Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tiểu luận Một vài lưu ý về tư liệu Hương ước cổ hà tây”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.67 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu 2. 2
I. Một vài lưu ý về tư liệu “Hương ước cổ hà tây” 3 3
II. Một số hình thức trả lương của làng xã cho
bộ phận binh lính qua tài liệu “hương ước cổ hà tây”4. 4
Một vài nhận xét 6. 6
Tài liệu tham khảo 8 8
Phụ lục 9 9
1
MỞ ĐẦU
Trong quá trình dựng nước và giữ nước , dường như không một
thế kỷ nào, dân téc ta lại không phải đương đầu với những cuộc chiến
tranh xâm lược. Vì vậy, việc tổ chức , xây dựng các quân đội hùng
mạnh luôn là yêu cầu đặt ra đối với các triều đại phong kiến xưa. Cho
nên nhiệm vụ đi lính là một trong những nhiệm vụ lớn nhất đối với
nhà nước quân chủ của một người dân- chủ yếu là các đinh tráng trong
làng xã.Chính họ là những người tạo nên các đội cấm quân, lé quân,
các đội dân binh góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân
téc.
2
Chuyên đề "Lịch sử chống ngoại xâm và nghệ thuật quân sự
truyền thống Việt Nam" của PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế đã gợi mở ra
cho chúng tôi ý tưởng tìm hiểu về bộ phận binh lính trong làng xã
nhưng ở một khía cạnh rất nhỏ là một vài hình thức trả lương cho binh
lính của làng xã qua tài liệu "Hương ước cổ Hà Tây"-Qua đây chúng
ta sẽ thấy được phần nào vai trò của bé phận này .
3
I. MỘT VÀI LƯU Ý VỀ TƯ LIỆU “HƯƠNG ƯỚC CỔ HÀ
TÂY”
1.Hương ước làng Việt với tư cách là một nguồn sử liệu, từ lâu đã
được nhiều nhà nghiên cứu giới thiệu, sử dụng, nhất là trong những


năm gần đây. Có nhiều cách giải thích khác nhau về hương ước.
Nhà dân téc học Trần Từ cho rằng Dù không phải là một bộ luật
hoàn chỉnh, hương ước với những điều quy định về một số nét sinh
hoạt riêng biệt của làng xã, vẫn đóng một vai trò cương lĩnh, có thể
còn khá chung chung, nhưng dù sao vẫn đáng được xem là một
cương lĩnh về nếp sống hàng ngày của làng xã mà mọi cá nhân, mọi
tổ chức làng trong xã phải tuân theo
Nội dung của hương ước thường có một số điểm sau:
1.Trường hợp thưởng công
2.Trường hợp phạt tội
3.Trường hợp đền bù
4.Trường hợp suy tôn người đã bỏ của, công để làm việc chung
của làng xã
5.Những trường hợp cấm đoán, hoặc nhằm bảo vệ an ninh [1;308-
310]
Trong tác phẩm :"Làng xã Việt Nam -một số vấn đề kinh tế, xã
hội, văn hoá", GS Phan Đại Doãn nêu ra định nghĩa khá tổng quát về
hương ước; đó là luật lệ làng, bắt buộc các thành viên phải tuân
thủ.Hương ước gắn bó các thành viên trong một cộng đồng tương đối
chặt chẽ và tự nguyện, lệ thuộc lẫn nhau, phụ thuộc vào làng xã.
4
Các hương ước thường phản ánh
1. Những quy ước liên quan đến cơ cấu tổ chức và các quan hệ xã
hội trong làng xã
2. Những quy ước về việc bảo vệ an ninh làng xã
3.Những quy ước về việc đảm bảo đời sống tâm linh cộng đồng
4. Những quy ước về việc đảm bảo các nghĩa vụ sưu thuế, binh
dịch đối với nhà nước
5. Những quy ước về việc khuyến học, bảo vệ mùa màng…
[2;131-138]

