiệu quả, triển vọng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
(như uy tín của doanh nghiệp, vị trí địa lý…), các khoản thuộc phạm vi thua lỗ, nợ
nần, hàng hóa tồn kho kém, mất phẩm chất… nằm trong giá trị doanh nghiệp.
Giai đoạn này là giai đoạn thí điểm nên việc định giá tài sản còn phụ thuộc vào
việc phân loại tài sản và phải đảm bào nguyên tắc không thực hiện cổ phần hóa những
tài sản thuộc nguồn vốn vay (nếu người cho vay không đồng ý) và những tài sản chưa
đủ cơ sở pháp lý về quyền sở hữu đối với doanh nghiệp. Ngoài ra, việc xác định giá trị
doanh nghiệp cổ phần hóa còn phải dựa trên số liệu quyết toán có xác nhận về kiểm
toán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như quy định của chỉ thị số 84/TTG ngày
14/03/1993 của thủ tướng chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hóa các hình thức sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nước.
Trong điều kiện công tác quản lý vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp
có yếu kém, nguồn gốc hình thành tài sản nhà nước tại doanh nghiệp quá phức tạp
( do cải tạo công thương nghiệp, trưng thu, trưng mua, tiếp quản doanh nghiệp vô chủ,
doanh nghiệp của tư nhân trốn ra nước ngoài, doanh nghiệp mua bằng vốn vay hình
thành từ nguồn chiếm dụng của khách hàng,…) cộng thêm những thủ tục rườm rà về
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 12
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
quyền sở hữu, kết quả kiểm toán nên thời gian xác định giá trị doanh nghiệp trong
thời gian này thường kéo dài từ 8 tháng đến 2 năm.
Bên cạnh đó, các quy định hướng dẫn chưa hình dung hết các vấn đề phức tạp
khi xác định giá trị doanh nghiệp như vấn đề định giá thiết bị chuyên dùng, đất đai
nhà cửa lợi thế doanh nghiệp, mặt khác lại chưa cho phép loại trừ ra khỏi giá trị doanh
nghiệp cổ phần hóa các khoản tổn thất trong doanh nghiệp như: các khoản công nợ
khó đòi, các khoản lỗ năm trước, tài sản và hàng hóa không còn dùng và kém phẩm
chất thanh lý,…Cho nên dẫn đến tình trạng giá trị được xác định không phản ánh giá
trị thực của nó dẫn đến sự không thống nhất giữa người mua và người bán.

3.2. Giai đoạn từ 07/05/1996 tới 29/08/1998:
Để khắc phục những tồn tại trong quá trình thí điểm, ngày 07/05/1996, chính
phủ ban hành nghị định 28/CP về chuyển đổi 1 số công ty nhà nước thành công ty cổ
phần, trong đó giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa được xác định theo nguyên tắc: “ Giá
trị của doanh nghiệp cổ phần hóa được xác định là giá trị thực tế của doanh nghiệp mà
cả người bán và người mua đều chấp nhận được” và do cơ quan quản lý vốn và tài sản
nhà nước tại doanh nghiệp – Bộ tài chính phối hợp với các bộ ngành cùng thực hiện,
theo nguyên tắc căn cứ để xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp là số liệu trên sổ
sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa đã được cơ quan kiểm toán
hợp pháp xác nhận, hệ số lợi thế doanh nghiệp trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận trên vốn
kinh doanh bình quân trong 3 năm cuối của doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần
hóa và giá trị quyền sử dụng đất tính theo quy định của luật đất đai và các văn bản
hướng dẫn. Ngoài ra Bộ tài chính đã ban hành thông tư số 50/TC/TCDN ngày
30/08/1996 hướng dẫn vấn đề tài chính trong việc chuyển đổi một số doanh nghiệp
nhà nước thành công ty cổ phần theo nghị định 28/CP.
Có thể nói, phương pháp định giá trong giai đoạn này xây dựng trên cơ sở kết
hợp giá trị tài sản thuần (Tổng tài sản có- Tổng tài sản nợ) và phương pháp so sánh
trực tiếp để đưa ra những điều chỉnh thích hợp như: mức độ giảm giá do vô hình, do
quan hệ cung cầu … nên cũng đã khắc phục được 1 số hạn chế của các phương pháp
định giá đã xác định trước đây và phản ánh tương đối đúng đắn và trực quan giá trị tài
sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm định giá, rút ngắn thời gian định giá
doanh nghiệp xuống còn dưới 3 tháng, góp phần đấy nhanh tiến trình cổ phần hóa
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 13
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
doanh nghiệp giai đoạn 1996- 1998. Trong giai đoạn này đã triển khai định giá được
40 doanh nghiệp.
3.3. Giai đoạn 29/08/1998 – đến nay:
Để đẩy nhanh tiến trình cố phần hóa, ngày 29/08/1998, chính phủ ban hành
nghị định 44/1998/ND-CP về chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ

