Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Giải pháp mở rộng huy động vốn tại NHNo Huyện Vân Đồn Tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.34 KB, 81 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cùng đồng tâm hiệp lực phấn
đấu cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước để đưa nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ văn minh. Để thực hiện được mục tiêu lâu dài đó đòi hỏi phải có nguồn
tài lực vững chắc, đó là vốn để đầu tư. Nguồn vốn để phát triển kinh tế đất
nước là vô cùng quan trọng và cần phải được động viên khai thác cả ở trong và
ngoài nước.
Với phương châm đi vay để cho vay, hệ thống NHTM đã trở thành
trung gian điều hòa và phân phối vốn có hiệu quả nhất trong nền kinh tế. Làm
sao để khơi tăng nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vay của nền kinh tế, đó
luôn là động lực thôi thúc các NHTM tìm kiếm cơ hội, giải pháp để không
ngừng tăng trưởng quy mô và chất lượng nguồn vốn huy động.
Huyợ̀n Vân Đồn - Tỉnh Quảng Ninh là mụ̣t huyợ̀n miền núi, hải đảo
nằm ở vị trí tiền tiêu phía Đông bắc của Tổ quốc thuộc tỉnh Quảng ninh bao
gồm phần đất đảo nổi và thềm lục địa gồm 11 xã và 1Thị Trấn với diện tích
đất tự nhiên (phần đất nổi) là 596,76 km
2
chiếm 10,2% diện tích của Quảng
Ninh. Nền kinh tế của Huyện Vân Đồn chủ yếu là Nụng, lõm, ngư nghiệp.
Đây là ngành kinh tế truyền thống chiếm vị trí quan trọng trong phát triển
kinh tế xã hội của huyện. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế của huyện còn ở mức
thấp. Nhìn tổng thể kinh tế huyện chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, các ngành
nghề phát triển không đồng đều.
Ngân hàng Nông Nghiệp (NHNo) huyợ̀n Võn Đồn có vai trò đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của huyện. Trong những năm
qua NHNo huyện đã huy động khối lượng nguồn vốn tương đối để đáp ứng
cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của huyện, bước đầu đã giải


Đỗ Thị Quyên
1
Khoá luận tốt nghiệp
quyết được được nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động từ nội bộ
nền kinh tế của Huyợ̀n Võn Đồn còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng.
Làm thế nào để thu hút được mọi nguồn vốn nhàn rỗi của nền kinh tế vào
Ngân hàng thực sự là vấn đề cấp thiết cần tìm ra lời giải đáp.
Xuất phát từ thực tế trên, dựa trên những vấn đề lý luận đã được nghiên
cứu trong quá trình học, cộng với những kinh nghiệm làm việc thực tế, em đã
lựa chọn đề tài " Giải pháp mở rộng huy động vốn tại NHNo Huyợ̀n
Võn Đồn Tỉnh Quảng Ninh" làm khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu.
Khóa luọ̃n tập trung nghiên cứu nhằm những vấn đề sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản vờ̀ nghiợ̀p vụ huy động vốn
của NHTM.
- Phân tích thực trạng nguồn vốn của NHNo huyợ̀n Võn Đồn
- Đưa ra các giải pháp tạo bước chuyển biến mới trong hoạt động huy
động vốn, cải thiện cơ cấu vốn đáp ứng yêu cầu của công việc xây dựng và
phát triển kinh tế Huyợ̀n Võn Đồn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Những nội dung chủ yếu của nghiệp vụ huy
động vốn của NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Chỉ giới hạn nghiên cứu nghiệp
vụ huy động vốn tại NHNo Huyợ̀n Võn Đồn Tỉnh Quảng Ninh, những
giải pháp đưa ra cũng giới hạn trong phạm vi áp dụng tại NHNo Huyợ̀n
Võn Đồn.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận sử dụng phương pháp luận duy vật biến chứng, duy vật lịch
sử để xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái vận động biến đổi không
ngừng và thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau,phương

pháp phân tích tổng hợp số liệu thực tế, vận dụng lý luận vào thực tiễn để giải
thích nguyên nhân từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp.
Đỗ Thị Quyên
2
Khoá luận tốt nghiệp
5. Kết cấu của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của khóa luận được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản vờ̀ vụ́n trong kinh doanh của
NHTM.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn huyợ̀n Võn Đồn Quảng Ninh.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng huy động vốn tại
NHNo Huyợ̀n Võn Đồn Quảng Ninh.
Đỗ Thị Quyên
3
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỜ̀ VỤ́N TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI
1.1. Huy động vốn với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Thương mại
1.1.1 Khái niệm vờ̀ vụ́n trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Thương mại
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính. Ở Mỹ, các trung
gian tài chính được chia thành các tổ chức nhận tiền gửi (các NHTM, các liên
hiệp tín dụng), các tổ chức tín dụng hợp đồng (các công ty bảo hiểm sinh
mạng, các công ty bảo hiểm cháy và tai nạn, các quỹ trợ cấp) và các trung
gian đầu tư (các công ty tài chính, các quỹ tương trợ, các quỹ tương trợ thị
trường tiền tệ).

