Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tình hình thị truờng sữa bột ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.57 KB, 20 trang )

Bài tiểu luận : Tình hình thị trường của sản phẩm sữa bột ở Việt Nam 1
Có thể nói rằng sữa có một thị trường vô cùng rộng lớn cả trên phương diện
là thức uống cần thiết của con người và ở một nước có dân số đông, cấu trúc dân
số trẻ như Việt Nam - với cấu trúc dân số trẻ thì lượng sữa tiêu thụ trung bình trên
đầu người càng cao. Do đó Việt Nam là một thị trường sữa đầy tiềm năng. Trong
những năm gần đây, khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với nền
kinh tế thế giới, các rào cản bảo hộ cho nghành sản xuất trong nước nói chung và
sữa nói riêng dần được tháo bỏ, thì thị trường sữa của Việt Nam phát triển nhanh
chóng với sự tham gia của nhiều nhà sản xuất trong nước lẫn nước ngoài như
Vinamilk, Dutch Lady, Mead Jonhson, Dumex, Nestlé, Abbott…Cũng như các
ngành khác, ngành sữa là một chuỗi các hoạt động tạo ra giá trị gia tăng từ khâu
sản xuất nguyên liệu từ sữa bò đến khâu chế biến và đưa tới tay người tiêu dùng.
Có thể nói thị trường sữa Việt Nam hiện nay biến động không ngừng, nổi trội hơn
cả là thị trường sữa bột, cạnh tranh sữa nội sữa ngoại, giá sữa leo thang… đặc
biệt là sữa bột cho trẻ em. Do đó chúng em chọn đề tài: “Tình hình thị truờng sữa
bột ở Việt Nam….” để phân tích biến động thị trường sữa bột ở Việt Nam về tình
hình sản xuất, nhập khẩu, tình hình tiêu thụ, giá cả,đồng thời đưa ra đề xuất ổn
định thị trường sữa bột cũng như đưa ra đề xuất để thúc đẩy thị trường sữa phát
triển mạnh hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Bá Thọ đã hướng dẫn chúng em
rất nhiều trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng
bài viết này vẫn không thể tránh khỏi thiếu sót. Chúng em rất mong sự đóng góp ý
kiến của thầy và bạn đọc.
Tập thể nhóm th ực hiện
Bài tiểu luận : Tình hình thị trường của sản phẩm sữa bột ở Việt Nam 2
1. Tình hình sản xuất sữa bột ở Việt Nam
1.1 Nguồn nguyên liệu trong nước
Nguồn nguyên liệu trong nước phụ thuộc vào tiềm năng phát triển của ngành
chăn nuôi bò sữa. Đàn bò sữa tăng trưởng 16%/năm trong giai đoạn 2001-2009, tập
trung chủ yếu ở miền Nam. Miền Bắc chỉ chiếm từ 15-25% tổng số bò sữa tại Việt
Nam trong giai đoạn này. Ở miền Nam, thành phố Hồ Chí Minh là vùng nuôi nhiều bò


sữa nhất, với hơn 69 nghìn con vào năm 2008.
Tương ứng với qui mô đàn bò, miền Nam sản xuất hơn 85% lượng sữa tươi cả
nước. Trong năm 2009, sản lượng sữa cả nước là 278.190 tấn, tăng 6,11% so với năm
2008. Song nhìn chung, Việt Nam không có các điều kiện thuận lợi để chăn nuôi bò
sữa, do khí hậu nhiệt đới và quĩ đất chật hẹp. Hiện nay nguồn sữa nguyên liệu trong
nước chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu để sản xuất các loại sữa đặc, sữa tươi và
sữa chua, còn nguyên liệu để sản xuất sữa bột phải nhập khẩu 100%. Các sản phẩm sữa
bột do các doanh nghiệp trong nước như công ty CP Sữa Việt Nam (Vinamilk), công ty
CP Dinh dưỡng Đồng Tâm (Nutifood), công ty TNHH FrieslandCampina… sản xuất
đều từ nguồn sữa bột nguyên liệu nhập ngoại.
I. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, NHẬP KHẨU SỮA BỘT Ở VIỆT NAM
Bài tiểu luận : Tình hình thị trường của sản phẩm sữa bột ở Việt Nam 3
1.2 Nguồn bột sữa nguyên liệu dùng để sản xuất sữa bột
Với bột sữa nguyên liệu để sản xuất sữa bột, đặc biệt là sữa bột cho trẻ em hiện
nay trên thế giới không phải nước nào cũng có thể sản xuất được. Theo các chuyên gia
ngành sữa thì hầu hết các doanh nghiệp sản xuất sữa bột trong nước cũng như các công
ty sữa trên thế giới có sản xuất các sản phẩm sữa bột đều sản xuất các sản phẩm sữa
bột trên cơ sở sữa bột nền có pha trộn thêm các vi chất có lợi cho sức khỏe và sự phát
triển của cơ thể như chất béo, DHA, ARA, v.v. Hiện nay chỉ một số ít các nước trên thế
giới có thể sản xuất được sữa bột nền có chất lượng, trong đó có thể kể đến là Mỹ, Úc,
New Zealand, Hà Lan. Các doanh nghiệp sản xuất sữa bột của Việt Nam cũng chủ yếu
nhập khẩu sữa bột nền từ các quốc gia này để làm nguyên liệu phục vụ cho việc sản
xuất các sản phẩm sữa bột của mình
1.3 Các hãng sản xuất sữa bột ở Việt Nam
1.3.1 Tình hình cạnh tranh của các hãng
Hiện nay, trên thị trường có 7 công ty chính trong ngành sữa: công ty sữa Việt
Nam - Vinamilk, công ty Dutch Lady, công ty TNHH Nestlé Việt Nam, công ty
Nutifood, công ty cổ phần Hanoi Milk, công ty Đại Tân Việt, công ty F&N, và nhiều
công ty có quy mô sản xuất nhỏ khác. Các công này hiện nay đang cạnh tranh khá gay
gắt trên phần lớn các phân khúc của thị trường.

Bài tiểu luận : Tình hình thị trường của sản phẩm sữa bột ở Việt Nam 4
Đối với các sản phẩm sữa bột và bột dinh dưỡng, Vinamilk chiếm khoảng 35% thị
phần nội địa. Khoảng 65% thị phần còn lại thuộc sản phẩm của các công ty: Dutch
Lady, Nestlé, Abbott (Hoa Kỳ), Anlene (New Zealand), Dumex, Mead Johnson (Hoa
Kỳ)
(Nguồn: Công bố thông tin công ty Vinamilk - công ty BSC)
Biểu đồ 1: Thị phần của một số hãng sữa lớn trên thị trường sữa bột[2]
([2]Thông tin ghi nhận từ các buổi trao đổi, phỏng vấn với đại diện công ty Vinamilk
do Cục QLCT tổ chức.)
1.3.2 Chất lượng sữa bột
1.3.2 Chất lượng sữa bột hiện nay
1.3.2 Chất luợng sữa bột hiện nay
Trên thực tế theo như lời một đại điện của Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm – bộ Y
tế thì việc kiểm tra chất lượng thực sự, nhất là thành phần và hàm lượng các chất dinh
dưỡng trong sữa có đúng như đã ghi ngoài bao bì hay không là rất khó khăn. Việc này
cần phải có những phòng phân tích, hóa nghiệm lớn với đầu tư trang thiết bị khoa học
kỹ thuật hiện đại mà hiện nay ở Việt Nam chúng ta chưa có điều kiện đáp ứng.Theo
đánh giá của một số chuyên gia ngành sữa và các chuyên gia dinh dưỡng, chất lượng
của các sản phẩm sữa bột nguyên hộp nhập khẩu và chất lượng sản phẩm sữa bột thành
phẩm do một số doanh nghiệp lớn trong nước sản xuất về cơ bản là tương đương. Các
sản phẩm này đều đáp ứng được yêu cầu về các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát
triển bình thường của trẻ.