phần. Việc xác định giá trị doanh nghiệp trong giai đoạn này đã tiến một bước xa, giá
trị doanh nghiệp được xác định chính xác hơn, hoàn thiện hơn.
Việc xác định giá trị đã được nâng cao lên một bước nữa trong nghị định của
64/2002/ND-CP, giá trị doanh nghiệp còn bao gồm cả giá trị quyền sử sụng đất, giá trị
lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp.
Sau đó, Nghị Định này được thay thế bởi nghị định 187/2004/NĐ-CP với
thông tư 126/2004/TT-BTC hướng dẫn nghị định 187.
Tiếp theo đó nghị định 109/2007/NĐ-CP ra đời, thay thế cho nghị định
187/2004/NĐ-CP, về chuyển đổi 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị
định này được hướng dẫn thi hành bởi các văn bản sau:
- Thông tư 146/2007/TT-BTC: về việc hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về
tài chính khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ
phần theo quy định tại Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/06/2007 của Chính
phủ
- Thông tư 20/2007/TT-BLĐTBXH: Về việc Hướng dẫn thực hiện chính sách
đối với người lao động theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/06/2007 của
Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần
- Nghị định này được sửa đổi bổ sung bởi nghị định 123/2007/NĐ-CP: Về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 14
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
II. Đánh giá quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam:
1. Tổng quan doanh nghiệp nhà nước:
Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước số 14/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm
2003 thì doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà
nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Theo số liệu thống kê tính đến năm 2006 cả nước có 2.176 doanh nghiệp 100%

vốn Nhà nước.Trong đó có 1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355
doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích
và 295 nông, lâm trường quốc doanh.
Thực trạng hoạt động của các Doanh nghiệp Nhà nước có thể khái quát như
sau:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh nghiệp nhà nước sau một thời gian
liên tục đạt 13%, đến năm 1998 và đầu năm 1999 giảm xuống còn 8-9%.
- Hiệu quả sử dụng vốn giảm: năm 1995 một đồng vốn nhà nước tạo ra được
3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận; đến năm 1998 một đồng vốn chỉ làm ra
được 2,9 đồng doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận.
- Tổng số nợ mà các doanh nghiệp Nhà nước phải trả trên 181.000 tỷ đồng tính
đến năm 2008, trong đó tỷ lệ nợ phải trả trên tổng nguồn vốn bình quân hơn 60%, tỷ
lệ bình quân phải thu trên tổng tài sản là 10,8% và trên vốn chủ sở hữu là 29,03%.
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 15
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
Quan sát biểu đồ dưới đây cho chúng ta cái nhìn về kết quả hoạt động của
Doanh nghiệp nhà nước qua các năm:
Nguồn: Tổng cục thống kê
2. Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước:
Mục tiêu của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được Đảng ta
xác định: đây là phương tiện để vừa đạt được mục tiêu phấn đấu, vừa khẳng định chức
năng nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể như:
- Đa sở hữu để nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Thay đổi cách thức tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ doanh nghiệp, có sự
phân công, phân cấp và giám sát lẫn nhau chặt chẽ.
- Thay đổi căn bản về quan hệ quản lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Từ chỗ
doanh nghiệp bị chi phối toàn diện trong quá trình sản xuất kinh doanh bởi Nhà nước
với tư cách là chủ sở hữu duy nhất, sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và

