Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG DẠY HỌC CÓ HIỆU QUẢ Ở LỚP MỘT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.25 KB, 7 trang )

Tên đề tài:
SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG DẠY HỌC CÓ HIỆU QUẢ Ở LỚP MỘT
I- Đặt vấn đề :
1- Cơ sở lý luận :
Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ nhanh, thông tin
khoa học ngày càng nhiều song thời gian dành cho mỗi tiết học trong trường phổ thông
không thay đổi. Để theo kịp sự phát triển của xã hội và cung cấp cho học sinh những
kiến thức mới nhất, đầy đủ nhất trong một thời gian có hạn, việc đổi mới phương pháp
dạy học luôn là vấn đề bức xúc được nhiều người quan tâm. Thực tế cho thấy việc dạy
học nói chung và dạy học ở tiểu học nói riêng đã có sự đổi mới nhiều về phương pháp.
Những phương pháp dạy học kích thích sự tìm tòi, đòi hỏi sự tư duy của học sinh được
đặc biệt chú ý. Song để cho giờ học thực sự đổi mới, việc sử dụng thiết bị đồ dùng dạy
học là hết sức cần thiết.
Thiết bị đồ dùng dạy học là những phương tiện vật chất giúp cho giáo viên và học
sinh tổ chức hợp lý có hiệu quả, quá trình giáo dục, giáo dưỡng đối với các môn học
trong nhà trường nhằm thực hiện chương trình dạy học. Trong quá trình đổi mới phương
pháp dạy học, thiết bị đồ dùng dạy học là một trong những điều kiện cơ bản không thể
thiếu để giáo viên, học sinh thực hiện mục tiêu dạy học. Hơn nữa thiết bị đồ dùng dạy
học tạo điều kiện trực tiếp cho học sinh huy động mọi năng lực hoạt động nhận thức, tiếp
cận thực tiễn, nâng cao khả năng tự học, rèn luyện kỹ năng học tập và thực hành. Thiết bị
đồ dùng dạy học là vật chất hữu hình tưởng như là vô tri vô giác nhưng dưới sự điều
khiển của người giáo viên, thiết bị đồ dùng dạy học thể hiện khả năng sư phạm của nó :
Làm tăng tốc độ truyền thông tin, tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn làm cho giờ học sinh động,
hiệu quả hơn .
Nếu việc "Dạy chay, dạy suông" làm cho người học thụ động không phát huy
được tính tích cực, chủ động sáng tạo thì sự hỗ trợ đắc lực của thiết bị sẽ là cầu nối giữa
người dạy và người học, làm cho hai nhân tố này gắn kết với nhau trong việc thực hiện
mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo và làm cho chất lượng giảng
dạy và học tập được nâng cao.
Trong những năm gần đây cũng như các bậc học, ngành học khác, bậc tiểu học
quan tâm nhiều đến đổi mới phương pháp dạy học. Từ năm học 2002 - 2003 việc đổi mới


phương pháp dạy học ở tiểu học được đổi mới đồng bộ về ch ương trình sách giáo khoa,
thiết bị đồ dùng dạy học và đánh giá kết quả học tập của học sinh .
Theo quan điểm triết học duy vật biến chứng:"Từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của nhận thức
chân lý, nhận thức hiện thực khách quan", quan điểm này càng có giá trị với học sinh tiểu
học. Hơn nữa theo quan điểm dạy học hiện đại: Quá trình dạy học không chỉ nhằm mục
tiêu duy nhất là giúp học sinh nhận thức một số kiến thức kỹ năng cụ thể mà bằng cách
dạy nào đó các em phát huy tính tích cực chủ động, phát triển năng lực sáng tạo. Theo đó
vai trò của giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, truyền đạt thông tin kiến thức, còn học
sinh có vai trò chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức. Để làm tốt được điều này
thì sự hỗ trợ của đồ dùng dạy học là không thể thiếu được.
Đối với học sinh tiểu học, thiết bị dạy học lại càng đặc biệt quan trọng vì nó giúp
các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học sinh nhận thức sâu hơn
nội dung bài học, hình thành tốt kỹ năng kỹ xảo.
Tóm lại : Thiết bị dạy học là phương tiện, là điều kiện vật chất để đổi mới phương
pháp dạy học ở tiểu học .
2 - Cơ sở thực tiễn:
* Về đồ dùng dạy học :
Khi nói đến việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học, người giáo viên nghĩ ngay đến
các vật dụng trực quan cụ thể, các vật tư, hoá chất, mẫu vật, mô hình, tranh ảnh... Các tài
liệu, ấn phẩm, sách giáo khoa, vở bài tập, phiếu bài học …
Trong những năm qua, các trường tiểu học đã được cung cấp khá nhiều trang thiết
bị và đồ dùng dạy học, có những thùng đồng bộ để dạy cho cả cấp học và những bộ va-li
để dạy theo lớp nhưng thống kê theo danh mục thì số lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy
đủ.
* Về giáo viên :
Từ thực tế thiết bị đồ dùng dạy học còn thiếu, bản thân giáo viên còn ngại sử
dụng, cán bộ phụ trách thiết bị ở trường lại kiêm nhiệm những việc khác nên việc mượn -
trả gặp nhiều khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho giáo viên lên lớp
sử dụng đồ dùng thiếu thường xuyên .

