Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

câu hỏi ôn tập quản trị rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.58 KB, 30 trang )

QUẢN TRỊ RỦI RO
MỤC LỤC
1
1
Câu 1: Có quan điểm cho rằng: Quản trị rủi ro trong ngân hàng là công việc
của riêng khối quản lí rủi ro. Bạn có đồng ý với quan điểm này không? Tại sao?
Bộ phận quản lý rủi ro trong ngân hàng không chỉ đơn thuần là một bộ phận
theo dõi và kiểm soát rủi ro. Thực ra, việc kiểm soát rủi ro phải được triển khai ở tất
cả các bộ phận khác như bộ phận tín dụng, nguồn vốn, thanh toán quốc tế, marketing
và các bộ phận hỗ trợ của ngõn hàng như kế toán, pháp chế và đào tạo, và phải được
thực hiện ở các khâu thấp nhất trong cơ cấu tổ chức là các giao dịch viên. Bộ phận
quản lý rủi ro chỉ cú chức năng theo dõi, báo cáo và có các đề xuất để điều chỉnh.
Ví dụ, chúng ta có thể xây dựng cơ chế phòng ngừa rủi ro của ngân hàng gồm 3
phòng tuyến: phòng tuyến thứ nhất là tất cả các cán bộ kinh doanh đối diện trực tiếp
với rủi ro hàng ngày như đối diện với khách hàng…; phòng tuyến thứ hai là bộ phận
quản lý rủi ro, theo dõi tất cả các báo cáo, vấn đề rủi ro; phòng tuyến thứ ba là ban
kiểm toán nội bộ và ban kiểm soát của ngân hàng. Với 3 phòng tuyến như thế, ngân
hàng xây dựng những chốt chặn, trạm kiểm soát để sàng lọc và ngăn chặn rủi ro, phát
hiện rủi ro và kiểm soát rủi ro.
Bên cạnh xây dựng những cơ chế phòng ngừa và quản lý rủi ro, ngân hàng cũng
cần phải xây dựng một “văn hóa rủi ro”, có nghĩa là tất cả cán bộ, nhân viên cần phải
nâng cao nhận thức về rủi ro trong mọi giao dịch. Không những tín dụng chứa đựng
rủi ro, mà ngay cả huy động vốn cũng chứa đựng rủi ro. Những dòng tiền “bẩn” luôn
tìm cách len lỏi vào ngân hàng để “rửa tiền”, để hợp pháp hóa đồng tiền thu về từ
những hoạt động bất hợp pháp. Các cán bộ nhân viên ngân hàng nếu không có ý thức
rủi ro cao sẽ dễ dàng thu nhận những loại tiền này, vô hình chung tiếp tay cho các
nhóm tội phạm, các hoạt động phi pháp.
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng một số quy định nhưng chưa đầy đủ,
cần có sự hoàn thiện bổ sung, quy định rõ ràng về các loại rủi ro, cơ chế, quy trình
quản lý rủi ro, và nhân sự liên quan đến quản lý rủi ro Chỉ có như vậy, việc triển
khai áp dụng Basel II mới có thể thành công và có ý nghĩa trên thực tế.


2
2
Câu 3: Trình bày quan điểm cá nhân của Anh (chị) về giải pháp giảm thiểu
rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính của NHTM hiện nay?
Xét về tổng thể hiện nay, hoạt động của các công ty CTTC là khá an toàn và ổn
định. Tình trạng nợ xấu là tương đối thấp, nằm trong phạm vi an toàn và không ảnh
hưởng tới hoạt động bình thường của các công ty CTTC. Tuy nhiên, do tính đặc thù
trong hoạt động của mình nên hoạt động của công ty CTTC vẫn còn tiềm ẩn những
rủi ro. Trường hợp thứ nhất, đó là rủi ro xuất phát từ việc tập trung hoạt động cho
thuê vào một số ít khách hàng hoặc một ít nhóm khách hàng có chung lĩnh vực kinh
doanh hoặc cùng ngành nghề kỹ thuật. Sự rủi ro cũng có thể xuất phát từ phạm vi và
các nghiệp vụ hoạt động của công ty CTTC chưa đa dạng. (Công ty CTTC chủ yếu
thực hiện nghiệp vụ CTTC, còn các nghiệp vụ khác như cho thuê vận hành, mua và
cho thuê lại… đang trong giai đoạn triển khai thực hiện hoặc chưa được phép thực
hiện). Ngoài ra còn có thể phát sinh những rủi ro khác trong hoạt động CTTC như rủi
ro về lãi suất cho thuê (do thời gian cho thuê dài), rủi ro về tỷ giá đối với các tài sản
đầu tư bằng ngoại tệ, hoặc rủi ro về mặt pháp lý như trường hợp các công ty CTTC
phải mất nhiều thời gian và chi phí tốn kém để thu hồi lại tài sản cho thuê khi bên
thuê vi phạm hợp đồng…
Để khắc phục tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước có một số khuyến nghị đối
với các công ty CTTC. Để hạn chế rủi ro trong quá trình hoạt động, các công ty
CTTC cần xây dựng một chiến lược về khách hàng, về các loại tài sản cho thuê và địa
bàn hoạt động trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cho phù hợp với mô hình tổ chức,
cơ chế quản lý và điều hành của công ty CTTC và phù hợp với sự phát triển của nền
kinh tế đất nước. Các công ty CTTC cũng cần nhanh chóng triển khai các nghiệp vụ
mới như: cho thuê vận hành, mua và cho thuê lại… để làm đa dạng hoá nội dung hoạt
động và giảm thiểu tỷ trọng vốn kinh doanh tập trung vào nghiệp vụ đơn thuần như
hiện nay của công ty CTTC.
Câu 4: Thế nào là rủi ro tín dụng? Nhận xét của Anh chị về thực tế rủi ro tín
3

3
dụng tại các NHTM Việt Nam thời gian qua?
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng; nó thường chiếm phần
lớn trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả về khối lượng công việc cũng
như mức độ tạo thuận lợi. Tỷ lệ thuận với nó là mức độ rủi ro của nghiệp vụ này cũng
chiếm phần lớn trong tổng mức rủi ro của hoạt động ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra biến cố từ các khoản tín dụng gây tổn thất
cho ngân hàng do khách hàng không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ các cam
kết trong hợp đồng tín dụng.
Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả
gốc và lãi của khoản vay. Nói cách khác, “rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra do khách
hàng không thực hiện trả nợ theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng”.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi bên đi vay, trong một giao dịch
nào đó, không thực hiện được việc thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều kiện
trong hợp đồng làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
Rủi ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, cung bậc khác nhau,
chúng tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho vay và biểu hiện ra bên
ngoài là món vay không thu hồi được, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn
Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một ngân hàng, người ta thường phải
xét đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Trong tỷ trọng nợ quá hạn, người ta lại chia
ra tỷ trọng nợ quá hạn dưới sáu tháng, nợ quá hạn dưới một năm, nợ quá hạn trên một
năm, nợ quá hạn khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi Các tỷ trọng này càng cao
thì khả năng bảo toàn vốn tín dụng của ngân hàng càng thấp.
Ngày nay, các Ngân hàng Thương mại dù đã mở rộng kinh doanh trên nhiều lĩnh
vực khác nhau, nhưng hoạt động cho vay vẫn là nguồn cơ bản tạo nên thu nhập của
4
4
ngân hàng. Đặc biệt, ở những nước đang phát triển như ở Việt Nam, hoạt động cho