Dù các trung gian tài chính có được phân chia theo cách nào, thì
NHTM nếu xét về khối lượng tài sản và tầm quan trọng đối với nền kinh tế -
vẫn giữ một vai trò chủ đạo. Các NHTM có thể được tổ chức theo nhiều loại
hình khác nhau, chẳng hạn Ngân hàng tư nhân, Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng
quốc doanh và các Ngân hàng liên doanh. Dù dưới bất kỳ hình thức nào, các
NHTM luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt được điều đó, công cụ duy nhất
mà các ngân hàng phải có là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy
động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác.
Thực chất, vốn Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở
hữu của chúng gửi vào Ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay
nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền hạn sử dụng vốn tiền tệ cho Ngân
Đỗ Thị Quyên
4
Khoá luận tốt nghiệp
hàng, đờ̉ rụ̀i Ngân hàng phải trả lại cho họ một khoản thu nhập. Và như vây,
Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức
tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi
hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định
chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức
năng của NHTM.
1.1.2 Các loại vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Thương mại
1.1.2.1 Vốn chủ sở hữu
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập
được, thuộc sở hữu của Ngân hàng. Vốn này chiờ́m mụ̣t tỷ trọng nhỏ trong
tổng vốn của Ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập
một Ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, Ngân hàng

có thể chủ động sử dụng vào các mục đích khác nhau như mua sắm TSCĐ,
đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng mạng lưới chi nhánh. Mặt khác, với chức
năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây lòng tự tin đối với
khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp
thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến và sự phát triển của
NHTM. Vốn tự có bao gồm những thành phần sau:
Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật
trong từng loại hình Ngân hàng & theo từng thời kỳ khác nhau mà các chủ sở
hữu cần phải có trước khi ký giấy phép thành lập.
Khác với vốn pháp định, vốn điều lệ là vốn được ghi vào điều lệ hoạt
động của ngân hàng và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, theo quy
định hiện tại tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Trong nền kinh tế thị trường,
với sự gia tăng các loại hình Ngân hàng, vốn chủ sở hữu cũng được hình
thành theo rất nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng từng hình thức
sở hữu. Đối với các NHTM cổ phần, đây là vốn sở hữu riêng của các cổ đông
Đỗ Thị Quyên
5
Khoá luận tốt nghiệp
đóng góp hoặc được phát hành thêm khi được phép của cấp có thẩm quyền.
Đối với các NHTM NN, do Nhà Nước cấp, còn đối với Ngân hàng liên doanh
là sự góp vốn từ các bên tham gia góp vốn trong và ngoài nước.
Vốn tự có bổ sung
- Vốn tự có của NHTM không ngừng được tăng lên theo thời
gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vốn tự có bổ sung bao gồm:
+ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, có mục đích tăng cường số vốn tự có
ban đầu.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.
+ Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận
chưa phân bổ hoặc các quỹ đặc biệt khác như: quỹ phúc lợi, quỹ khen

thưởng, quỹ khấu hao tài sản cố định
1.1.2.2 Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ
các TCKT và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các
nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng
làm vụ́n đờ̉ kinh doanh. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ
sở hữu khác nhau. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở
hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến kỳ hạn (tiền
gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn (tiền gửi không kỳ hạn). Vốn
huy động vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM.
Vốn huy động luôn biến động, nên Ngân hàng không được phép sử
dụng hết số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để
đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động bao gồm:
Tiền gửi
Thực hiện chức năng thủ quỹ cho xã hội của các NHTM, các NHTM
thường xuyên nhận tiền gửi của các Doanh nghiệp, TCKT & cá nhân trong
nền kinh tế dưới nhiều hình thức:
Đỗ Thị Quyên
6
Khoá luận tốt nghiệp
Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào
và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ
hạn có lãi suṍt thṍp hoặc không được lãi và bao gồm hai loại sau:
- Tiền gửi thanh toán là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết
được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa,
dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách
thường xuyên, an toàn và thuận tiện qua dịch vụ thanh toán không dùng tiền
mặt (TTKDTM) của các NHTM. Các NHTM có dịch vụ thanh toán không
dùng tiền mặt tốt sẽ có lợi thế trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi này đờ̉

chuyờ̉n một phần để cho vay. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại
Ngân hàng trên hai loại tài khoản: tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản
vãng lai. Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho
bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Khách hàng
mở tài khoản này nhằm mục đích "đảm bảo khả năng" và sử dụng dễ dàng
thuận tiện đụ̀ng vụ́n khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có
lúc dư có. Với tài khoản này, khách hàng còn có thể được Ngân hàng đáp ứng
nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Đứng trên góc độ
Ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà Ngân hàng luôn phải
chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi Ngân
hàng do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhọ̃p trờn mụ̃i tài khoản tiền gửi
thanh toán của doanh nghiệp hay giữa các tài khoản của các doanh nghiệp làm
cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản mà Ngân hàng được phép sử dụng
một phần làm vốn kinh doanh.
- Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy là khoản tiền được ký gửi với mục
đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách
hàng có thể đến Ngân hàng rút ra để chi tiêu. Cũng giống như trường hợp
trên, Ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút
Đỗ Thị Quyên
7
Khoá luận tốt nghiệp
tiền và chỉ được phép sử dụng tồn khoản chi khi đã đảm bảo khả năng thanh
toán chi trả.
Tiền gửi có kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và Ngân
hàng về thời gian rút tiền. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ
tích lũy và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi. Các
NHTM nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn: Là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo
rút (tức khi muốn rút ra phải báo trước)vờ̀ cơ bản, các khoản tiền gửi có kỳ
hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng

vốn trên tài khoản vãng lai. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các khoản
tiền gửi có thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền
gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng
phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách
đa dạng hóa tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất
khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
Tiền gửi tiết kiệm
Xét về bản chất, đây là một phần thu thập của cá nhân người lao động
chưa sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy
tiền một cách an toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm
là một dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Trên
thực tế, trong nền kinh tế thị trường tiền gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai
loại hình tiết kiệm sau:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc
nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền có sự thỏa thuận về thời hạn
gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn.
Đỗ Thị Quyên
8
Khoá luận tốt nghiệp
Các nguồn huy động khác.
Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các NHTM còn phát hành chứng
chỉ tiền gửi, kỳ phiếu & trái phiếu NHTM. Thực chất các nghiệp vụ này là
Ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá. Trong
đó, chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá qui định, trái phiếu
là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên được Ngân hàng phát
hành từng đợt, tùy theo mục đích với sự chấp thuận của NHTW hoặc Hội