Trong quá trình sử dụng đồ dùng dạy học, một số giáo viên còn lúng túng. Chẳng
hạn khi dạy giải nghĩa từ họ nghĩ rằng cứ đưa ra tranh ảnh, vật thật cho học sinh quan sát
là đảm bảo điều kiện để giải nghĩa từ. Trên thực tế, nhiều tranh ảnh, vật thật chưa cung
cấp hết nghĩa của từ cần giảng mà phải có sự hỗ trợ bằng lời nói của giáo viên.
Mặt khác tuy rằng 100 % giáo viên đều nhận thức đúng ý nghĩa, tác dụng to lớn
của đồ dùng dạy học trong quá trình hình thành kiến thức cho học sinh, nhiều giáo viên
đã biết vận dụng đúng lúc, đúng chỗ và đúng mức độ các đồ dùng dạy học. Song cũng có
nhiều giáo viên vẫn chưa hiểu rõ cấu tạo của bộ đồ dùng hàng khối, lớp mà mình phụ
trách, chưa biết rõ số lượng đồ dùng trong bộ đồ dùng dạy học, chưa nhớ phạm vi sử
dụng của các đồ dùng dạy học cho các tiết dạy. Đặc biệt những thao tác kỹ thuật trong
khi sử dụng đồ dùng dạy học theo những dụng ý sư phạm còn ít được giáo viên chú ý.
* Về cơ sở vật chất trường học:
Được sự quan tâm của các cấp, các ngành trong những năm vừa qua cơ sở vật chất
trường học đã được đầu tư và nâng cấp, song thực tế vẫn còn hết sức khó khăn , nhất là
vùng nông thôn. Trường thiếu các phòng chức năng, phòng đồ dùng thiết bị. Tất cả các
điều kiện trên cũng là một khó khăn cho việc bảo quản và sử dụng đồ dùng dạy học .
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi xin đề xuất một số kinh nghiệm, giải
pháp nhằm giúp cho giáo viên:" Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học ở lớp 1”.
II- Giải quyết vấn đề :
Sử dụng tốt có hiệu quả đồ dùng dạy học ở các lớp 1 phải phụ thuộc vào các yếu
tố sau :
+Công tác quản lý của nhà trường với thiết bị đồ dùng dạy học.
+Nhận thức về vai trò, tác dụng của đồ dùng dạy học trong quá trình dạy học
+Về việc hiểu cấu tạo đồ dùng dạy học thuộc khối lớp mà mình phụ trách, về
phạm vi sử dụng của mỗi đồ dùng dạy học trong các tiết dạy .
+Các thao tác kỹ thuật khi sử dụng đồ dùng dạy học theo dụng ý s ư phạm của bài
dạy ( thời điểm dùng, thứ tự thao tác trong khi dùng, dụng ý sư phạm trong khi dùng).
+Tự làm và cải tiến đồ dùng dạy học.
Trong khuôn khổ của bài viết, với phạm vi trách nhiệm của một giáo viên đứng lớp tôi
xin trình bày một số nội dung sau :