tính chịu trách nhiệm được đề cao.
3. Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước:
3.1. Cơ sở pháp lý cho quá trình cổ phần hóa:
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một trong những mục tiêu của chính
phủ nhằm cải tổ doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả trong một thời gian
dài. Chính vì vậy năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định số
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 16
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
143/HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1990 lựa chọn một số doanh nghiệp nhỏ và vừa để
thử chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Năm 1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lại ra Quyết định số 202 ngày 8 tháng
6 năm 1992 yêu cầu mỗi bộ ngành trung ương và mỗi tỉnh thành chọn ra từ 1-2 doanh
nghiệp nhà nước để thử cổ phần hóa.
Nghị định 28/CP được Chính phủ ban hành ngày 7 tháng 5 năm 1996 yêu cầu
các bộ, ngành trung ương và các chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
lập danh sách doanh nghiệp nhà nước do mình quản lý sẽ được cổ phần hóa cho đến
năm 1997. Tinh thần của Nghị định 28/CP là chọn những doanh nghiệp mà Nhà nước
thấy không còn cần thiết phải nắm giữ 100% vốn nữa làm đối tượng. Nghị định số
25/CP ngày 26 tháng 3 năm 1997 của Chính phủ cho phép các lãnh đạo bộ, ngành, địa
phương có thêm quyền hạn trong việc tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp được
chọn làm thử. Theo đó, đối với doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống thì lãnh
đạo bộ, ngành, địa phương có quyền tự tổ chức thực hiện cổ phần hóa trên cơ sở Nghị
định số 28/CP.
Ngày 29 tháng 6 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP
về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này quy định
rằng đối với cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp được chuyển đổi nhưng Nhà
nước vẫn muốn nắm quyền chi phối, cá nhân không được phép mua quá 5% và pháp
nhân không được phép mua quá 10%. Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần
nắm quyền chi phối, cá nhân được phép mua tới 10% và pháp nhân được phép mua

tới 20% tổng cổ phần phát hành lần đầu. Riêng đối với các doanh nghiệp mà Nhà
nước hoàn toàn không còn muốn sở hữu, cá nhân và pháp nhân được phép mua không
hạn chế. Tiền thu được từ bán cổ phần sẽ được sử dụng để đào tạo lại lao động, sắp
xếp việc làm cho lao động dư thừa, bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước khác.
Tháng 8 năm 2001, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa IX họp về doanh nghiệp nhà nước và ra nghị quyết của Trung
ương Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước. Để triển khai Nghị quyết trung ương này, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị
số 04/2002/CT-TTg ngày 08 tháng 02 năm 2002 về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, và Chính phủ ra Nghị định số
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 17
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành
công ty cổ phần.
Tháng 1 năm 2004, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
IX họp phiên thứ IX, tại đó có thảo luận và quyết định đẩy mạnh cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước. Cuối năm 2004, Chính phủ ra Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về
chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, theo đó cả các công ty thành viên của
các tổng công ty nhà nước và ngay cả chính tổng công ty nhà nước nào mà Nhà nước
không muốn chi phối đều có thể trở thành đối tượng cổ phần hóa.
Ngày 26/06/2007 Chính phủ ban hành Nghị định số 109/2007/NĐ-CP về
chuyển 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định 187/2004/NĐ-
CP (16/11/2004) nhằm mục tiêu chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không
cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; đảm bảo hài hoà
lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh
nghiệp. Nghị định bổ sung thêm đối tượng cổ phần hoá là: Công ty mẹ của Tập đoàn
kinh tế, công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con, công ty trách nhiệm hữu
hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
3.2. Các hình thức cổ phần hóa:

Theo nghị định mới nhất số 109/2007/NĐ-CP, cổ phần hóa ở Việt Nam có các
hình thức thức sau:
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp và có thể phát hành thêm
cổ phiếu mới nếu doanh nghiệp muốn tăng vốn điều lệ.
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
- Kết hợp vừa bán bớt một phần vốn của nhà nước vừa phát hành thêm cổ
phiếu ra bên ngoài.
- Bán đứt toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp và có thể phát hành
thêm cổ phiếu mới (thường áp dụng với các doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ).
3.3. Quy trình cổ phần hóa:
Quy trình cồ phần hóa còn rườm rà, phức tạp, phân cấp giữa các ngành, địa
phương và doanh nghiệp chưa rõ ràng. Về chức năng, nhiệm vụ, hướng dẫn triển khai
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 18
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
cổ phần hóa chưa được chu đáo. Hầu như cán bộ các cấp gặp khó khăn khi triển khai
công việc như xây dựng đề án cổ phần hóa, điều lệ thành lập, cách thức định giá trị
doanh nghiệp, xử lý lao động, tài sản, công nợ của doanh nghiệp. Điều này đã làm nản
lòng các doanh nghiệp nhà nước vì họ vẫn phải bảo đảm cho sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được ổn định. Để thực hiện cổ phần hóa một doanh nghiệp nhà nước
tính từ khi thành lập Ban đổi mới doanh nghiệp đến khi đăng ký kinh doanh đối với
tổng công ty phải cần tới 561 ngày, doanh nghiệp thuộc Bộ là 523 ngày, doanh nghiệp
thuộc tỉnh là 421 ngày. Bình quân cả nước là 437 ngày trong cuộc khảo sát năm 2004.
Mặc dù vậy thì bình quân cổ phần hóa một doanh nghiệp đã có cải thiện nhiều so với
512 ngày vào năm 2001, và 810 ngày vào thời gian trước năm 1998.
Về nguồn tài chính cho công tác định giá và bán cổ phiếu thì chi phí thuê các
công ty kiểm toán và tài chính tiến hành định giá doanh nghiệp cổ phần hóa chưa
được quy định rõ. Trên thực tế thì mức chi tối đa cho việc thực hiện chuyển doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đối với những doanh nghiệp có giá trị thực tế
trên 60 tỷ đồng không quá 500 triệu đồng (bao gồm rất nhiều khoản chi chứ không chỉ

là chi phí xác định giá trị doanh nghiệp) thì rất khó có thể thuê được các công ty định
giá nước ngoài chuyên nghiệp và có kinh nghiệm. Điều này là khó khăn cho các công
ty có nhiều xí nghiệp, tài sản nằm rải rác từ Bắc đến Nam như các doanh nghiệp trong
ngành dầu khí.
3.4. Tiến trình cổ phần hóa:
Cổ phần hóa diễn ra rất chậm chạp ở từng doanh nghiệp cũng như trên phạm vi
cả nước. Có thể nói cổ phần hóa ở Việt Nam chuyển động chậm chạp do nhiều
nguyên nhân, trong đó một phần trách nhiệm thuộc về chính phủ. Quan sát diễn biến
của toàn bộ quá trình cổ phần hóa từ năm 1992 cho tới nay thì chúng ta sẽ thấy rằng,
mỗi khi ý chí đẩy mạnh cổ phần hóa của chính phủ được tăng cường, thể hiện bằng
việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan, thì tiến độ cổ phần hóa có những
chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên, sự phức tạp, thậm chí có khi mâu thuẫn và thiếu đồng
bộ của các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng với sự chỉ đạo lúng túng của chính phủ
đã tác động tiêu cực tới tiến trình cổ phần hóa.
Quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam có thể chia thành bốn giai đoạn:
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 19
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
Giai đoạn 1 (6/1992-4/1996): cổ phần hóa tự nguyện. Đây là thời gian thực
hiện chương trình thí điểm nhằm cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ,
thỏa mãn các điều kiện sau: có lợi nhuận, không mang tính chiến lược, và do vậy nhà
nước không cần sở hữu 100%, và ban giám đốc và người lao động tự nguyện tham gia
chương trình thí điểm.
Nhìn vào những tiêu chuẩn này có thể thấy rằng chính sách cổ phần hóa dự
định theo hai giai đoạn: Những doanh nghiệp nhỏ, không quan trọng được cổ phần
hóa trước và những doanh nghiệp lớn và quan trọng hơn được cổ phần hóa sau. Kết
quả của chương trình thí điểm này khá khiêm tốn. Trong 5 năm từ 1992 đến giữa năm
1996, chỉ có vỏn vẹn 5 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa trên tổng số hơn
6.000 doanh nghiệp nhà nước hiện có trong cùng thời gian.
Giai đoạn 2: (5/1996-5/1998): mở rộng chương trình thí điểm. Vào năm 1996,