Chỉ có một số sản phẩm sữa bột do các doanh nghiệp hay các cơ sở tư nhân nhỏ lẻ
đóng gói thì chưa đạt yêu cầu về chất lượng. Đã có thực trạng sản xuất sữa chứa
melanine và thành phần và hàm lượng các chất dinh dưỡng thực tế có trong các sản
phẩm sữa bột do các doanh nghiệp, cơ sở này sản xuất nhỏ hơn so với hàm lượng đã
ghi trên nhãn mác và không đảm bảo yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Đối với người tiêu dùng, cần chú ý đến sự toàn vẹn của bao bì, nguồn gốc xuất
xứ của sản phẩm để mua và sử dụng đúng cách. Không nên mua đồ hộp đã phồng,
Bài tiểu luận : Tình hình thị trường của sản phẩm sữa bột ở Việt Nam 5

rộp, rách, nhãn ghi không rõ ràng. Người tiêu dùng nên chọn sữa của các công ty
có uy tín; được cơ quan y tế cấp phép; thành phần dinh dưỡng của sữa cân đối còn
hạn sử dụng. Ngoài ra, khi mua sữa, người tiêu dùng nên lấy hóa đơn mua hàng để
khi có sự cố xảy ra có thể dễ dàng bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình.
Và một điều nữa đối với những gia đình có trẻ nhỏ: Sữa mẹ luôn là nguồn thực
phẩm an toàn nhất, nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ, không một sản phẩm sữa dù
theo công thức nào chứa đầy đủ chất dinh dưỡng cân bằng và hợp lý, dễ dung nạp,
chứa đầy đủ chất kháng thể giúp trẻ trong 6 tháng đầu đời phát triển toàn diện về
thể chất và trí tuệ như sữa mẹ.
2. Tình hình nhập khẩu sữa bột ở Việt Nam
2.1 Các nuớc xuất khẩu sữa nhiều nhất vào Việt Nam
Theo Cục Quản lý cạnh tranh, sữa là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất và khá ổn định trong các ngành thực phẩm tại Việt Nam, với tỷ suất
lợi nhuận tương đối cao. So với các nước trong khu vực, các đánh giá của một số công
ty nghiên cứu thị trường cũng cho biết thị trường sữa bột Việt Nam tăng trưởng khá
cao so với nhiều nước. Đánh giá về tiềm năng phát triển của thị trường, Cục Quản lý
cạnh tranh cho rằng, với tốc độ tăng dân số khoảng 1,2%/năm; GDP tăng trưởng 6-
8%/năm và tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng còn ở mức cao, khoảng 20%,… là những yếu tố
thuận lợi cho sự phát triển của thị trường sữa.
Tuy nhiên, thị trường với tổng giá trị đạt khoảng 10 nghìn tỷ đồng này hiện
đang phụ thuộc khá lớn vào nguồn nhập khẩu. Rất nhiều hãng sữa lớn trên thế giới đã
hiện diện trên thị trường với chủng loại sản phẩm phong phú, đa dạng về mẫu mã, giá
cả và… chất lượng. Nguồn gốc nhập khẩu chủ yếu từ Tây Ban Nha, New Zealand,
Ireland, Đan Mạch, Hà Lan, Phần Lan, Thái Lan, Malaysia,…
Biểu đồ : Kim ngạch nhập khẩu của top 10 nước xuất khẩu sữa nhiều nhất vào
Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2009[].
([]Báo cáo ngành hàng Việt Nam: Sữa – quý 1/2009, Trung tâm thông tin phát
triển NNNT – Bộ NN&PTNT.)