1-Về phía nhà trường :
Ngay từ đầu các năm học, nhà trường đã bố trí cán bộ phụ trách thư viện, thiết bị,
có thời gian làm việc phù hợp, tạo điều kiện cho giáo viên mượn và trả. Riêng các va-li
đồ dùng dạy học theo lớp, nhà trường kiểm kê theo danh mục, giải quyết cho giáo viên
mượn nguyên cả bộ ngay từ đầu năm học và cuối năm học trả lại. Có như vậy giáo viên
mới có thể chủ động trong việc sử dụng cũng như có kế hoạch tự làm các loại thiết bị và
đồ dùng dạy học còn thiếu.
Để giúp cho việc bảo quản và sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học. Chúng tôi đã
tham mưu với nhà trường đóng mỗi lớp 1 tủ sắt để bảo quản đồ dùng dạy học và đ ược để
ngay tại lớp học, rất thuận lợi cho giáo viên và học sinh khi sử dụng đồ dùng thiết bị .
2-Với bản thân giáo viên :
Mỗi giáo viên phải nắm vững các danh mục đồ dùng dạy học đã được cung cấp
trên cơ sở đó giáo viên hoặc tổ chuyên môn có thể sắp xếp theo từng chủ đề, đề tài. Để
giải quyết một số thiết bị đồ dùng còn thiếu, giáo viên trong cùng một tổ phối hợp với
nhau sưu tầm, tự làm thêm đồ dùng theo chủ đề, đề tài.
Ví dụ : Khi dạy tự nhiên xã hội hoặc đạo đức, tranh ảnh, đồ dùng phục vụ cho dạy
các môn này có nhiều trên báo chí, báo ảnh, bưu ảnh, lịch tờ hoặc hoa quả, vật thật. Giáo
viên có thể lựa chọn để sử dụng làm phong phú thêm đồ dùng dạy học của mình. Tuy
nhiên khi chọn tranh ảnh, vật thật giáo viên cũng phải chú ý đến tính điển hình, phản ánh
trung thực và chính xác, đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm và tính mỹ thuật .
3 – Nghiên cứu sử dụng đồ dùng dạy học mới.
Vấn đề đổi mới thiết bị đồ dùng dạy học được đặt ra đồng bộ với việc đổi mới
chương trình và sách giáo khoa các môn học. Chính vì vậy sau mỗi đợt tập huấn về thay
sách các tổ chuyên môn ở trường chúng tôi thường dành thời gian để nghiên cứu kỹ
lưỡng, tìm hiểu chi tiết về bộ đồ dùng dạy học để từ đó lĩnh hội đầy đủ về cấu tạo và
phạm vi sử dụng đồ dùng dạy học. Còn một số bất hợp lý trong bộ đồ dùng dạy học mà
chỉ khi lên lớp giáo viên mới nhận ra. Chính vì vậy, chúng tôi chọn bài dạy thích hợp để
thực hành trực tiếp vào một số đồ dùng dạy học. Các giáo viên khác sẽ góp ý vào thao tác
thực hành trên đồ dùng dạy học và từ đó cũng thấy rõ những gì cần tiếp tục hoàn thiện ở
đồ dùng dạy học ..

4 -Việc tổ chức cải tiến và tự làm đồ dùng
Xuất phát từ thực tế khi nghiên cứu kỹ các bộ đồ dùng, thấy được một số hạn chế và
những bất hợp lý còn tồn tại ở đó. Hơn nữa hiện nay việc nâng cao chất lượng giáo dục
cần đòi hỏi nhà trường phải có đầy đủ đồ dùng thiết bị dạy học và các thiết bị đồ dùng đó
phải đảm bảo phù hợp, có tác dụng tích cực trong việc dạy và học. Trong mấy năm gần
đây, trường tôi tổ chức nhiều phong trào thi đua trong đó có phong trào " Tự làm và cải
tiến đồ dùng, thiết bị dạy học" là phong trào mà tôi tâm đắc bởi vì tôi thấy :
- Thiết bị đồ dùng dạy học tự làm, tự cải tiến thường sát với nội dung bài học
- Hình thành được thói quen tiết kiệm cho giáo viên và học sinh.
- Góp phần làm phong phú thiết bị dạy học .
Để làm thiết bị dạy học tôi có thể :
-Sưu tầm tranh ảnh có ở các loại báo, hoạ báo, tạp chí, bìa lịch.
- Sưu tầm các vật dụng như : Vỏ hộp, can nhựa, vỏ chai, dây thép
- Chọn các loại vật liệu sẵn có ở địa phương như : Trái cây, hoa, gỗ, tre, rơm, đất.
Ví dụ : Khi dạy các bài trong môn Tiếng Việt, môn Tự nhiên xã hội, môn Đạo đức,
môn Nghệ thuật tôi hướng dẫn học sinh sưu tầm các loại tranh ảnh theo các chủ đề về
quê hương đất nước, rừng, núi, biển, con người, con vật.
- Tổ chức cho các nhóm, tổ trong lớp thi đua trưng bày sản phẩm, tập hợp thành
sản phẩm chung của cả lớp để sử dụng dạy học theo các chủ đề thích hợp, làm phong phú
thêm nguồn thiết bị dạy học .
+ Làm các thanh hình chữ nhật ( Bằng gỗ, bìa), có các chấm tròn để học toán. .
Qua quá trình học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, qua quá trình giảng
dạy ở trên lớp, tôi đã tiến hành cải tiến một số đồ dùng dạy học, đem áp dụng và thấy có
hiệu quả đó là các đồ dùng sau :
Ví dụ : Khi nghiên cứu trong sách giáo khoa và vở bài tập môn toán lớp 1, tôi
thấy rất nhiều tiết học có dạng bài : Số ?
ở dạng bài này nếu sử dụng bảng nỉ trong bộ đồ dùng để giảng dạy thì hình ảnh và
biểu tượng khác với sách giáo khoa, học sinh không hiểu được về tập hợp. Để làm phong
phú hơn, sinh động hơn, hiệu quả hơn khi học sinh luyện tập thực hành, tôi đã dựa vào
dạng bài đó để cải tiến đồ dùng dạy học như sau:

- Vật liệu gồm : Bảng nỉ, 1 miếng bìa cứng có kích thước vừa bằng bảng nỉ, băng
gắn , thanh cài .
- Cách làm : khoét trên tấm bìa 2 hình chữ nhật dạng màn hình tivi cạnh nhau.
Phía dưới 2 hình chữ nhật khoét 3 ô vuông sao cho vừa gài đủ số và dấu phép tính trong
bộ đồ dùng. Hai hình bên cạnh tương ứng với hai hình chữ nhật to ở trên ( Hình vẽ )
- Cách sử dụng : Gắn tấm bìa đã khoét ô vuông vào bảng nỉ có gắn thanh cài. ở
từng hình chữ nhật cài các chấm tròn, bông hoa, con cá ... có số lượng mà tổng 2 tương
ứng. Học sinh sẽ được làm bài tập : Số ?
Rõ ràng nhìn đồ dùng này học sinh biết được ô bên trái có 6 chấm tròn, ô bên phải
có 3 chấm tròn, cả 2 ô có 9 chấm tròn.
Sau khi học sinh nêu kết quả, giáo viên lật dấu ? ra thì kết quả đã có sẵn trong
bảng cài để học sinh đối chiếu giống như kiểu trong trò chơi :" Hãy chọn giá đúng ".
Đồ dùng này còn để dùng cho việc dạy dạng bài so sánh số, tính tổng...
Tương tự cải tiến thành đồ dùng dạy bài : Viết phép tính thích hợp ( Lớp 1 )
+Vật liệu gồm: Bảng nỉ, một miếng bìa có kích cỡ …………băng dính, thanh
cài…
+ Cách làm :
-Khoét 1 hình chữ nhật ở miếng bìa như màn hình ti vi cỡ 25 x 38 cm .
-Khoét 5 ô vuông ở phía dưới miếng bìa sao cho vừa gài đủ các số, dấu phép tính.
- Phô tô các hình trong sách bài tập của học sinh .
- Gắn miếng bìa đó vào bảng nỉ ( có thanh gài) .
- Khi dạy bài nào ta gắn dạng hình của bài tập đó vào màn hình ti vi. Ví dụ: Luyện
tập bài phép cộng trong phạm vi 4 . ( Hình vẽ )
3 + 1 = 4
Ta gài ảnh 3 con vịt đang bơi, 1 con chạy đến. Cho học sinh lên gài phép tính vào
ô bên dưới để giải quyết bài tập trên, tương tự gài hình khác ta có phép tính khác. Đồ
dùng này áp dụng để cho học sinh luyện tập cộng trừ trong phạm vi 10, thuận lợi trong
việc sử dụng đồ dùng trực quan .
Tôi nghĩ rằng ai làm nghề nào thì cũng phải có một bộ đồ nghề để hành nghề đó.
Chính vì vậy tôi cũng không ngại khi đầu tư vào bộ đồ nghề dạy học của mình.