đồng chứng khoán Quốc gia.
Trong huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếu Ngân hàng, các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi
huy động. Nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi Ngân hàng thiếu vốn mà
vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. Như vậy, khi thực hiện huy
động vốn dưới các hình thức này, các Ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để
quyết định về khối lượng huy động , mức lãi suất và thời hạn, phương pháp
huy động. Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã
huy động đủ khối lượng vốn theo dự kiến các Ngân hàng sẽ ngừng việc huy
động (bán) kỳ phiếu, trái phiếu.
Tóm lại: Vốn huy động là tiền đề, đồng thời là điều kiện tiên quyết đối
với mở rộng hoạt động kinh doanh của các NHTM. Quy mô, cơ cấu, giá cả
bình quân huy động vốn sẽ quyết định đờ́n viợ̀c sử dụng vốn, ảnh hưởng lớn
đến năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập
với khu vực & Quốc tế. Mặt khác, nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng. Đồng thời các NHTM phải tôn trọng các
giới hạn về mức huy động vốn theo qui định ở mỗi nước.
1.1.2.3 Vốn đi vay
Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM với các Tổ chức tín dụng
khác và giữa các NHTM với NHTW. Quan hệ vay mượn này chỉ diễn ra ở cấp
hội sở chính của các NHTM (trừ trờng hợp vay bù đắp thiếu hụt trong thanh
Đỗ Thị Quyên
9
Khoá luận tốt nghiệp
toán bù trừ) Các NHTM sẽ đi vay vốn lẫn nhau trên thị trường tiền tệ liên
Ngân hàng để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi Ngân hàng đã sử dụng
hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động, hay nói cách khác là tạm
thiếu vốn khả dụng. Trong trường hợp vốn vay trên tiếp tục không đáp ứng
được cho đủ nhu cầu sử dụng của NHTM thì NHTM sẽ đi vay của Ngân hàng

Trung ương thông qua hình thức tái chiết khấu & tái cấp vốn.
Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vụ́n, vụ́n vay Ngân hàng
Trung ương được chia thành các loại: Vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để
thanh toán và vay tái cấp vốn.
- Vốn vay ngắn hạn bổ sung là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ
sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được
vay khi còn hạn mức tín dụng và trong hạn mức tín dụng đã thỏa thuận.
- Vốn vay để thanh toán các NHTM vay Ngân hàng Trung ương nhằm
thực hiện công tác thanh toán giữa các Ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm
thời trong thanh toán (Thời hạn vay loại này thường ngắn).
-Tái cấp vốn Ngân hàng Trung ương cho NHTM vay trên cơ sở các
chứng từ có giá. Các chứng từ này phải là các chứng từ có chất lượng, tức
phải thỏa mãn những điều kiện: hợp pháp, hợp lệ, đảm bảo an toàn. Tái cấp
vốn bao gồm hai hình thức:
+ Cho vay tái chiết khấu: Ngõn hàng Trung ương nhận các chứng từ có
giá mà các NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống
như các NHTM đã làm. Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đối với các
NHTM đã được giới hạn trong mức cho phép (hạn mức tái chiết khấu) để
thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà Nước.
+Cho vay có đảm bảo: là hình thức các NHTM đem các chứng từ có
giá đến Ngân hàng Trung ương để làm đảm bảo, Ngân hàng Trung ương sẽ
cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo sự quản lý của Nhà Nước.
Vốn vay Ngân hàng Trung ương là quan hệ trực tiếp giữa các NHTM
với Ngân hàng Trung ương nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Khi
Đỗ Thị Quyên
10
Khoá luận tốt nghiệp
Ngân hàng Trung ương sử dụng công cụ thị trường mở, mua bán các trái
phiếu, kỳ phiếu ngắn hạn, hợ̀ thụng NHTM phải chịu sự kiểm soát gắt gao của
Ngân hàng Trung ương.

1.1.2.4 Vốn khác
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một
khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản tiền thư tín dụng,
tài khoản tiền gửi séc bảo chi, và các khoản tiền phong tỏa do Ngân hàng
chấp nhận các hụ́i phiờ́u thương mại v.v. Các khoản tiền tạm được coi là tiền
nhàn rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn
đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín
dụng khác, nhận và chuyờ̉n vụ́n cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Do
việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ công việc, nên Ngân hàng có thế sử
dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh.
1.1.3. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng
1.1.3.1.Vốn là cơ sở để tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì
phải có vốn. Riêng đối với Ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi
hoạt động kinh doanh của mình. Nói cách khác, Ngân hàng không có vốn thì
không thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh bởi vì, với đặc trưng của hoạt
động Ngân hàng, vụ́n khụng chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là
đối tượng chủ yếu của NHTM.
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biợ̀t trờn thị trường
tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn
dài hạn). Những Ngân hàng trường vốn là Ngân hàng có nhiều thế mạnh trong
kinh doanh. Chính vì thế, có thể nói: vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh
doanh của Ngân hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều
Đỗ Thị Quyên
11
Khoá luận tốt nghiệp
lệ theo luật định, thì Ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng
trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
1.1.3.2 Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động