sau khi đánh giá kết quả của chương trình thí điểm, chính phủ quyết định mở rộng
chương trình này và đây cũng là lần đầu tiên chính phủ thể hiện sự cam kết mạnh mẽ
với cổ phần hóa. Một lần nữa kết quả thu được không đáp ứng được kỳ vọng. Từ 1996
đến giữa 1998, chỉ có thêm 28 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa.
Giai đoạn 3 (6/1998-5/2002): tăng tốc chương trình cổ phần hóa. Từ tháng 6
năm 1998, chương trình thí điểm được thay thế bằng một kế hoạch cổ phần hóa kiên
quyết hơn với sự ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP và các văn bản có liên quan.
Đây có thể là khuôn khổ pháp lý đầu tiên về cổ phần hóa ở Việt Nam. Các doanh
nghiệp nhà nước lúc này không còn quyền lựa chọn có tham gia vào chương trình cổ
phần hóa hay không mà chính phủ chủ động phân loại tất cả doanh nghiệp nhà nước
thành ba nhóm theo mức độ quan trọng của nó. Nhóm thứ nhất bao gồm những doanh
nghiệp nhà nước có tầm quan trọng chiến lược và vì vậy nhà nước cần nắm quyền sở
hữu và kiểm soát hoàn toàn. Những doanh nghiệp nhà nước trong nhóm này không là
mục tiêu của cổ phần hóa. Nhóm thứ hai bao gồm những doanh nghiệp nhà nước
thuộc lĩnh vực công nghiệp mà nhà nước muốn giữ cổ phần kiểm soát (hay cổ phần
đặc biệt) nếu nó được cổ phần hóa. Nhóm thứ ba bao gồm tất cả các doanh nghiệp nhà
nước còn lại và là đối tượng của cổ phần hóa. Tiến độ cổ phần hóa của giai đoạn này
rất ấn tượng. Từ tháng 6/1998 đến tháng 5/2002, cả nước cổ phần hóa được 845 doanh
nghiệp nhà nước. Như vậy, cho đến tháng 5/2002, chính phủ Việt Nam đã cổ phần
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 20
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
hóa được khoảng 15% tổng số doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, vốn của các doanh
nghiệp này chỉ chiếm khoảng 2,5% tổng số vốn của khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Giai đoạn 4: tiếp tục đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa. Chính phủ dự tính
đến cuối năm 2005, tức là trước khi Việt Nam gia nhập một cách trọn vẹn vào Khu
vực Mậu dịch Tự do ASEAN, số doanh nghiệp nhà nước sẽ chỉ còn khoảng 2.000.
Hàng loạt các văn bản pháp lý ra đời để tiến hành cổ phần hóa.
Có thể thống kê tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo biểu đồ
sau:

Nguồn: Tổng cục thống kê
3.5. Cơ cấu cổ phần hóa:
3.5.1. Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa theo ngành:
Về cơ cấu doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa phân theo ngành, lĩnh vực
hoạt động thì chiếm phần lớn vẫn là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất công nghiệp, giao thông vận tải và xây dựng với tỷ lệ các doanh nghiệp trong
ngành được cổ phần hóa là hơn 66%. Xếp kế đến là các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực thuơng mại và dịch vụ, chiếm 28% trong tổng số doanh nghiệp nhà nước
được cổ phần hóa. Và tỷ lệ khoảng 6% còn lại thuộc về các doanh nghiệp nhà nước
hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp được cổ phần hóa. Mặc dù lĩnh vực
sản xuất công nghiệp là lĩnh vực gặp nhiều khó khăn nhất trong việc xác định giá trị
doanh nghiệp phục vụ cho cổ phần hóa, nhưng tỷ trọng lớn các doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hóa trong lĩnh vực này đã thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ trong
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 21
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
việc cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước tập chung nhiều lao động, nhằm cải
thiện đời sống cho các lao động tại đây, đưa họ từng bước tham gia vào đội ngũ
"những người chủ" của chính doanh nghiệp mà họ hàng ngày đang trực tiếp làm việc.
Đồ thị thể hiện doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa theo các lĩnh vực