vay chiếm tới 90% hoạt động của ngân hàng, và vì thế mà rủi ro tín dụng là vấn đề
cần được quan tâm đặc biệt trong hoạt động của các ngân hàng Thương mại ở nước ta
hiện nay.
Nhìn lại 2 năm 2012 và 2013, có thể thấy các ngân hàng đang tập trung xử lý nợ
xấu vốn là hệ quả của việc tăng trưởng tín dụng rất nóng. Hiện nay tín dụng được đẩy
ra nền kinh tế một cách chậm chạp và thận trọng hơn rất là nhiều. Vấn đề quản trị rủi
ro tín dụng đang là ưu tiên hàng đầu trong quản trị rủi ro trong ngân hàng hiện nay.
Trong năm nay, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Agribank đã ký
hợp đồng với tổng công ty café Việt Nam về gói tín dụng tài trợ: 4.165 tỷ đồng cho
Vinacafe thu mua chế biến café xuất khẩu; và 2110 tỷ đồng cho trồng, tái canh café;
3000 tỷ đồng cho Đắc Lắc trồng, chăm sóc, tái canh café; 2800 tỷ đồng cho Lâm
đồng trồng, chăm sóc, tái canh café. Ngân hàng đã cho vào hoạt động kho café có sức
chứa 1000 tấn, doanh nghiệp muốn vay tiền bằng hình thức cầm cố café sẽ phải lưu
giữ tại kho sau khi được kiểm tra chất lượng kỹ càng. Hàng muốn xuất thì tiền phải
được chuyển về cho ngân hàng mặc dù ngân hàng sẽ tốn thêm chi phí cho đất đai,
kho bãi, nhân lực. Đồng nghĩa với việc giá vốn doanh nghiệp được vay từ ngân hàng
cao hơn hoặc lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm đi để đáp ứng phần nào chi phí.
Nhưng bù lại tính an toàn của khoản vay vì thế lại được đảm bảo. Ngoài các gói tín
dụng tài trợ café còn có các gói tín dụng tài trợ cá ba sa và bất động sản. Qua kinh
nghiệm hoạt động thực tế của các ngân hàng, các tranh chấp có liên quan đến hàng
hóa xảy ra tương đối là nhiều, trong đó đặc biệt là tranh chấp các kho hàng. Chính vì
vậy, ngân hàng đã phải đưa ra một sản phẩm mới cho vay đối với café. Sản phẩm này
được coi là biện pháp hữu hiệu trong việc quản trị rủi ro tín dụng về cho vay thế chấp
đảm bảo bằng hàng hóa.
tỷ lệ nợ xấu tại các nhà băng hiện nay đang tăng lên so với cuối năm 2013. Nợ
xấu cao nhất là PvcomBank với tỷ lệ 5.2%, NVB là 4,83%,Techcombank xếp thứ ba
tại mức 4.12%. Tỷ lệ nợ xấu của ACB cũng tăng đáng kể lên 3.65%.Trích lập dự
phòng rủi ro khiến cho lợi nhuận của ngân hàng bị teo tóp. Do vậy, tăng cường quản
5
5

trị rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng là con đường duy nhất đảm bảo nâng cao hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng. Dưới sự hợp tác hỗ trợ của đối tác Standard Chartered
bank một bộ phận chuyên quản lý rủi ro tại ACB đã được đi vào hoạt động. Nếu
khách hàng gặp rủi ro thì ngân hàng phải nhìn thấy trước, dự báo và có biện pháp để
hỗ trợ khách hàng vượt qua khó khăn. Nếu khách hàng ko thể vượt qua khó khăn thì
ngân hàng phải có các biện pháp xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi được vốn và lãi
cho ngân hàng.
Để giảm thiểu rui ro phát sinh, cán bộ tín dụng phải sâu sát hơn trong hoạt
động của doanh nghiệp. Điều đó, đồng nghĩa với việc có yêu cầu cao hơn về trình độ
và năng lực của cán bộ ngân hàng, cũng như quy trình quản trình hoạt động chuẩn
mực hơn của chính nhà băng. Theo lãnh đạo của các tổ chức tín dụng, nếu làm được
điều này thì tài sản đảm bảo không còn là điều kiện kiên quyết để giải ngân các
khoản vay. Về lâu về dài, việc cho vay về cơ bản phải dựa trên đánh giá khả năng
hấp thụ tín dụng cũng như khả năng sản xuất kinh doanh, phương án khả thi, dòng
tiền của doanh nghiệp và tài sản đảm bảo của doanh nghiệp được xếp ở vị trí thứ 2.
Hiện nay hệ thống quản trị rủi ro ở ngân hàng nào cũng được xây dựng, nhưng quy
chuẩn và thang bậc đánh giá của mỗi ngân hàng lại mỗi khác. Thế nên mới có
chuyện cùng một doanh nghiệp nhưng có ngân hàng đánh giá là khách hàng tốt, có
ngân hàng lại xếp loại khách hàng có mức độ rủi ro cao.
Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM ở Việt Nam hiện nay cần có hệ
thống và có chuẩn mực cụ thể rõ ràng cho tất cả các ngân hàng. Đồng thời cần có sự
kiểm soát gắt gao của NHNN về tình hình nợ xấu của các ngân hàng để có n=biện
pháp kịp thời xử lý. Đánh tan cục máu đông một cách nhanh chóng.
Câu 7: Hãy trình bày nội dung các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của
NHTM. Phân tích các nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến các chỉ
tiêu đó?
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
6
6
Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo lường chất

lượng tín dụng là một nội dụng quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động
kinh doanh của NHTM. Tuỳ theo mục đích phân tích mà người ta đưa ra nhiều chỉ
tiêu khác nhau, tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên
hệ mật thiết với nhau. Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động kinh
doanh, ta có thể áp dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tình hình chất lượng tín dụng
của ngân hàng.
*Chỉ tiêu sử dụng vốn
Đây là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng, cho phép đánh giá tính
hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng
chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn huy động được.
* Chỉ tiêu dư nợ: Dư nợ ngắn hạn (hoặc trung-dài hạn) / Tổng dư nợ
Đây là một chỉ tiêu định lượng, xác định cơ cấu tín dụng trong trường hợp dư nợ
được phân theo thời hạn cho vay (ngắn, trung, dài hạn). Chỉ tiêu này còn cho thấy
biến động của tỷ trọng giữa các loại dư nợ tín dụng của một ngân hàng qua các thời
kỳ khác nhau. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ tín dụng
càng lớn, mối quan hệ với khách hàng càng có uy tín.
* Chỉ tiêu nợ quá hạn Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Nợ quá hạn khó đòi / Tổng dư nợ
Nợ quá hạn khó đòi / Tổng nợ quá hạn
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ số quan trọng để đo lường chất lượng nghiệp vụ
tín dụng. Các ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín dụng
cao của mình và ngược lại.
Thông thường thì tỷ lệ nợ quá hạn tốt nhất là ở mức <= 5%. Tuy nhiên, chỉ tiêu
này đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Bởi vì
bên cạnh những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý do đã thực hiện tốt các
7
7
khâu trong qui trình tín dụng, còn có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp
thông qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng qui định,…
* Chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn tín dụng (vòng quay vốn tín dụng)