khác của Ngân hàng
Vốn của Ngân hàng quyết định đờ́n viợ̀c mở rộng hay thu hẹp khối
lượng tín dụng. Thông thường, nếu so với các Ngân hàng lớn thì các Ngân
hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và khối
lượng cho vay của các Ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi, các Ngân
hàng lớn cho vay được tại thị trường trong vùng thậm chí trong nước và cả
quốc tế, thì các Ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp nên các
Ngân hàng nhỏ không phản ứng nhậy bén được với sự biến động về lãi suất,
gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và các
thành phần kinh tế. Giả sử trên địa bàn Ngân hàng đó, nhu cầu vốn rất lớn, mà
nếu Ngân hàng không huy động được, thì không thể đáp ứng được nhu cầu
cho vay. Ngược lại nờ́u khả năng vốn của Ngân hàng đủ đáp ứng các nhu cầu
vay, Ngân hàng có đủ điều kiện mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ
Ngân hàng. Chính vì vậy, càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong
hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
1.1.3.3 Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của
Ngân hàng trên thương trường
Thật vậy, trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở
rộng quy mô hoạt động đòi hỏi các Ngân hàng phải coi uy tín lớn trên thị
trường là điều trọng yếu. Uy tín đó phải thể hiện trước hết ở khả năng sẵn
sàng thanh toán chi trả cho khách hàng của Ngân hàng. Khả năng thanh toán
của Ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của Ngân hàng càng lớn. Vì vậy,
loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của Ngân hàng tỷ lệ thuận với
vốn của Ngân hàng nói chung và với vốn khả dụng của Ngân hàng nói riêng.
Với tiềm năng vốn lớn, Ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô
Đỗ Thị Quyên
12
Khoá luận tốt nghiệp
ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa
giữ chữ tín, vừa nâng cao thanh thế trên thương trường.

1.1.3.4 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ
thuật hiện đại của Ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng
thời, khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với Ngân hàng trong việc mở
rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối
lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay. thậm chí quyết định
mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều
khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và
Ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện
để bổ sung thờm vụ́n tự có Ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và
quy mô hoạt động của Ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời, vốn của Ngân hàng lớn sẽ giúp cho Ngân hàng có đủ khả
năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là
cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch
vụ thuê mua (leasing), mua bán nợ (factoring), kinh doanh trên thị trường
chứng khoán. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân
tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thờm vụ́n cho Ngân hàng đồng
thời tăng sức cạnh tranh của Ngân hàng trên thương trường.
1.2 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
Các NHTM làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những người gửi tiền) và
cho vay hoặc đầu tư với mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là công việc
của một trung gian tài chính, đóng vai trò trung gian giữa người có vốn và
người cõ̀n vụ́n. Quá trình huy vốn của các NHTM được thực hiện dưới các
hình thức sau:
Đỗ Thị Quyên
13
Khoá luận tốt nghiệp
1.2.1 Huy động vốn tiền gửi
1.2.1.1 Huy động tiền gửi không kì hạn
Đây là loại tiờ̉n gửi mà chủ nhân của nó có thế rút tiền hoặc trả cho

bên thứ ba bằng phát hành séc. Chính vì vậy, mà nó còn có tên là tiền gửi có
thể phát hành séc. Ở một số nước có công nghệ Ngân hàng phát triển cao,
việc rút tiền từ tài khoản này phần lớn được thực hiện bằng điện thoại hoặc
cũng có thể rút tiền một cách dễ dàng qua các máy rút tiền tự động - ATM.
Đối với khách hàng, khi sử dụng tài khoản tiền gửi không kỳ hạn việc
thanh toán dễ dàng được xem như là yếu tố quan trọng, còn việc hưởng lãi đối
với số vốn được dùng với mục đích giao dịch chỉ là điều thứ yếu. Do vậy, loại
tiền gửi này được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lãi suất cụ
thể. Về phía các NHTM, có chăng lợi thế là chỉ cần bỏ ra những chi phí về
quản lý tài khoản hoặc trả lãi (nếu có thì cũng rất nhỏ). Lợi thế này của Ngân
hàng tuy nhiên còn phụ thuộc vào từng thời kỳ trong năm và khả năng của
Ngân hàng trong việc dự đoán về biến động trờn sụ́ dư tiền gửi không kỳ hạn
này.
Ở Việt Nam, tiền gửi thuộc loại này được thể hiện dưới các hình thức
như: tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của các Tổ chức kinh tế và tài khoản
tiền gửi cá nhân. Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng
ở Việt Nam còn quá thṍp, đờ̉ khuyến khích việc thực hiện thanh toán qua
Ngân hàng, các NHTM ở Việt Nam đã tiến hành trả lãi cho tiền gửi này (có
những thời điểm được trả ngang bằng với lãi suất tiền gửi không kì hạn). Ở
các nước phát triển, loại tiền này chiờ́m mụ̣t vị trí tương đối quan trọng trong
kết cấu nguồn vốn của NHTM. Chẳng hạn, ở Mỹ, các tài khoản thuộc loại này
chiếm khoảng 30% tiền gửi Ngân hàng. Vì lẽ đó, để tạo nguồn tiền gửi trên
tài khoản thanh toán, việc thu hút và giữ khách hàng được các Ngân hàng rất
coi trọng. Có thế kể ra đây một số kinh nghiệm ở Đức như: quảng cáo, nâng
cao uy tín hoạt động, hiện đại hóa và mở rộng cung ứng dịch vụ, mở rộng
phạm vi hoạt động trong và ngoài nước, tạo tiện lợi cho các dịch vụ khách
Đỗ Thị Quyên
14
Khoá luận tốt nghiệp
hàng về thời gian và tốc độ, giảm chi phí bằng cách lấy lợi nhuận từ việc sử