Bài tiểu luận : Tình hình thị trường của sản phẩm sữa bột ở Việt Nam 6
Ngoài ra, còn một lượng hàng khác được nhập qua đường hàng xách tay;

một số doanh nghiệp cũng nhập khẩu một vài tấn đến vài container đển phân phối bán
lẻ, tuy nhiên những dạng kinh doanh này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trên thị trường.
2.2 Kim ngạch nhập khẩu sữa bột những năm gần đây.
Kim ngạch nhập khẩu sữa bột liên tục tăng mạnh trong những năm qua. Năm
2007 có gần 7,1 triệu hộp sữa bột được nhập khẩu vào Viêt Nam, đến năm 2008 đã
tăng thêm 17,3% lên trên 8,3 triệu hộp…"Với sản phẩm sữa bột, chúng ta đang thua
ngay chính trên sân nhà của mình. Các nhà chế biến sữa trong nước vẫn phải phụ thuộc
rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập từ nước ngoài, vì ngành chăn nuôi bò sữa nội địa
vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu chế biến. Lượng sữa tươi trong nước chỉ thỏa mãn 22-
25% nhu cầu nguyên liệu", ông Trịnh Quý Phổ, Tổng thư ký Hiệp hội sữa Việt Nam
phát biểu.
Theo khảo sát, ngay cả khi sữa nội và ngoài cùng sản xuất từ một nguồn sữa
nguyên liệu nhập khẩu, sản phẩm mác ngoại có xu hướng được người tiêu dùng ưa
chuộng hơn. Giai đoạn từ 2007-2009, sản lượng bán nhóm sữa bột của các hãng sữa
nước ngoài chiếm xấp xỉ 70% toàn thị trường. Theo danh sách các doanh nghiệp nhập
khẩu sữa do Tổng cục Hải quan thống kê, năm 2008-2009 có tới 230 doanh nghiệp
nhập khẩu sữa bột thành phẩm và sữa bột nguyên liệu. Mặc dù vậy, trên thực tế chỉ một
lượng nhỏ các doanh nghiệp có thể tồn tại và mở rộng thị phần. Riêng Abbott, Dutch
Lady, Vinamilk, Dumex, Mead Johnson, Nestlé đã chiếm gần 90% thị phần sữa bột tại
Việt Nam.
II. TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SỮA BỘT Ở NUỚC TA
Bài tiểu luận : Tình hình thị trường của sản phẩm sữa bột ở Việt Nam 7
1. Thống kê tình hình tiêu thụ sữa bột trong những năm qua.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế cả nước nói chung,trong thời gian
qua,đời sống nhân dân đã được cải thiện nhiều,theo đó mức sống cũng như thu nhập
bình quân đầu người (GDP) tăng lên,con người ngày càng yêu cầu cao hơn về sức khỏe
và dịch vụ. Điều này góp phần không ít trong việc thúc đẩy thị trường sữa Việt Nam
nói chung và thị trường sữa bột Việt Nam nói riêng tăng trưởng mạnh , với tốc độ bình
quân khoảng 9,06%/năm từ năm 2000 đến nay.
Theo số liệu thống kê của Agroinfo (Trung tâm Thông tin phát triển nông

nghiệp - nông thôn), tiêu thụ các sản phẩm sữa tính theo đầu nguời tại Việt Nam tăng
khá mạnh trong giai đoạn 1997 - 2009, trong đó, đứng đầu là sữa bột nguyên kem, với
tốc độ tăng trưởng bình quân 28,9%/năm (từ 0,07 kg/người (1997) lên 4 kg/người
(2009). Tiếp đến là sữa không béo, với mức tăng bình quân xấp xỉ 20%/năm.