3.5.2. Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa theo quy mô về vốn:
Về cơ cấu cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước theo quy mô vốn thể hiện
một khuynh huớng khá khác biệt so với cơ cấu cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước theo lĩnh vực. Trong cơ cấu theo tiêu chí về quy mô vốn, các doanh nghiệp nhà
nước có quy mô vốn lớn đã ít được cổ phần hóa hơn so với các doanh nghiệp nhà
nước có quy mô vốn nhỏ hơn. Điều này cũng dễ có thể lý giải được bởi độ khó cổ
phần hóa sẽ là rất lớn khi gặp phải những doanh nghiệp nhà nước có quy mô "đồ sộ"
này.
Đồ thị dưới đây thể hiện doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa theo cơ cấu

vốn
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 22
6%
28%
66%
Nông, lâm, ngư nghiệp Thương mại, dịch vụ
Công nghiệp, giao thông, xây dựng
Nguồn: Tổng cục thống kê
54%
23%
23%
Vốn dưới 5 tỷ Từ 5 đến 10 tỷ Vốn trên 10 tỷ
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
3.6. Những thành quả đã đạt được:
3.6.1. Tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán phát triển:
Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn tạo hàng hóa cho thị trường
chứng khoán sơ cấp vốn được xem là chưa có nhiều hàng hóa, đặc biệt là các doanh
nghiệp lớn, các tập đoàn, tổng công ty. Trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện
nay có không ít những doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa trước đó. Những
doanh nghiệp này đã và đang là những nhân tố tích cực tác động đến sự phát triển của
thị trường chứng khoán non trẻ ở Việt nam.
3.6.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo kênh thu hút vốn dễ dàng:
Khảo sát những doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán hiện nay
mà tiền thân là những doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa cho thấy, hầu hết các
công ty này đều có hiệu suất sử dụng vốn cao hơn trước và một điều cũng dễ dàng
nhận biết nữa, đó là những công ty này đều có khả năng tăng vốn thông qua thị trường
chứng khoán. Một điều mà trước đây khi còn là một doanh nghiệp nhà nước thì hoàn
toàn không thể.

3.6.3. Nâng cao thu nhập cho người lao động:
Rải rác một số trường hợp sau khi doanh nghiệp được cổ phần hóa thì người
lao động bị đẩy ra khỏi nhà máy, công ty mà mình đã tứng gắn bó trước đây. Tuy
nhiên phần lớn người lao động tại các doanh nghiệp sau khi được cổ phần hóa này đều
đã có được mức thu nhập cao hơn trước. Có được điều này cũng chính là nhờ vào chủ
trương " người lao động làm chủ chính doanh nghiệp của mình" của Nhà nước thông
qua việc bán cổ phần với mức giá ưu đãi hơn cho những người lao động trong doanh
nghiệp và từ đó thúc đẩy họ làm việc hăng say hơn để có thể thu được cổ tức nhiều
hơn từ cổ phiếu mà mình sở hữu.
3.6.4. Tiếp cận được phương thức quản trị điều hành doanh nghiệp khoa học hơn:
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 23
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
Một trong những nội dung quan trọng trong trong quá trình cổ phần hóa một
doanh nghiệp nhà nước đó chính là chọn cho mình một đối tác chiến lược phù hợp để
có thể giúp doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa về lĩnh vực công nghệ, về các thức
quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay theo nội dung NĐ 109 về việc chuyển
công ty 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần thì đối tác chiến lược mua cổ phiếu
của doanh nghiệp cũng bằng với mức giá bán cho các cổ đông thông thường. Vì vậy,
đây chính là một lực cản rất lớn khiến cho doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa rất khó
lựa chọn cho mình một đối tác chiến lược, nhất là trong giai đoạn khủng hoảng như
hiện nay, để vừa có thể giúp doanh nghiệp trong việc tiếp cận với những công nghệ
sản xuất tiên tiến, tiếp cận với những phương thức quản trị điều hành khoa học hơn,
lại vừa chấp nhận một chính sách về giá cổ phiếu như những cổ đông thông thường
khác.
4. Các vấn đề tồn tại trong quá trình thực hiện cổ phần hóa:
4.1. Về quy trình cổ phần hóa:
Quy trình cổ phần hóa từ lúc xây dựng đề án đến thực hiện đề án chưa sát thực
tế, còn rườm rà, phức tạp, có phần còn cứng nhắc, khó xác định đúng được giá trị của
doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần bởi chưa thống nhất được các mức giá