5- Sử dụng đồ dùng của học sinh
Nói đến thiết bị đồ dùng dạy học ta không chỉ quan tâm đến thiết bị đồ dùng dạy
học của người thầy mà đồ dùng học tập của trò cũng giữ một vị trí quan trọng trong việc
hình thành kiến thức kỹ năng cho chính bản thân các em bởi vì dạy học là tổ chức hoạt
động học tập để học sinh tự hình thành kiến thức như vậy đồ dùng học tập của học sinh
cũng là phương tiện, là điều kiện vật chất để đổi mới phương pháp dạy học. Nói cách
khác đổi mới phương pháp dạy học là phải đổi mới cách sử dụng đồ dùng học tập cho
học sinh. Nhận thức được tầm quan trọng của đồ dụng dạy học của học sinh. Ngay từ đầu
năm học trong các buổi sinh hoạt chuyên môn chúng tôi đã giành thời gian thảo luận các
vấn đề này.
Ví dụ : Với học sinh lớp 1 đồ dùng học toán của học sinh bao gồm : Sách giáo
khoa, bộ đồ dùng học toán thực hành, bảng con, vở bài tập, trong đó chúng tôi xác định
bộ đồ dùng học toán thực hành của học sinh là cần thiết và quan trọng nhất .
+ Sách giáo khoa toán 1 được biên soạn theo tinh thần đổi mới, trong đó thể hiện
rõ quá trình hình thành kiến thức, có định hướng về cách dạy cho giáo viên, sách in màu
đẹp, có nhiều hình vẽ, trình bày khoa học hấp dẫn. Sách trình bày “ mở" không thông báo
tường minh kiến thức bài học mà để học sinh suy nghĩ tìm tòi, phát hiện kiến thức, hệ
thống bài tập đa dạng, gây hứng thú và phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh.
Sách giáo khoa toán 1 có ý nghĩa như một đồ dùng dạy học, nếu hiểu được nội dung, mục
đích, ý tưởng giúp các em sử dụng hợp lý thì học sinh sẽ học toán tốt hơn.
+Bộ đồ dùng học toán thực hành là 1 tiến bộ của thiết bị dạy học, là cơ sở vật chất
cho đổi mới phương pháp dạy học toán. Khi sử dụng đồ dùng học toán thực hành học
sinh được hoạt động bằng tay với các vật thật : que tính dùng để hình thành biểu tượng
về số có 2 chữ số và các phép tính trong phạm vi 100, bộ chữ số, dấu phép tính và dấu so
sánh để thực hành so sánh số và tính toán trong giờ học toán tiện lợi. Học sinh lớp 1 nhờ
có đồ dùng thực hành. Đồ dùng thực hành còn giúp giáo viên tổ chức học tập theo nhóm,
theo cặp một cách thuận lợi đây là điểm quan trọng nhất với việc học toán của lớp 1.
Mặc dù đã hiểu sâu sắc về bộ đồ dùng học toán của học sinh nhưng thực tế 1 số
giáo viên lớp 1 còn lúng túng khi hướng dẫn học sinh sử dụng bởi vì thời gian của một
tiết học chỉ 35 - 40 phút. Học sinh lớp 1 những ngày đầu đi học chân tay còn vụng về,

lóng ngóng cùng với sự lúng túng trong tổ chức hoạt động của giáo viên đã làm cho đa số
tiết học bị quá giờ. Nhưng tồn tại đó sẽ được khắc phục khi lớp học đi vào nề nếp … Học
sinh quen với hoạt động thực hành, giáo viên quen với tổ chức hoạt động học tập.
+ Bảng con : Là đồ dùng học tập truyền thống nhưng tại thời điểm này nó vẫn còn
có tác dụng tích cực. Nhờ bảng con học sinh được thực hành kỹ năng viết, làm tính, giáo
viên có thể đánh giá việc nắm vững kiến thức, kỹ năng viết, kỹ năng tính của học sinh.
Sử dụng bảng con làm thay đổi trạng thái học tập, khích lệ sự cố gắng của mỗi học sinh
và tạo không khí thi đua học tập trong lớp.
+ Vở bài tập là một sáng kiến trong những năm gần đây, sử dụng vở bài tập để
củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng khá tiện lợi cho việc học ở nhà. Vở bài tập giúp cho
cá thể hoá việc dạy học. Mỗi học sinh thực hành theo khả năng và tốc độ riêng của mình.
Tuy nhiên nếu lạm dụng vở bài tập sẽ ảnh hưởng đến kỹ năng trình bày của học sinh .
+ Đổi mới phương pháp dạy học toán 1 phải phù hợp với trình độ của học sinh.
Học sinh lớp 1 hẳn hết đã qua lớp mẫu giáo, đã làm quen với các chữ và số, nhiều em đã
biết viết, biết làm tính cộng, trừ, kiến thức trong sách giáo khoa quá quen thuộc và đơn

×