Cũng theo Vntrades (trang web điện tử về thị trường việt nam) cho biết, tiêu thụ
sữa bình quân đầu người tăng bình quân 7,85%/năm, từ 8,09 lít/người năm 2000 lên
14,81 lít/người năm 2008. Giai đoạn 2000 - 2005, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu
người đã tăng gấp rưỡi. Năm 2008, chỉ tiêu này tiếp tục tăng khoảng 21,2% so với
2005. Quy mô tiêu thụ sữa của toàn thị trường vào năm này đạt 1.257 triệu lít quy đổi.
Dưới đây là bảng số liệu thống kê tình hình tiêu thụ sữa trong những năm
qua.
Bảng 1: Mức tiêu thụ sữa trong nước trong một số năm .
(Xử lý theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan)
2000 2005 2006 2007 2008
Dân số(triệu người) 77,63 82
,16
83,08 83,99 84,90
Tiêu thụ sữa nội địa(triệu lít quy
đổi)
628 1004 1056 1239 1257
Tiêu thụ bình
quân(lít/người/năm)
8,09 12,22 12,71 14,75 14,81
Bài tiểu luận : Tình hình thị trường của sản phẩm sữa bột ở Việt Nam 8
Bảng 2: Mức tăng trưởng tiêu thụ sữa trong nước các giai đoạn.
(Xử lý theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan)
Tốc độ tăng trưởng Đơn vị 2001-
2005
2006-2008 2001-2008
Tiêu thụ sữa %/năm 9,84 7,79 9,06

Tiêu thụ sữa bình quân đầu
người
%/năm 8,60 6,62 7,85
2. Sự tăng truởng về tiêu thụ sữa bột ở nuớc ta
Về thực trạng,thị trường Việt Nam với hơn 86 triệu dân, tỉ lệ tăng hàng năm vào
khoảng 1,2% nên mỗi năm có khoảng hơn 1 triệu trẻ em ra đời, với mức tăng GDP
khoảng 6-8% mỗi năm và tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở mức tương đối cao (khoảng 20%)
sẽ là một thị trường tiềm năng để phát triển ngành sữa bột.
Hơn nữa, như thống kê ở bảng trên, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người tại
Việt Nam năm 2008 là 14,8 lít/người/năm,và có sự tăng trưởng khá mạnh,song chỉ so
với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Theo ông Phan Chí Dũng - Vụ trưởng Vụ
Công nghiệp nhẹ - Bộ Công thương thì,tiêu thụ sữa ở Việt Nam vẫn còn ở mức rất thấp
so với các nước và vùng lãnh thổ khác trong khu vực và trên thế giới như Thuỵ Sỹ 140
lít/người/năm, Hà Lan 120 lít/người/năm,… nên nhu cầu về sữa và tiềm năng của thị
trường sữa ,đặc biệt là sữa bột còn rất lớn.
Hiện nay,cơ cấu tiêu dùng đang có nhiều thay đổi. Năm 2002 sữa bột chiếm
khoảng 25% tổng khối lượng sữa tiêu thụ trong nước, nay chỉ còn khoảng 21%.
3. Tình hình phân bố những nơi tiêu thụ sữa ở nuớc ta
Mặt khác,sữa bột hiện nay được tiêu thụ chủ yếu tại các thành phố lớn, khu vực
thành thị có kinh tế phát triển, còn tại các vùng nông thôn thì rất thấp. Theo số liệu
thống kê của Viện Dinh dưỡng thì người dân thành thị sử dụng lượng sữa bột bình
quân hàng năm nhiều gấp 4 lần người dân nông thôn. Các vùng nông thôn càng nghèo,
càng xa thì cơ hội được dùng, các sản phẩm sữa càng ít. Ngay ở các vùng nông thôn thì
mức tiêu thụ sữa bột của các xã nghèo chỉ bằng một phần năm mức tiêu thụ sữa bột ở
xã không nghèo. Trong tương lai khi mức thu nhập bình quân tăng lên thì mức tiêu thụ
sữa cũng sẽ gia tăng cả ở khu vực thành thị và nông thôn.

×