dụng số vốn " tạm thời nhàn rỗi này" để bù đắp cho các khoản lệ phí thanh
toán phải thu của khách hàng
1.2.1.2 Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Ở Mỹ tiền gửi có kỳ hạn chiếm 39% tiền gửi Ngân hàng. Các khoản
này chủ yếu được thể hiện bằng chứng chỉ tiền gửi (CDs – Certificate of
Deposits) và được ghi rõ hạn định và giá trị thanh toán. Việc rút tiền trước
hạn sẽ bị phạt và mức phạt có thể vượt quá tiền lãi được hưởng tính đến ngày
rút tiền. Nhưng ở Đức, để khắc phục việc rút vốn trước hạn gây bất lợi cho
người gửi tiền, Ngân hàng thường cấp cho khách hàng cần rút vốn trước hạn
một khoản tín dụng mà coi khoản tiền gửi theo kỳ hạn là khoản đảm bảo cho
tín dụng đó. Mức lãi suất đối với các chứng chỉ tiền gửi có thể cố định hoặc
linh hoạt tùy theo sự lựa chọn của khách hàng và đối với các chứng chỉ tiền
gửi có lãi suất linh hoạt; khách hàng có thể gửi thờm tiờ̀n trước hạn định. Các
chứng chỉ tiền gửi đã được đa dạng hóa nhằm đáp ứng sự cạnh tranh trong
huy động vốn của các Ngân hàng. Ví dụ, các chứng chỉ tiền gửi với mệnh giá
cao do Ngân hàng lớn phát hành có thể chuyển nhượng được và chính những người
mua chứng khoán đã tạo ra một thị trường phụ cho các chứng chỉ tiền gửi này. Như
vậy, Ngân hàng có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư lớn, mà lẽ ra các nhà đầu tư này
đã có thể dùng vốn đầu vào các trái phiếu Kho bạc hay vào thị trường tiền tệ. Các
chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyện nhượng tốt này thường được các công ty, các
quỹ hưu trí và các tổ chức chính quyền đầu tư với khối lượng lớn và được giao dịch
trên thị trường chứng khoán thứ cấp, trước hạn định thanh toán.
Ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi
(mà chúng ta vẫn thường gọi là kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích) đã xuất
hiện với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng Tuy mới được sử dụng trong vài
năm trở lại đây, song tình hình huy động này đã ngày càng phát huy vai
trò trong việc tạo vốn của các Ngân hàng. Trên thực tế, tỷ trọng huy động
Đỗ Thị Quyên
15
Khoá luận tốt nghiệp

vốn bằng hình thức phát hành kỳ phiếu Ngân hàng cao hơn so với các
loại hình huy động khác.
1.2.2 Huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Từ lâu tiền gửi tiết kiệm đã được coi là công cụ huy động vốn truyền
thống của các NHTM. Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiờ́m
mụ̣t tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi Ngân hàng (ở Mỹ, tài khoản tiền gửi
chiếm khoảng 25%). Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại sau: Loại không kỳ
hạn, loại có kỳ hạn ngắn và loại có kỳ hạn dài.
1.2.2.1. Tiết kiệm không kỳ hạn
Thực chất đây là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Đối với khoản
tiền này, chủ tài khoản có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào mà không phải báo
trước. Tuy số dư tài khoản này thường không lớn, nhưng có ưu điểm hơn so
với các tài khoản tiền gửi giao dịch ở chỗ khác: số dư này ít biến động. Chính
vì vậy, đối với loại tiền này, các NHTM thường phải trả lãi suất cao hơn so
với tiền gửi thanh toán. Đó là điều kiện để các NHTM có thể dễ dàng huy
động số vốn này.
1.2.2.2 Tiết kiệm có kỳ hạn ngắn
Loại hình tiết kiệm này khá quen thuộc ở Việt Nam. Các NHTM ở Việt
Nam thường huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ ba tháng đến một năm. Về
nguyên tắc, một khi khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này, họ sẽ không
được rút ra (cả gốc và lãi) trừ khi đã hết hạn gửi tiền. Để tăng sức cạnh tranh
thu hút tiền gửi, một số NHTM vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn.
Tuy nhiên, nhằm tránh việc khuyến khích khách hàng rút tiền trước hạn, một
phần trong tiền lãi mã khách hàng được hưởng đã bị khấu trừ (có thể là Ngân
hàng chỉ được hưởng một mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cho
khoảng thời gian khách hàng gửi tiền).
Tiết kiệm dài hạn: Loại tiết kiệm này rất phổ biến ở một số nước công
nghiệp, nhằm thu hút số tiền nhàn rỗi trong thời hạn dài. So với các loại hình
Đỗ Thị Quyên
16

Khoá luận tốt nghiệp
tiết kiệm khác, đối với tài khoản này, bất kỳ lúc nào chủ tài khoản cũng có thê
gửi tiền vào tài khoản với số lượng không hạn chế, nhưng chỉ được rút ra khi
đến hạn. Đây là loại hình tiết kiệm mà Ngân hàng cần tận dụng nhằm tạo các
nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn
của mình.
1.2.3 Huy động vốn thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá
1.2.3.1.Huy động vốn qua phát hành chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn
Việc huy động các chứng chỉ tiền gửi thuộc loại này có ý nghĩa quan
trọng cả trong việc quản lý tài sản Nợ và trong việc tăng nguồn vốn ổn định
cho Ngân hàng khi cần thiết.
Mức lãi được trả cho các chứng chỉ tiền gửi loại này được quy định
bằng cách thỏa thuận trực tiếp giữa Ngân hàng và người gửi tiền hoặc được
quy định ở mức mà người gửi tiền có thể chấp nhận được.
Xuất phát từ thực tế khách quan, những người mua chứng chỉ tiền gửi
này rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất. Để huy động được vốn nhằm
đáp ứng các nhu cầu thanh toán hay nhu cầu tín dụng, các NHTM có thể
đưa ra mức lãi suất cao hơn so với chứng chỉ tiền gửi khác (hoặc cũng có
thể cao hơn mức lãi suất của trái phiếu Kho bạc trong điều kiện ở Việt
Nam).
1.2.3.2. Huy động vốn thông qua việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
Ngân hàng Thương mại
Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường
vốn dưới hình thức giṍy nhọ̃n nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để huy
động vốn, trong đó cam kết trả lãi và gốc cho người mua (hoặc người sở hữu)
sau một thời gian nhất định. Về phía người mua, trái phiếu Ngân hàng là giấy
chứng nhận việc đầu tư vốn và quyền được hưởng thu nhập của người mua
trên số tiền mua trái phiếu Ngân hàng.
Đỗ Thị Quyên
17