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng được sử dụng cho vay mất
lần trong một năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ nguồn vốn của ngân
hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
* Lãi treo: là khoản lãi tính trên nợ quá hạn mà ngân hàng chưa thu được và
như vậy chỉ số này càng thấp càng tốt.
Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu định lượng trên, hiện nay nhiều ngân hàng cũng
đã sử dụng các chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng tín dụng như việc tuân thủ
các quy chế, chế độ thể lệ tín dụng, lập hồ sơ cho vay, phương án sản xuất kinh
doanh có hiệu quả,…
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là kết quả của cả một quá trình tính từ khi khoản tín dụng
được ngân hàng xét duyệt, phát ra cho đến khi được thu hồi. Trong quá trình đó có rất
nhiều những tác động gây rủi ro dẫn đến việc ngân hàng không thu hồi được vốn và
phải chịu thua thiệt. Để quản lý chất lượng tín dụng đòi hỏi phải hiểu rõ về các nhân
tố gây ảnh hưởng tới nó.
Các yếu tố chủ quan (hay nhóm nhân tố từ phía ngân hàng)
* Chính sách tín dụng: chính sách tín dụng phản ánh định hướng cơ bản cho
hoạt động tín dụng, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của ngân
hàng. Để đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần phải có chính sách
tín dụng phù hợp với đường lối phát triển kinh tế, đồng thời kết hợp được lợi ích của
người gửi tiền, của ngân hàng và người vay tiền.
* Quy trình tín dụng: quy trình tín dụng là trình tự tổ chức thực hiện các bước kỹ
thuật nghiệp vụ cơ bản, chỉ rõ cách làm, trình tự các bước từ khi bắt đầu đến khi kết
thúc một giao dịch thuộc chức năng, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân
8
8
hàng có liên quan. Quy trình tín dụng là yếu tố quan trọng, nếu nó được tổ chức khoa
học, hợp lý sẽ cho phép bảo đảm thực hiện các khoản vay có chất lượng.
* Kiểm soát nội bộ: đây là hoạt động mang tính thường xuyên và cần thiết đối
với mọi ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng

càng thường xuyên, chặt chẽ sẽ càng làm cho hoạt động tín dụng đúng hướng, thực
hiện đúng các nguyên tắc, yêu cầu thể lệ trong qui chế tín dụng cũng như qui trình tín
dụng. Kiểm soát nội bộ là biện pháp mang tính chất ngăn ngừa, hạn chế những sai sót
của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động tín dụng kịp thời sửa chữa, tạo điều kiện
thuận lợi nâng cao chất lượng tín dụng.
* Tổ chức nhân sự: con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong
mọi hoạt động kinh doanh nói chung và tất nhiên nó cũng không loại trừ khỏi hoạt
động của một ngân hàng. Muốn nâng cao được hiệu quả trong kinh doanh, chất lượng
trong hoạt động tín dụng, ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi,
được đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc biệt
trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan
đến hoạt động tín dụng. Trong bố trí sử dụng, người cán bộ tín dụng cần phải được
sàng lọc kỹ càng và phải có kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng những kiến thức cần
thiết để bắt kịp với nhịp độ phát triển và biến đổi của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra,
họ còn phải có tiêu chuẩn về đạo đức và sự liêm khiết, bởi lẽ nếu người cán bộ tín
dụng thiếu trách nhiệm hay cố tình vi phạm có thể sẽ gây tổn thất rất lớn cho ngân
hàng.
* Thông tin tín dụng: hoạt động tín dụng muốn đạt được hiệu quả cao, an toàn
cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Vai trò và yêu cầu
thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng là hết sức quan trọng.
Muốn nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần xây dựng được hệ thống thông tin
đầy đủ và linh hoạt, nhờ đó cung cấp các thông tin chính xác, kịp thời, tăng cường
khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Các yếu tố khách quan
Nhóm nhân tố từ phía khách hàng
* Uy tín, đạo đức của người vay
9
9
Trong qui trình tín dụng các ngân hàng thường chỉ đưa ra quyết định cho vay
sau khi đã phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đến uy tín và khả năng trả nợ

của người vay nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro do chủ quan của người vay có thể
gây nên.
Đạo đức của người vay là một yếu tố quan trọng của qui trình thẩm định, tính
cách của người vay không chỉ được đánh giá bằng phẩm chất đạo đức chung mà còn
phải kiểm nghiệm qua những kết quả hoạt động trong quá khứ, hiện tại và chiến lược
phát triển trong tương lai. Thực tế kinh doanh đã cho thấy, tính chân thật và khả năng
chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi món vay được thực hiện. Khách hàng có
thể lừa đảo ngân hàng thông qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài
sản, sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh,
phương án kinh doanh,…Việc khách hàng gian lận tất yếu sẽ dẫn đến những rủi ro
cho ngân hàng.
Uy tín của khách hàng cũng là một yếu tố đáng quan tâm, uy tín của khách hàng
là tiêu chí để đáng giá sự sẵn sàng trả nợ và kiên quyết thực hiện các nghĩa vụ cam
kết trong hợp đồng từ phía khách hàng. Uy tín của khách hàng được thể hiện dưới
nhiều khía cạnh đa dạng như: chất lượng, giá cả hàng hoá, dịch vụ, sản phẩm, mức độ
chiếm lĩnh thị trường, chu kỳ sống của sản phẩm, các quan hệ kinh tế tài chính, vay
vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và ngân hàng. Uy tín được khẳng định và kiểm
nghiệm bằng kết quả thực tế trên thị trường qua thời gian càng dài càng chính xác.
Do đó, ngân hàng cần phân tích các số liệu và tình hình trong suốt quá trình phát triển
của khách hàng với những thời gian khác nhau mới có kết luận chính xác.
* Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng
Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức, kinh nghiệm quản
lý kinh doanh của người vay. Đây chính là tiền đề tạo ra khả năng kinh doanh có hiệu
quả của khách hàng, là cơ sở cho khách hàng thực hiện cam kết hoàn trả đúng hạn nợ
ngân hàng cả gốc lẫn lãi. Nếu trình độ của người quản lý còn bị hạn chế về nhiều mặt
như học vấn, kinh nghiệm thực tế,…thì doanh nghiệp rất dễ bị thua lỗ, dẫn đến khả
năng trả nợ kém, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Nhóm nhân tố thuộc môi trường
10
10