khác nhau về tài sản của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các quy định, khung pháp lý về
cổ phần hóa lại thay đổi liên tục khiến doanh nghiệp khó cập nhật. Chẳng hạn, từ năm
2002 đến nay, quy định pháp luật về cổ phần hóa được thay đổi 3 lần (Nghị định
64/2002/CP, NĐ 187/2004/CP và NĐ 109/2007/CP) và các thông tư hướng dẫn
thường ban hành chậm, nên đã ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước.
4.2. Xác định giá trị doanh nghiệp:
Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thoát và
lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Lỗ hổng lớn nhất trong
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vừa qua chính là việc xác định chất lượng còn lại
của tài sản tại thời điểm tiến hành cổ phần hóa chưa chính xác, thiếu nhiều chuẩn mực
đã dẫn tới hậu quả tất yếu là giá trị tài sản của nhiều doanh nghiệp thấp hơn rất nhiều
so với giá trị thực tế tài sản đang phát huy tác dụng trong sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, làm Nhà nước bị thất thoát giá trị tài sản rất lớn khi cổ phần hóa. Điều
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 24
Bài Tiểu Luận GVHD: TS. DIỆP GIA
LUẬT
này lý giải nhiều doanh nghiệp khi cổ phần hóa, giá bán khởi điểm một cổ phần là
11.000đ, 15.000đ hay 20.000đ nhưng thị trường sẵn sàng chấp nhận mua với giá cao
gấp 3, 4, 5 lần mà không phải là giá ảo. Đó là giá thị trường chấp nhận được của các
nhà đầu tư chuyên nghiệp trong và ngoài nước (chứ không phải là các nhà đầu tư theo
phong trào).
Hiện tại văn bản pháp lý mới nhất quy định việc xác định giá trị doanh nghiệp
là Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26-06-2007 về chuyển Cty 100% vốn nhà
nước thành công ty cổ phần chỉ nêu các nguyên tắc chung về tổ chức xác định giá trị
doanh nghiệp, về lựa chọn tổ chức định giá doanh nghiệp, về điều chỉnh giá trị doanh
nghiệp cổ phần hóa. Còn Thông tư số 146/2007/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2007
hướng dẫn thực hiện NĐ 109 cũng chỉ quy định chung nhất là chất lượng còn lại của
tài sản được xác định bằng tỉ lệ phần trăm so với chất lượng của tài sản cùng loại mua
sắm mới hoặc đầu tư xây dựng mới

Điều phi lý đã xảy ra là nếu đứng trên phương diện quản lý kỹ thuật vận hành
và an toàn lao động thì không một nhà quản lý doanh nghiệp nào dám cho những tài
sản cố định như nhà điều hành sản xuất, những trạm biến áp điện, những đường dây
truyền tải điện, những phương tiện vận tải, những máy móc chế tạo cơ khí điện tử, các
máy móc thiết bị khai thác, chế biến mà chất lượng được xác định còn lại khi cổ
phần hóa chỉ còn 30%, 35%, 40%, thậm chí là 20% như mức giới hạn thấp nhất mà
Bộ Tài chính cho phép lại vẫn tiếp tục được vận hành và nằm trong giá trị cổ phần hóa
doanh nghiệp. Nhưng thực tế này là khá phổ biến.
Như vậy, trong hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa của nhiều
doanh nghiệp được duyệt đã có sự lệch rất lớn giữa đánh giá phần trăm chất lượng
còn lại với giá trị thực còn tốt của tài sản, phần tốt này đã bị mất đi một cách tuyệt đối
qua số tương đối là tỉ lệ phần trăm chất lượng tài sản bị đánh tụt xuống.
4.3. Chất lượng định giá doanh nghiệp:
Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm
định giá trị có độ tin cậy thấp. Mặt khác, quy chế lựa chọn, giám sát hoạt động tư vấn
và xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quy định rõ.
Nhóm thực hiện: nhóm 9 Lớp Ngày 3 K19 Trang 25

×