Khoá luận tốt nghiệp
Thực chất, hình thức tạo vốn nay đã giúp cho các Ngân hàng thương
mại chủ động trong việc huy động vụ́n đờ̉ thực hiện các dự án đầu tư dài hạn
và qua hình tạo vốn này còn giúp các NHTM tạo vụ́n mụ̣t cạnh tranh nhanh
chóng.
Theo kinh nghiệm tại Đức, trái phiếu Ngân hàng được phát hành với
mức lãi suất cố định và mức lãi suất này được xác định theo mức lãi suất trên
thị trường vốn tại thời điểm phát hành. Hầu hết các trái phiếu Ngân hàng đều
được đưa vào giao dịch chính thức hay giao dịch tự do ở một hay nhiều sở
giao dịch chứng khoán Đức. Do đó, những người đầu tư vào trái phiếu Ngân
hàng đều có thể thu hồi vốn vào bất cứ lúc nào. Chính vì vậy, điều đó không
chỉ tạo điều kiện cho Ngân hàng trong việc thu hút vốn mà còn thuận lợi kể
cả cho khách hàng.
Ngoài ra, kinh nghiệm cho thấy: việc huy động vốn từ trái phiếu khá
phổ biến ở các nước, nó được xuất hiện và phát triển từ các nước Châu Âu
trong những năm 60 của thể kỷ 20 và ngày nay các giao dịch này đã phát triển
tới quy mô quốc tế bao gồm nhiều Ngân hàng và công ty tài chính tham gia.
Nghiệp vụ huy động vốn qua trái phiếu đã đem đến cho Ngân hàng những
khoản lợi nhuận cao bởi khả năng " tiêu thụ" các khoản vốn huy động này đã
được nhanh chóng chuyờ̉n đờ́n các nước đang "khát vụ́n" đờ̉ phát triển nhất là
ở Châu Á, Nam Mỹ.
Huy động vốn qua đi vay các Tổ chức Tín dụng và Ngân hàng Trung ương
1.2.3.3 Vay các Tổ chức tín dụng khác trên thị trường tiền tệ liên Ngân
hàng
Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của
các NHTM không chỉ về mặt quy mô đơn thuần mà chủ yếu mang ý nghĩa
như là một biện pháp quản lý các mục tài sản nợ. Các Ngân hàng có thể đi
vay từ nhiờ̀u nguụ̀n khác nhau: Vay từ các Tổ chức tín dụng khác.
Đỗ Thị Quyên
18

Khoá luận tốt nghiệp
Đó là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị
trường liên Ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, các NHTM thường
sử dụng tới hai giải pháp trên trong các trường hợp sau:
- Thứ nhất : Các Ngân hàng thường chỉ vay Ngân hàng Trung ương khi
không còn giải pháp nào khác nhằm tránh việc sử dụng tối đa hạn mức tái
chiết khấu, mà qua đó có thể gây sự chú ý của Ngân hàng Trung ương.
- Thứ hai : Khi một khách hàng tốt trả một khoản nợ cũ và yêu cầu vay
tiờ́p mụ̣t khoản khác mà bị từ chối vì Ngân hàng đang có khó khăn vờ̀ vụ́n, thì
có thể Ngân hàng sẽ mất vĩnh viễn khách hàng đó vào tay đối thủ cạnh tranh.
1.2.3.4 Vay Ngân hàng Trung ương.
Hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu. Với vai trò là người cho
vay cuối cùng, Ngân hàng Trung ương luôn cho các NHTM vay được Ngân
hàng Trung ương sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, tùy vào yêu cầu
điều tiết của nền kinh tế mà lãi suất này có thể được nâng cao hoặc hạ thấp.
Các NHTM có thể vay Ngân hàng Trung ương khi có nhu cầu, nhưng ở hầu
hết các nước Ngân hàng Trung ương đều không cho phép các NHTM lạm
dụng khả năng đó bằng các công cụ như hạn mức tái chiết khấu hay lãi suất
tái chiết khấu. Song dù sao, đây cũng là sâu sau đối với hoạt động huy động
vốn nhằm làm tăng gia tăng vốn khẳ dụng trong kinh doanh của các Ngân
hàng thương mai.
1.2.4 Các hình thức huy động vốn khác
Ở đây, NHTM có thể sử dụng để thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi từ các
hoạt động ủy thác về các dịch vụ xã hội: câu lạc bộ giáng sinh, nghỉ hè và các
kế hoạch khác được mệnh danh là: “ câu lạc bộ tiết kiệm". Các kế hoạch này
được tạo ra để khuyến khích những người tiết kiệm ký thác mụ̃i tuõ̀n một số
tiền nhất định tại Ngân hàng. Số tiền này sau một thời gian nhất định sẽ là
một số tiền đủ lớn để người giữ tiền có thể trang trải được các chi phí cho các
dịch vụ trên. Tuy nhiên, để mở rộng khả năng thu hút vốn này các NHTM
Đỗ Thị Quyên