* Mối trường kinh tế
Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế của mỗi quốc gia
luôn có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp trên thị trường. Tính ổn định về kinh tế mà trước hết và chủ yếu là ổn
định về tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát là những điều mà các
doanh nghiệp kinh doanh rất quan tâm và ái ngại vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế ổn định sẽ là điều kiện, môi trường thuận
lợi để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận cao, từ
đó góp phần tạo nên sự thành công trong kinh doanh của ngân hàng. Trong trường
hợp ngược lại, sự bất ổn tất nhiên cũng bao chùm đến các hoạt động của ngân hàng,
làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, gây tổn thất cho ngân hàng.
* Môi trường chính trị
Môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh
doanh, đặc biệt đối với các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tính ổn định về chính
trị trong nước sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh có hiệu quả. Nếu xẩy ra các diễn biến gây bất ổn chính trị như:
chiến tranh, xung đột đảng phái, cấm vận, bạo động, biểu tình, bãi công,…có thể dẫn
đến những thiệt hại cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế nói chung (làm tê liệt sản
xuất, lưu thông hàng hoá đình trệ,…). Và như vậy, những món tiền doanh nghiệp vay
ngân hàng sẽ khó được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn, ảnh hưởng xấu đến chất lượng
tín dụng.
* Môi trường pháp lý
Một trong những bộ phận của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng là hệ thống pháp luật.
Với một môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, thiếu tính đồng bộ, thống nhất giữa các
luật, văn bản dưới luật, đồng thời với nó là sự sắc nhiễu của các có quan hành chính
có liên quan sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp phải những khó khăn, thiếu đi tính linh
hoạt cần thiết, vốn đưa vào kinh doanh dễ bị rủi ro. Do đó, xây dựng môi trường pháp
lý lành mạnh sẽ tạo thuận lợi trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp trong đó có các NHTM.

11
11
* Môi trường cạnh tranh
Có thể nói đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng tín dụng nói riêng và
hoạt động kinh doanh chung của NHTM. Sự tác động đó diễn ra theo hai chiều
hướng: thứ nhất, để chiếm ưu thế trong cạnh tranh ngân hàng luôn phải quan tâm tới
đầu tư trang thiết bị tốt, tăng cường đội ngũ nhân viên có trình độ, củng cố và
khuyếch trương uy tín và thế mạnh của ngân hàng. Hướng tác động này đã tạo điều
kiện nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, ở hướng thứ hai, dưới áp lực của cạnh
tranh gay gắt các ngân hàng có thể bỏ qua những điều kiện tín dụng cần thiết khiến
cho độ rủi ro tăng lên, làm giảm chất lượng tín dụng.
* Môi trường tự nhiên
Các yếu tố rủi ro do thiên nhiên gây ra như lũ lụt, hoả hoạn, động đất, dịch bệnh,
… có thể gây ra những thiệt hại không lường trước được cho cả người vay và ngân
hàng. Mặc dù những rủi ro này là khó dự đoán nhưng bù lại nó chiếm tỷ lệ không lớn,
mặt khác ngân hàng thường được chia sẻ thiệt hại với các Công ty Bảo hiểm hoặc
được Nhà nước hỗ trợ.
Câu 1: cho thuê tài chính
Phân biệt cho thuê tài chính và cho thuê vận hành
Tiêu chí Cho thuê tài chính Cho thuê vận hành
Thời hạn thuê Trung và dài hạn Ngắn hạn
Quyền hủy bỏ hợp đồng Không được phép
hủy ngang HĐ
Có thể hủy ngang HĐ
Trách nhiệm bảo trì, đóng bảo
hiểm, thuế tài sản
Bên đi thuê Bên cho thuê
Hiện giá của tổng số tiền thuê
phải trả
Tổng số tiền thuê của

1 HĐ bằng hoặc lớn
hơn giá trị tài sản
Tổng số tiền thuê của 1
HĐ nhỏ hơn nhiều so với
giá trị tài sản
Quyền sở hữu tài sản trước khi
ký HĐ
Có thể ko thuộc sở
hữu của bên cho thuê
mà do bên đi thuê
tìm, lựa chọn yêu cầu
bên cho thuê mua để
Đã thuộc quyền sở hữu
của bên cho thuê
12
12
cho thuê
Chuyển quyền sở hữu hoặc
bán tài sản khi kết thúc HĐ
Có điều khoản thỏa
thuận chuyển quyền
sở hữu hoặc bán hoặc
cho thuê tiếp
Ko có thỏa thuận chuyển
quyền sở hữu hoặc bán tài
sản cho bên đi thuê
Trách nhiệm rủi ro liên quan
đến tài sản
Bên đi thuê chịu
phần lớn các rủi ro

Bên cho thuê chịu phần
lớn các rủi ro trừ rủi ro do
lỗi của bên đi thuê gây ra
Thực trạng
Hiện nay Việt Nam đã có 8 công ty CTTC, trong đó có 5 công ty trực thuộc ngân
hàng thương mại Nhà nước và 3 công ty có vốn nước ngoài. Theo đánh giá của Phó
Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Trần Minh Tuấn thì từ khi ra đời đến
nay, các công ty CTTC đã phát triển nhanh chóng cả về quy mô và mạng lưới hoạt
động. Cụ thể: đã thực hiện được nhiều nghiệp vụ cho thuê khác nhau, đa dạng hoá
các tài sản cho thuê, phương thức cho thuê và đối tượng khách hàng. Trong 8 năm,
các công ty CTTC đã từng bước phát huy được vai trò quan trọng là hỗ trợ các doanh
nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến kỹ thuật.
Tuy nhiên,Trong số 8 công ty CTTC trong nước, chỉ một vài công ty trực thuộc các
NHTM lớn mới đủ tiềm lực về vốn và khách hàng để hoạt động ổn định và có lợi
nhuận. Số còn lại cũng đang chật vật để tồn tại. Theo ông Đàm Đức Long, Tổng thư
ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam cho biết, trong số các công ty CTTC đang
hoạt động, hiện chỉ có Công ty CTTC ACB, Công ty CTTC Vietinbank và Công ty
CTTC Vietcombank là báo lãi. Lợi thế lớn trong việc nguồn khách hàng tốt và nguồn
vốn ban đầu từ công ty mẹ giúp cho các công ty CTTC này kinh doanh ổn định, có lãi
với mức tăng trưởng trung bình 20-30%/năm.
13
13
Ngoài ra, dư nợ trong hoạt động CTTC lại đang rơi vào những ngành nghề hiện đang
gặp nhiều khó khăn như vận tải biển, đóng tàu… vì vậy, nợ xấu cao và gần như
không có khả năng thu hồi tài sản.
Thách thức:
- Tuy nhiên cũng cần phải nhìn nhận một thực tế là thời gian qua còn ít doanh
nghiệp mặn mà với hoạt động này. Nếu như ở các nước đang phát triển, tỷ
trọng của thị trường cho thuê tài chính so với thị trường tín dụng vào khoảng từ
15 đến 20% thì ở Việt Nam, tỷ lệ này mới chỉ đạt khoảng 1,4%. Như vậy, cứ

100 doanh nghiệp thì chưa đến 2 doanh nghiệp sử dụng những tiện ích của hoạt
động cho thuê tài chính.
- Hiện nay, hoạt động của các công ty CTTC đang chịu sự điều chỉnh của Luật
các TCTD, Nghị định số 16/2001/NĐ-CP 02/5/2001 về tổ chức và hoạt động
của các công ty CTTC và Nghị định số 65/2005/NĐ-CP 19/5/2005 quy định về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP. Cùng với
đó là một số thông tư hướng dẫn thực hiện bổ sung. Tuy nhiên, những nghị
định này ban hành đã khá lâu và có nhiều điểm không còn phù hợp.
- Hiện NHNN quy định rất chặt chẽ việc ngân hàng thương mại cho các công ty
“con” là công ty CTTC vay. Vì vậy, để các công ty CTTC có thêm nguồn vốn
hoạt động ngoài nguồn vốn ban đầu, NHNN cần nghiên cứu đặc điểm riêng
biệt của cho thuê tài chính để có quy định phù hợp, để các ngân hàng mẹ có thể
cung ứng vốn cho các công ty cho thuê tài chính hoặc cho phép các công ty
CTTC được huy động vốn, tạo điều kiện cho các công ty này phát triển.
- Mặt khác, quy định không chặt chẽ về thuê tài sản là một trong những nguyên
nhân đẩy các công ty CTTC vào tình trạng rủi ro cao. Hiện rất nhiều doanh
nghiệp sau khi thuê tài sản của các công ty CTTC đã tẩu tán tài sản hoặc chây
ỳ không trả lại tài sản, chiếm giữ tài sản trái phép hoặc trả lại trong tình trạng
tài sản hư hỏng nặng. Những sự việc trên theo quy định có thể kiện ra tòa án
14
14
nhưng quá trình kiện tụng và thi hành án thường kéo dài, tốn nhiều chi phí và
công sức, vì vậy, nhiều trường hợp trong khi chờ được tòa án giải quyết thì
công ty CTTC đã lâm vào tình trạng mất thanh khoản, hoạt động cầm chừng.
- Ngoài ra, việc thực hiện quy định tỷ lệ an toàn của NHNN, các công ty CTTC
chỉ được sử dụng 85% vốn huy động để cấp tín dụng và giới hạn dư nợ tối đa
đối với một khách hàng chỉ là 25% vốn điều lệ cũng gây khó khăn cho không ít
các công ty CTTC. Với đặc thù nguồn vón nhỏ dao động 150-500 tỉ đồng, chỉ
đủ để các công ty CTTC hoạt động trong vài năm, hoặc tài trợ một vài dự án
trong khi các công ty này lại không được phép huy động vốn ngắn hạn để bổ

sung vào nguồn vốn hoạt động.
Biện pháp phát triển
1. Cần xây dựng Hiệp hội Cho thuê tài chính tại Việt Nam
Mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu, song sự hiểu biết nói chung của công
chúng đối với hoạt động của các công ty CTTC còn hạn chế. Nhiều khách hàng tiềm
năng chưa tiếp cận và tận dụng được những lợi ích của phương thức hoạt động do
loại hình tổ chức này mang lại. Điều này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải
phối hợp với các công ty CTTC có chiến lược tuyên truyền, quảng bá rộng rãi về hoạt
động CTTC tại Việt Nam nhằm nâng cao sự hiểu biết cho công chúng, đồng thời cần
có chương trình đào tạo và xây dựng trung tâm hỗ trợ hoặc tư vấn cho khách hàng,
đặc biệt đối với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ và cá nhân. Bên cạnh đó cần
thiết phải tạo lập Hiệp hội CTTC để các công ty CTTC chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm,
hợp tác và cùng phát triển.
2. Nên cho phép công ty cho thuê tài chính tham gia thị trường liên ngân hàng”
Việc huy động vốn nói chung và huy động vốn trung và dài hạn để cho thuê tài chính
trong điều kiện hiện nay và tương lai có nhiều khó khăn bởi tính chất nguồn vốn ở
đây là nguồn vốn trung và dài hạn, mà công ty CTTC lại không có lợi thế do số lượng
15
15
lao động hạn chế, mạng lưới hẹp. Do vậy, các công ty CTTC rất cần sự quan tâm của
Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan để tháo gỡ các cơ chế chính sách
như cho phép các công ty CTTC tham gia thị trường liên ngân hàng, được tiếp xúc
với các tổ chức đầu tư quốc tế hoặc tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ Chính phủ hoặc
phi Chính phủ để tạo nguồn vốn trung và dài hạn lớn hơn, ổn định hơn cho đầu tư.
3. Doanh nghiệp thuê tài chính cũng cần được hưởng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư”
Trong vấn đề hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, đối với cùng một dự án, cùng một khách hàng
khi vay trung và dài hạn tại các ngân hàng thì doanh nghiệp ược hưởng hỗ trợ lãi suất
sau đầu tư, nhưng nếu thuê tài chính thì doanh nghiệp không được hưởng ưu đãi này,
mặc dù thuê tài chính thực chất là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Vì vậy,
đề nghị Bộ Tài chính cân nhắc về vấn đề này để tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp

khi tìm đến với hoạt động của các công ty CTTC hiện nay.
Câu 2: tầm quan trọng của công tác xếp hạng tín dụng nội bộ trong quy trình
quản trị rủi ro tín dụng trong NHTM
Tại Việt Nam, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã và đang phải đương đầu với những
thử thách thực sự từ rủi ro thanh khoản và suy giảm chất lượng tín dụng. Dù cơ quan
quản lý chưa đưa ra quy định cụ thể, nhưng một số TCTD đã xác định tầm quan trọng
của công tác quản trị rủi ro và xây dựng chương trình xếp hạng tín dụng nội bộ có
định hướng lượng hóa các yếu tố rủi ro, đáp ứng các yêu cầu của Basel II. (*).
a. tầm quan trọng của XHTD nôi bộ
- Hỗ trợ phê duyệt tín dụng: cải thiện tính chính xác và hiệu lực của việc ra quyết
định cấp tín dụng, cung cấp phương tiện hỗ trợ để quá trình này trở nên hiệu quả, tiết
kiệm thời gian, chi phí và giảm bớt sự can thiệp từ con người.
- Thực hiện quản trị rủi ro tín dụng: XHTD nội bộ là một công cụ để đánh giá mức
rủi ro của khách hàng. Nhờ tích hợp các nguyên tắc, khung chính sách và tiêu chuẩn
tín dụng căn bản của ngân hàng, hệ thống XHTD là căn cứ độc lập để TCTD đánh giá
hiệu quả quá trình quản trị rủi ro của các bộ phận liên quan, bảo đảm việc cấp tín
16
16
dụng được quản lý phù hợp, các tài sản có rủi ro tín dụng nằm trong các giới hạn,
thống nhất với các tiêu chuẩn thận trọng và khả năng phát hiện rủi ro sớm.
- Hỗ trợ xác định giá khoản tín dụng: mức giá chào cho khoản tín dụng phải phù hợp
và đủ để bồi hoàn tổn thất tín dụng. XHTD phân loại các mức độ rủi ro và là một
trong những căn cứ tin cậy để xác định giá cho các khoản tín dụng, theo nguyên tắc
mức XHTD thấp (rủi ro cao) có mức giá cao và ngược lại.
- Hỗ trợ quản lý và quản trị khách hàng: quan hệ khách hàng của các TCTD phụ
thuộc vào mức độ XHTD của khách hàng đó. Những khoản vay có mức rủi ro cao
cần phải kiểm soát, đánh giá thường xuyên, những khách hàng vay có mức XHTD
thấp cũng cần phải được chú trọng theo dõi. Ngược lại, những khách hàng tốt với
mức XHTD cao sẽ được ưu ái hơn trong các quan hệ giao dịch.
- Làm căn cứ để lập dự phòng tín dụng: mức dự phòng các khoản cấp tín dụng phụ