19
Khoá luận tốt nghiệp
còn phải ngừng nâng cao uy tín của mình trên thương trường, trong đó đặc
biệt quan tâm tới phát triển các dịch vụ Ngân hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn
1.3.1. Các nhân tố khách quan
Hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn của
NHTM nói riêng luôn gắn với môi trường kinh doanh, đặc biệt là môi trường
kinh tế và pháp lý.
1.3.1.1. Môi trường Kinh tế - Xã hội
- Việc huy động và sử dụng vốn của ngân hàng bị các chỉ tiêu kinh tế
như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của thực thể, tốc độ chu
chuyờ̉n vụ́n, tình trạng thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát tác động trực tiếp.
- Phân bố dân cư, thu nhập của người dân là một nguồn lực tiềm tàng
có thể khai thác nhằm mở rộng quy mô huy động vốn của NHTM.
- Môi trường văn hóa như tập quán, tâm lý, thói quen sử dụng tiền của dân
cư ảnh hưởng nhiờ̀u đờ́n quyết định kinh tế của người có thu nhập về tiêu dùng và
tiết kiệm, mức độ chấp nhận hưởng lãi suất khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng
hay quyết định chi số tiền nhàn rỗi của họ đầu tư vào bất động sản, động sản,
chứng khoán để được mức sinh lời cao hơn
1.3.1.2. Môi trường pháp lý
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt chịu tác
động bởi nhiều cơ chế quản lý của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương.
Thay đổi chính sách Nhà Nước, của Ngân hàng Trung ương về tài chính, tiền
tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh cũng như khả
năng thu hút nguồn vốn của NHTM. Sự ổn định về chính trị hay chính sách
ngoại giao cũng tác động đến quan hệ nguồn vốn của một Ngân hàng với các
quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Đỗ Thị Quyên
20

Khoá luận tốt nghiệp
1.3.1.3. Môi trường Công nghệ thông tin
Khả năng ứng dụng công nghệ trở thành một trong những điều kiện bắt
buộc để Ngân hàng tồn tại và phát triển. Trong những năm gần đây, nhờ tiến
bộ của công nghệ thông tin, đã xuất hiện nhiều sản phẩm dịch vụ mới liên
quan đến hoạt động huy động nguồn vốn của Ngân hàng như dịch vụ Ngân
hàng tại nhà (Home banking), máy rút tiền tự động ATM, thư tín dụng, hệ
thống thanh toán điện tử.v.v Với những sản phẩm dịch vụ mới, tỷ lệ gửi tiền,
thanh toán qua Ngân hàng ngày càng tăng và đạt tỷ lệ cao.
1.3.1.4. Môi trường cạnh tranh giữa các Ngân hàng
Hoạt động kinh doanh Ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại
hình Ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi Ngân hàng. Cạnh tranh có xu
hướng gia tăng mạnh, làm giảm đi sự khác biệt giữa các NHTM với các tổ chức tài
chính phi Ngân hàng. Khách hàng có tiền nhàn rỗi có thể đầu tư trực tiếp vào mua
chứng khoán của Chính phủ và công ty. Xu hướng cạnh tranh trong ngành Ngõn
hàng càng tăng do các yếu tố như thay đổi chính sách về tài chính - tiền tệ,
đổi mới tài chính của doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, xu hướng chứng khoán
hóa.
Trong môi trường ngành Ngân hàng, cạnh tranh về tiền gửi diễn ra dưới
nhiều hình thức. Các Ngân hàng có thể áp dụng những điều kiện giống nhau
cho tất cả các khách hàng gửi tiền. Vì lý do này, các sản phẩm dịch vụ liên
quan đến tiền gửi được mở rộng và được phổ biến nhanh chóng. Thêm vào
đó, nhiều tổ chức tài chính phi Ngân hàng có thể huy động tiền gửi có kỳ hạn,
thậm chí còn cung cấp các tài khoản không kỳ hạn. Do cạnh tranh, lãi suất
tiền gửi tăng lên trong khi giá dịch vụ liên quan đến tiền gửi giảm xuống điều
này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của các Ngân hàng.
Đỗ Thị Quyên
21
Khoá luận tốt nghiệp
1.3.2 Các nhân tố chủ quan

1.3.2.1 Chiến lược khách hàng của Ngân hàng về huy động vốn.
Giờ đây, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn Ngân hàng mà theo họ là
thuận tiện hơn chứ không chỉ đơn thuần là nơi cất trữ tiền tệ và kiếm lời lãi
suất. Do đó, các Ngân hàng nhận thấy cần có chiến lược khách hàng đúng đắn
trong hoạt động nói chung và trong huy động vốn nói riêng.
Nghiên cứu khách hàng mục tiêu
Trước tiên, Ngân hàng cần hiểu được động cơ, thói quen và những
mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng gửi tiền
thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Mục đích của tiền gửi trên loại
tài khoản khác nhau rất khác nhau như tiền gửi giao dịch để phát hành séc
thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn để dành tiền tiêu dùng, đầu tư trong tương lai
đồng thời hưởng lãi.
Trên cơ sở những thông tin về khách hàng, Ngân hàng có thể đưa ra hệ
thống các chính sách và biện pháp phù hợp để được quy mô và cơ cấu nguồn
vốn mong muốn. Hệ thống các chính sách đáp ứng và gợi mở nhu cầu liên
quan đến huy động vốn bao gồm:
Chiến lược phát triển sản phẩm
Các chính sách liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tiền gửi của Ngân
hàng. Nhóm chính sách này nhằm vào việc đánh giá các loại sản phẩm dịch
vụ cung cấp và chất lượng của chứng như: Chất lượng tài khoản, kỳ hạn và
các dịch vụ liên quan đến tiền gửi như rút tiền tự động, giao dịch tại nhà, rút
ngắn thời gian thanh toán. Những năm gần đây các Ngân hàng đa dạng hóa
sản phẩm dịch vụ, hoàn thiện và đổi mới nâng cáo chất lượng sản phẩm dịch
vụ phù hợp với nhu cầu thị trường đồng thời mở rộng phát triển dịch vụ mới.
Chính sách lãi suất
Các chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và chi phí
dịch vụ được coi là giá cả của các sản phẩm và dịch vụ tài chính Ngân hàng
sử dụng hệ thống lãi suất tiền gửi và thay đổi qui mô công cụ quan trọng
Đỗ Thị Quyên
22