thuộc vào mức độ rủi ro của khoản tín dụng đó. XHTD nội bộ cho phép tính toán,
ước lượng các yếu tố rủi ro PD, LGD và EAD. (**)
- Hỗ trợ công tác quản lý thông tin (MIS) theo danh mục và tạo lập báo cáo: dữ liệu
đưa vào hệ thống XHTD là rất phong phú liên quan đến khoản vay và hoạt động kinh
doanh của khách hàng. Hệ thống XHTD thường được các TCTD thiết lập trên nền
tảng công nghệ tin học cao, cho phép chiết xuất, quản lý các trường thông tin theo
từng danh mục yêu cầu và đưa ra hệ thống báo cáo hiệu quả.
Thực trạng
Hệ thống XHTD của các TCTD và của Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC, thuộc
Ngân hàng Nhà nước) hầu hết được xây dựng theo phương pháp chấm điểm các tiêu
chí theo ý kiến chuyên gia. Phương pháp này chỉ dừng ở cho điểm định tính và chưa
lượng hóa được các yếu tố rủi ro. Nguyên nhân là do:
* Chưa có quy định, hướng dẫn, lịch trình chính thức áp dụng về XHTD theo chuẩn
Basel II để các TCTD làm căn cứ thực hiện.
* Các TCTD thiếu thông tin, hoặc chưa hiểu hết sự cần thiết phải thiết lập của XHTD
theo chuẩn Basel II.
17
17
* Các TCTD thiếu cán bộ đủ năng lực xây dựng các mô hình tính toán để lượng hóa
các yếu tố rủi ro.
* Các TCTD thiếu dữ liệu cả về lượng (mẫu nghiên cứu) và chất (dữ liệu sạch) để
đưa vào mô hình lượng hóa.
Câu 3: bao thanh toán
theo luật TCTD Việt Nam 2010, BTT là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng
hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải
thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ
theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Tại khu vực Châu Á, bao thanh toán phát triển mạnh ở các quốc gia và vùng lãnh thổ
như Trung Quốc (378 tỷ EUR), Đài Loan (73 tỷ EUR. Quy mô, số lượng hợp đồng
BTT và các tổ chức tài chính tham gia ở những quốc gia và vùng lãnh thổ trên đã cho

thấy mức độ phổ biến sử dụng BTT trong hoạt động thanh toán của nhiều doanh
nghiệp.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, doanh số BTT năm 2013 chỉ dừng lại ở 100 triệu EUR và
chưa được áp dụng rộng rãi tại các ngân hàng thương mại, đồng thời số lượng doanh
nghiệp hiểu về BTT chỉ đếm trên đầu ngón tay. Với xu thế hội nhập, bắt buộc các
doanh nghiệp Việt Nam, hoặc phải cạnh tranh trực tiếp các sản phẩm – dịch vụ từ các
công ty đa quốc gia, hoặc trở thành chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu.
Nguyên nhân
- Có thể khẳng định, phần lớn nguyên nhân đến từ nhận thức của ngân hàng
thương mại về tầm quan trọng của hoạt động BTT. Ngoài ra, sự hạn chế về
kiến thức bao thanh toán cũng khiến nhiều ngân hàng ít mặn mà triển khai và
tâm lý e dè sợ thất bại khi thực hiện một dịch vụ tài chính mới…
- Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam phần lớn phụ thuộc nhiều vào phương
thức thanh toán L/C, T/T, D/P…mà quên mất rằng, các nhà nhập khẩu lớn trên
18
18
thế giới đều ưa thích trả chậm và từ chối yêu cầu mở thư tín dụng (bởi thư tín
dụng chỉ được mở khi hai bên không tin nhau).
Biện pháp
Hai là, NHNN cần sớm ban hành quy chế hoạt động của các công ty tài chính chuyên
ngành, trong đó có hình thức công ty tài chính bao thanh toán. Đây sẽ là một tổ chức
cung ứng dịch vụ tài chính chuyên biệt và là chủ thể cạnh tranh trực tiếp với các ngân
hàng thương mại;
Ba là, các ngân hàng thương mại nhanh chóng tham gia Tổ chức Bao thanh toán quốc
tế (FCI) và kết nối với các tổ chức cung ứng dịch vụ BTT thuộc tổ chức để trao đổi
cơ sở dữ liệu khách hàng lẫn nhau;
Bốn là, ngân hàng thương mại cần thiết kế dịch vụ BTT phù hợp từng loại hình doanh
nghiệp và đẩy mạnh hoạt động marketing đến các doanh nghiệp tiềm năng;
Năm là, tiếp cận các doanh nghiệp Việt Nam thông qua đội ngũ Sales và cung cấp
đầy đủ nhất những lợi ích đem lại từ dịch vụ BTT cho doanh nghiệp trong thanh toán

nội địa lẫn xuất khẩu;
Sáu là, khi triển khai, các ngân hàng chú trọng hơn nữa đến hệ thống công nghệ
thông tin nhằm phục vụ cho việc tổng hợp, quản lý, phân tích, đánh giá và đo lường
các rủi ro…
Câu 4: rủi ro thanh khoản, quản trị rủi ro thanh khoản
Thanh khoản là thuật ngữ chuyên ngành nói về khả năng đáp ứng các nhu cầu về sử
dụng vốn khả dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại mọi thời điểm nhơ chi trả
tiền gửi, cho vay, thanh toán, giao dịch vốn Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro khi
ngân hàng không có đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh khoản tức thời; hoặc cung
cấp đủ nhưng với chi phí cao nói cách khác rủi ro này xuất hiện khi ngân hàng không
19
19
đủ khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không
thể vay mượn đáp ứng nhu cầu của khả năng thanh toán
Thực trạng
Ngân hàng “bóc ngắn cắn dài”, nợ có khả năng mất vốn tăng mạnh
Một trong những rủi ro các ngân hàng đang phải đối mặt hiện nay là vấn đề
thanh khoản khi nguồn vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn và phải bù đắp trong
việc cho vay trung và dài hạn trong khi dư nợ cho vay không dễ thu hồi và nợ có
khả năng mất vốn đang tăng nhanh.
Lấy nguồn ngắn hạn cho vay trung dài hạn
Trong số hơn 10 ngân hàng công bố đầy đủ báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2014,
đa phần các nhà băng này đều có rủi ro thanh khoản khi các nguồn huy động trung
dài hạn không đủ cho vay trung dài hạn và phải bù đắp từ nguồn huy động ngắn hạn.
Hầu hết các ngân hàng trên đều tăng trưởng huy động khách hàng so với đầu năm
2014.Trong đó, tỷ lệ huy động vốn khách hàng ngắn hạn của BIDV
99,7%Techcombank ở ngưỡng 98%., VCB ;à 94,2%, Sacombank (STB), Vietinbank
(CTG) dưới 90% và MBB đạt 79% tổng huy động từ khách hàng.
Trong khi đó, cho vay khách hàng cũng có sự tăng trưởng so với đầu năm với tỷ lệ
cao nhất là cho vay trung và dài hạn (hơn 1 năm). Điển hình như hai “ông lớn” BIDV

và Vietcombank cho vay trung dài hạn khoảng 147,700 tỷ và 80,950 tỷ đồng, chiếm
37% và 28% tổng dư nợ cho vay khách hàng.
Nợ có khả năng mất vốn tăng vọt
Đáng chú ý, nhóm nợ này tại BIDV và Vietcombank ngất ngưởng ở mức hơn 5,700
tỷ và 4,700 tỷ đồng với tỷ lệ gia tăng lần lượt 36% và 71%. Tại Techcombank, nợ có
khả năng mất vốn tăng mạnh nhất với tỷ lệ 71% và ở mức hơn 1,685 tỷ đồng
20
20
Cùng với việc nợ có khả năng mất vốn tăng mạnh, tỷ lệ nợ xấu tại các nhà băng cũng
tăng không kém. Nợ xấu cao nhất là PvcomBank với tỷ lệ 5.2%, NVB là
4,83%,Techcombank xếp thứ ba tại mức 4.12%. Tỷ lệ nợ xấu của ACB cũng tăng
đáng kể lên 3.65%.
Nguyên nhân
- Tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buong lỏng các chính sách quản trị
rủi ro làm mất cân đối một số tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không
đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN.
- Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn giữa các
ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu
ứng lây truyền nhanh chóng lan tỏa ra hệ thống ngân hàng
- Huy động ngắn hạn cho vay dài hạn. cơ cấu tài sản giữa ngắn hạn và dài hạn
cũng mất cân đối nên khi cần một lượng tiền mặt cho khách hàng rút hoặc để
giải ngân tín dụng thì việc chuyển đổi tài sản dài hạn sang ngắn hạn không đáp
ứng được dẫn đến mất khẳ năng thanh khoản
- Do tin đồn thất thiệt trên thị trường cũng dẫn đến rủi ro thanh khoản cho một
ngân hàng như: năm 2003, với tin đồn TGĐ ngân hàng Á Châu bỏ trốn, rất
nhiều cá nhân, tổ chức ồ ạt cùng một lúc dẫn đến ngân hàng mất khả năng
thanh khoản, điều đó cũng làm ảnh hưởng đến tính thanh khoản của hệ thống
ngân hàng. Do một ngân hàng huy động vốn trên thị trường ngắn hạn rồi đẩy
vốn lên thị trường cấp 2, vì vậy thị trường 1 rút vốn về ảnh hưởng ngay đến thị
trường 2

- Chính sách của NHTM qua từng thời kỳ, NHTM muốn tăng trưởng kinh tế thì
sẽ bơm tiền vào lưu thông qua hệ thống các ngân hàng. Khi đó các ngân hàng
có lượng vốn dồi dào đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Nhưng khi NHNN
21
21
sử dụng chính sách thắt chặt để kiềm chế lạm phát, điều đó cũng ảnh hưởng
đến khẳ năng thanh khoản của NHTM
- Nợ xấu ảnh hươngr trực tiếp đến khả năng thanh khoản của ngân hàng, do một
khối lượng lớn cho vào lưu thông không trở lại với ngân hàng. Đó là tình trạng
mất máu của ngân hàng
Quản trị rủi ro là việc tiếp cận rủi ro một cách khoa học , toàn diện và có hệ thống
nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất mất mát những
ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. Quản trị rủi ro bao gồm 5 bước: nhận dạng rủi ro; phân
tích rủi ro; đo lường rủi ro; kiểm soát phòng ngừa và tài trợ rủi ro. Điều kiện kiên
quyết dể quản trị rủi ro là phải nhận dạng được rủi ro, đây là quá trình xác địnhliên
tục và hệ thống các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bao gồm việc theo dõi,
xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ hoạt động của ngân hàng nhằm
thống kê được tất cả các loại rủi ro, kể cả dự báo được rủi ro mới có thể xuất hiện
trong tương lai để từ đó có các biện pháp kiểm soát, tài trợ cho phù hợp.
Kiểm soát rủi ro là trọng tâm của quản trị rủi ro. Đó là việc sử dụng các biện pháp kỹ
thuật công cụ chiến lược, các chương trình hđ để ngăn ngừa, phòng tránh hoặc giảm
thiểu các tổn thất, những ảnh hươngr ko mong đợi có thể xảy ra với ngân hàng. Các
biện pháp như phòng tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, chuyển giao rủi ro, đa dạng rủi
ro, quản trị thông tin. Tài trợ rủi ro là bước cuối cùng trong quản trị rủi ro thanh
khoản. Mặc dù đã có được biện pháp quản trị rủi ro nhưng ko tránh khỏi rủi ro xảy ra.
Trước hết theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về tài sản, nguồn nhân lực hoặc
về giá trị pháp lý. Sau đó cần thiết lập các biện pháp tài trợ phù hợp như: tự khắc
phục hoặc chuyển giao rủi ro
Biện pháp
Bán nợ xấu cho công ty mua bán nợ VAMC, NH nhận lại trái phiếu 0% vay tái cấp

vốn trong vòng 5 năm để có thể nhận một khoản chiết khấu đủ đảm bảo cho khả năng
thanh khoản của ngân hàng
22
22
Tái cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém, NHTM phải xây dựng chiến lược tái cơ cấu lại
trình lên NHNN phê duyệt. Tính đến cuối năm 2013 NHNN đã tái cơ cấu 8/9 ngân
hàng yếu kém
Câu 5; quản trị rủi ro tín dụng hiện nay tại NHTM
Nhìn lại 2 năm 2012 và 2013, có thể thấy các ngân hàng đang tập trung xử lý nợ xấu
vốn là hệ quả của việc tăng trưởng tín dụng rất nóng. Hiện nay tín dụng được đẩy ra
nền kinh tế một cách chậm chạp và thận trọng hơn rất là nhiều. Vấn đề quản trị rủi ro
tín dụng đang là ưu tiên hàng đầu trong quản trị rủi ro trong ngân hàng hiện nay.
Trong năm nay, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Agribank đã ký hợp
đồng với tổng công ty café Việt Nam về gói tín dụng tài trợ: 4.165 tỷ đồng cho
Vinacafe thu mua chế biến café xuất khẩu; và 2110 tỷ đồng cho trồng, tái canh café;
3000 tỷ đồng cho Đắc Lắc trồng, chăm sóc, tái canh café; 2800 tỷ đồng cho Lâm
đồng trồng, chăm sóc, tái canh café. Ngân hàng đã cho vào hoạt động kho café có sức
chứa 1000 tấn, doanh nghiệp muốn vay tiền bằng hình thức cầm cố café sẽ phải lưu
giữ tại kho sau khi được kiểm tra chất lượng kỹ càng. Hàng muốn xuất thì tiền phải
được chuyển về cho ngân hàng mặc dù ngân hàng sẽ tốn thêm chi phí cho đất đai,
kho bãi, nhân lực. Đồng nghĩa với việc giá vốn doanh nghiệp được vay từ ngân hàng
cao hơn hoặc lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm đi để đáp ứng phần nào chi phí.
Nhưng bù lại tính an toàn của khoản vay vì thế lại được đảm bảo. Ngoài các gói tín
dụng tài trợ café còn có các gói tín dụng tài trợ cá ba sa và bất động sản. Qua kinh
nghiệm hoạt động thực tế của các ngân hàng, các tranh chấp có liên quan đến hàng
hóa xảy ra tương đối là nhiều, trong đó đặc biệt là tranh chấp các kho hàng. Chính vì
vậy, ngân hàng đã phải đưa ra một sản phẩm mới cho vay đối với café. Sản phẩm này
được coi là biện pháp hữu hiệu trong việc quản trị rủi ro tín dụng về cho vay thế chấp
đảm bảo bằng hàng hóa.
tỷ lệ nợ xấu tại các nhà băng hiện nay đang tăng lên so với cuối năm 2013. Nợ xấu