Khoá luận tốt nghiệp
trong việc huy động tiền gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu
hút thêm nguồn vốn Ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh thực hiện
những ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên.
Phát triển cơ sở vật chất & mạng lưới chi nhánh
Chính sách về tổ chức - kỹ thuật: Đây là chính sách và biện pháp nhằm
làm thuận lợi, nhanh chóng, đơn giản trong quan hệ với khách hàng. Bao
gồm việc bố trí mạng lưới thu hút vốn, hoàn thiện công nghệ Ngân hàng, cơ
chế tài chính đồng thời tổ chức thông suốt hệ thống thanh toán sao cho
nhanh chóng, an toàn, chính xác. Cơ sở vật chất kỹ thuật là một trong các
nguồn lực để Ngân hàng hoạt động có hiệu quả. Đó là mạng lưới chi nhánh,
các điểm giao dịch với đặc thù vị trí, hệ thống thông tin và thiết bị khác.
Phong cách giao dịch
Chính sách trong phục vụ và giao tiếp: Các chính sách này được
NHTM rất quan tâm nhằm tạo, củng cố uy tín của mình trên thị trường, gắn
bó với khách hàng truyền thống và hấp dẫn khách hàng mới. Trong điều kiện
khó khăn có thể duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả như hiện nay, chất
lượng dịch vụ khách hàng trở thành công cụ cạnh tranh vô cùng quan trọng để
thu hút nguồn vốn. Thái độ phục vụ thân thiện để giữ khách hàng hiện có và
thu hút thêm khách hàng mới.
Các nhân tố khác
Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng: Ngân hàng phải dự đoán thay
đổi của môi trường để xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp mà trong đó
chiến lược phát triển quy mô và điều chỉnh cơ cấu là một bộ phận quan trọng.
Quy mô vốn tự có: Vốn tự có là nguồn vốn có thể đóng vai trò cái đệm
chống đỡ sự sụt giảm giá trị tài sản của NHTM, nó đảm bảo lòng tin của
khách hàng đối với Ngân hàng cũng là yếu tố quyết định giới hạn tối đa của
quy mô nguồn vốn.
Tài sản vô hình: Tài sản vô hình quan trọng nhất của Ngân hàng là uy
tín của nó trong hệ thống, của các thành viên trong Hội đồng quản trị, Ban

Đỗ Thị Quyên
23
Khoá luận tốt nghiệp
Giám đốc. Thuộc nhóm này phải kể đến các quan hệ mà Ngân hàng đã tạo lập
được với các khách hàng hiện có, khách hàng tiềm năng, các trung gian tài
chính và các cơ quan Nhà Nước.
Tính chất sở hữu của Ngân hàng: Yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp,
sâu sắc đến mô hình, cơ cấu tổ chức và cơ chế tài chính, chiến lược kinh
doanh từ đó ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn, quản lý và sử dụng vốn.
Tóm lại : Nghiên cứu các thành phần, cơ cấu nguồn vốn đối với hoạt
động kinh doanh của NHTM, các phương thức huy động vốn và các nhân tố
ảnh hưởng đến quy mô cơ cấu nguồn vốn. Những nội dung này làm sáng tỏ lý
luận liên quan đến hoạt động về nguồn vốn của ngân và hoạt động huy động
vốn của Ngân hàng, giúp chúng ta có một cơ sở lý luận rõ ràng để đi sâu
phân tích thực trạng nguồn vốn và hoạt động huy động vốn của NHTM nói
chung, của NHNo Vân Đồn nói riêng, để từ đó có thể đưa ra những giải
pháp phù hợp với mục đích nghiên cứu nhằm phục vụ phát triển kinh tế theo
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước.
Đỗ Thị Quyên
24
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN
HÀNG NỤNG NGHIỜP HUYỢ̀N VÕN ĐÔN TỈNH QUẢNG
NINH
2.1 Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp và̀ tình hình phát triển
Kinh tế - Xã hội trên tỉnh Quảng Ninh
2.1.1 Khái quát về vai trò của Ngân hàng Nông nghiệp Vân Đồn đối
với sự phát triển kinh tế trên địa bàn
Ngân hàng Huyợ̀n Võn Đồn được thành lập từ năm 1967. Những năm

trước 1967 Ngân hàng Vân Đồn chỉ là phòng thu của Ngân hàng cụm liờn
huyợ̀n.Từ năm 1967 đến năm 1988 Ngân hàng Vân Đồn thực hiện chức năng
của NHNN. Từ tháng 6 năm 1988 đến nay thực hiện chức năng của một
NHTM NN. NHNo Huyợ̀n Võn Đồn là chi nhánh trực thuộc NHNo tỉnh Quảng
Ninh nằm trong hệ thống NHNo Việt Nam. Là NHTM NN được thành lập theo
nghị định số 53 HĐBT Và được thành lập lại theo quyết đính số 280/QĐ-NH5
ngày 15 tháng 10 năm 1995 của thống đốc NHNN, hoạt động theo điều lệ về tổ
chức và hoạt động của NHTM NN, ban hành kèm theo quyết định số
122/2001/QĐ-NHNN ngày 20/2/2001 của thống đốc NHNN Việt Nam.
Với nhiệm vụ chủ yếu là huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong nền kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn, đặc
biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đồng thời thực hiện các nghiệp
vụ Ngân hàng khác. NHNo huyợ̀n Võn Đồn là một đơn vị trực thuộc NHNo
tỉnh Quảng Ninh. Với đặc điểm là mụ̣t Huyợ̀n miền núi Hải đảo nền kinh tế
huyện chủ yếu là ngư nghiệp và nông lâm nghiệp, có 1 doanh nghiợ̀p Nhà
Nước, ngành nghề chủ yếu là trồng rừng và khai thác chế biến nuôi trồng thuỷ
hải sản. Địa bàn huyện Vân Đồn gồm 11 xã và một thị trấn, hoạt động kinh
doanh tiền tệ trên địa bàn ngoài ngân hàng nông nghiệp có 1 ngân hàng chính
Đỗ Thị Quyên
25

×