cao nhất là PvcomBank với tỷ lệ 5.2%, NVB là 4,83%,Techcombank xếp thứ ba tại
mức 4.12%. Tỷ lệ nợ xấu của ACB cũng tăng đáng kể lên 3.65%.Trích lập dự phòng
rủi ro khiến cho lợi nhuận của ngân hàng bị teo tóp. Do vậy, tăng cường quản trị rủi
23
23
ro, nhất là rủi ro tín dụng là con đường duy nhất đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng. Dưới sự hợp tác hỗ trợ của đối tác Standard Chartered
bank một bộ phận chuyên quản lý rủi ro tại ACB đã được đi vào hoạt động. Nếu
khách hàng gặp rủi ro thì ngân hàng phải nhìn thấy trước, dự báo và có biện pháp để
hỗ trợ khách hàng vượt qua khó khăn. Nếu khách hàng ko thể vượt qua khó khăn thì
ngân hàng phải có các biện pháp xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi được vốn và lãi cho
ngân hàng.
Để giảm thiểu rui ro phát sinh, cán bộ tín dụng phải sâu sát hơn trong hoạt động của
doanh nghiệp. Điều đó, đồng nghĩa với việc có yêu cầu cao hơn về trình độ và năng
lực của cán bộ ngân hàng, cũng như quy trình quản trình hoạt động chuẩn mực hơn
của chính nhà băng. Theo lãnh đạo của các tổ chức tín dụng, nếu làm được điều này
thì tài sản đảm bảo không còn là điều kiện kiên quyết để giải ngân các khoản vay. Về
lâu về dài, việc cho vay về cơ bản phải dựa trên đánh giá khả năng hấp thụ tín dụng
cũng như khả năng sản xuất kinh doanh, phương án khả thi, dòng tiền của doanh
nghiệp và tài sản đảm bảo của doanh nghiệp được xếp ở vị trí thứ 2. Hiện nay hệ
thống quản trị rủi ro ở ngân hàng nào cũng được xây dựng, nhưng quy chuẩn và
thang bậc đánh giá của mỗi ngân hàng lại mỗi khác. Thế nên mới có chuyện cùng
một doanh nghiệp nhưng có ngân hàng đánh giá là khách hàng tốt, có ngân hàng lại
xếp loại khách hàng có mức độ rủi ro cao.
Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM ở Việt Nam hiện nay cần có hệ thống
và có chuẩn mực cụ thể rõ ràng cho tất cả các ngân hàng. Đồng thời cần có sự kiểm
soát gắt gao của NHNN về tình hình nợ xấu của các ngân hàng để có n=biện pháp kịp
thời xử lý. Đánh tan cục máu đông một cách nhanh chóng.
Câu 1: Tầm quan trọng của công tác xếp hạng tín dụng nội bộ trong quy trình quản
trị rủi ro tín dụng của NHTM. Thực trạng công tác này tại các NHTM ở Việt Nam

*XHTD là sự đánh giá mức độ tín nhiệm của bên nợ/công cụ nợ về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính theo đúng cam kết. Một hệ thống XHTD tin cậy phải phân biệt rõ
24
24
khách hàng/khoản vay theo từng hạng, dựa trên các đặc điểm rủi ro tín dụng của
khách hàng/khoản vay.
*Tầm quan trọng của công tác XHTD nội bộ:
Basel II quy định, XHTD nội bộ và các kết quả ước lượng xác suất vỡ nợ, mức độ tổn
thất là những yếu tố quan trọng trong quá trình phê duyệt tín dụng, quản lý rủi ro tín
dụng, phân bổ nguồn vốn cho vay và quản trị ngân hàng. Cụ thể hơn, kết quả XHTD
và các ước lượng về xác suất vỡ nợ và mức độ tổn thất được ứng dụng vào:
- Hỗ trợ phê duyệt tín dụng: cải thiện tính chính xác và hiệu lực của việc ra quyết
định cấp tín dụng, cung cấp phương tiện hỗ trợ để quá trình này trở nên hiệu quả, tiết
kiệm thời gian, chi phí và giảm bớt sự can thiệp từ con người.
- Thực hiện quản trị rủi ro tín dụng: XHTD nội bộ là một công cụ để đánh giá mức
rủi ro của khách hàng. Nhờ tích hợp các nguyên tắc, khung chính sách và tiêu chuẩn
tín dụng căn bản của ngân hàng, hệ thống XHTD là căn cứ độc lập để TCTD đánh giá
hiệu quả quá trình quản trị rủi ro của các bộ phận liên quan, bảo đảm việc cấp tín
dụng được quản lý phù hợp, các tài sản có rủi ro tín dụng nằm trong các giới hạn,
thống nhất với các tiêu chuẩn thận trọng và khả năng phát hiện rủi ro sớm.
- Hỗ trợ xác định giá khoản tín dụng: mức giá chào cho khoản tín dụng phải phù hợp
và đủ để bồi hoàn tổn thất tín dụng. XHTD phân loại các mức độ rủi ro và là một
trong những căn cứ tin cậy để xác định giá cho các khoản tín dụng, theo nguyên tắc
mức XHTD thấp (rủi ro cao) có mức giá cao và ngược lại.
- Hỗ trợ quản lý và quản trị khách hàng: quan hệ khách hàng của các TCTD phụ
thuộc vào mức độ XHTD của khách hàng đó. Những khoản vay có mức rủi ro cao
cần phải kiểm soát, đánh giá thường xuyên, những khách hàng vay có mức XHTD
thấp cũng cần phải được chú trọng theo dõi. Ngược lại, những khách hàng tốt với
mức XHTD cao sẽ được ưu ái hơn trong các quan hệ giao dịch.
- Làm căn cứ để lập dự phòng tín dụng: mức dự phòng các khoản cấp tín dụng phụ

thuộc vào mức độ rủi ro của khoản tín dụng đó. XHTD nội bộ cho phép tính toán,
ước lượng các yếu tố rủi ro PD, LGD và EAD. (**)
- Hỗ trợ công tác quản lý thông tin (MIS) theo danh mục và tạo lập báo cáo: dữ liệu
đưa vào hệ thống XHTD là rất phong phú liên quan đến khoản vay và hoạt động kinh
25
25

×