Dù nhìn nhận ở các mặt khác nhau, nhưng các ý kiến đều thống
nhất quan điểm hương ước là bộ luật chính thức thành văn của một
làng. Nó ra đời trước hết do nhu cầu quản lý nông thôn của bản thân
nhà nước thống trị, đồng thời nó cũng đáp ứng được nhu cầu tự trị,
tự quản của làng xã. “Hương ước trực tiếp kiểm soát thế ứng xử của
các thành viên trong cộng đồng làng, điều chỉnh các mối quan hệ giữa
các tổ chức, các giai tầng xã hội trong làng, tạo ra thế của cộng đồng
làng xã bằng sù ràng buộc, áp đặt và cả cưỡng chế của cộng đồng đối
với cá nhân. Từ đó, hương ước là sợi dây nối liền các tổ chức và các
cá nhân trong cộng đồng , trong những quyền lợi và nghĩa vụ
chung”[3;105]
2. Năm 1993, nhà nghiên cứu Nguyễn Tá Nhí ở viện nghiên cứu
Hán Nôm đã dịch và công bố tập "Hương ước cổ Hà Tây" (Bảo tàng
tổng hợp sở VHTTTT Hà Tây, 1993) Đây là một tuyển tập gồm bản
dịch ( đối với văn bản chữ Hán) , bản phiên âm và chú thích (đối với
bản chữ Nôm) của 9/389 tài liệu hương ước hiện đã thu thập đựợc
trên địa bàn tỉnh Hà Tây.Trong 9 bản tài liệu trên có một bản Khoán
5
ước xã Duyên Trường huyện Thanh Trì được viết bằng chữ Nôm vào
khoảng những năm đầu thế kỷ XX, còn lại là các văn bản hương ước
viết bằng chữ Hán, trong đó có những bản được bổ sung nhiều lần
trong các năm khoảng từ năm 1666 (Cảnh Trị 4) đến năm 1910( Duy
Tân 10) mà sớm nhất là Khoán ước thôn Dương Liễu, xã Dương Liễu,
huyện Hoài Đức lập ngày 10/7/1666 và muộn nhất là các hương ước
lập vào năm 1910. Như vậy, tất cả các hương ứơc, khoán ước đều ra
đời trước khi thực dân Pháp tiến hành cải lương hương chính đã làm
đảo lộn đáng kể cuộc sống xã thôn. Cho nên các hương ước này có thể
coi là phản ánh tục lệ của làng xã Việt Nam còn mang nhiều tính chất
cổ truyền . Chính vì vậy, việc tìm hiểu một vài hình thức trả lương của
làng xã cho bộ phận binh lính qua các tài liệu hương ước này trở nên

rất có ý nghĩa
II. MỘT SỐ HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG CỦA LÀNG XÃ CHO
BỘ PHẬN BINH LÍNH QUA TÀI LIỆU “HƯƠNG ƯỚC CỔ HÀ
TÂY”
Trong 9 hương ước được lùa chọn trong “Hương ước cổ Hà
Tây” có 4 hương ước quy định việc trả lương cho bộ phận binh lính.
Đó là Khoán ước xá Duyên Trường ( Thanh Trì), Tục lệ làng La Khê
(1910), Phong tục các xã Mộ Lao, Vạn Phóc trong tổng Đại Mỗ
(1910), Phong tục làng Yên Lé(1910)
Qua các điều quy định cụ thể, ta có bảng sau:
6
Bảng1:Thống kê một số hình thức cấp lương cho binh lính của
làng xã
(Nguồn :Hương ước cổ Hà Tây-Bảo tàng tổng hợp sở văn hoá
thông tin thể thao Hà Tây, 1993)
ST
T
Đơn vị Cấp lương
Hàng
năm/Hàng
tháng
Có/không
Cấp
ruộng/nguồn
(Sào)
Cấp
tiền/nguồn
Quyền
lợi
khác

1 XãDuyên
Trường
Không/không Mãn
khoá
được
dự
chiếu
kỳ
mục
2 Thôn
Dương
Tây(làng
Có/có 5 72quan(BDĐ)
7
La Khê)
3 Thôn
Tây(làng
La Khê)
Có/có 20 7 đồng(BDĐ)
4 Thôn
Bắc(làng
La Khê)
Có/có 5 50quan(BDĐ)
5 Xã Đại
Mỗ
Có/không 18(RC)
6 Xã Tây
Mỗ
Có/không 10(RC)
7 Xã Phú

Thứ
Có/không 10(RC)
8 Xã Phú
Đô
Có/không 20(RC)
9 Xã Ngọc
Trục
Có/không 12(RC)
10 Thôn
Trung
Văn
Có/có 12(RC) 8quan(BDĐ)
11 Thôn Vạn
Phóc
Có/có 10(RC) 7quan(BDĐ)
12 Xã Mé
Lao
Có/không 40(RC)
13 Xã Phùng
Khoang
Có/không 15(RC)
14 Làng Yên

Có/không 30
RC: Ruộng công
8
BDĐ: Bổ dân đinh
Bảng 2: Mét số hình thức cấp lương của làng xã cho binh lính và
lý trưởng
ST

T
Đơn vị Binh lính Lý trưởng
Cấp
ruộng/năm
(sào )
Cấp
tiền/tháng
Cấp
ruộng/năm
(sào)
Cấp
tiền/năm
(tiền )
1 XãDuyên
Trường
20
2 Thôn
Dương
Tây(làng La
Khê)
5 72quan(BDĐ)
6
3 Thôn
Tây(làng La
Khê)
20 7 đồng(BDĐ)
4 Thôn
Bắc(làng La
Khê)
5 50quan(BDĐ)

5 Xã Đại Mỗ 18(RC) 3
6 Xã Tây Mỗ 10(RC) 6
7 Xã Phú Thứ 10(RC) 5
8 Xã Phú Đô 20(RC) 5
9 Xã Ngọc
Trục
12(RC) 30
9
10 Thôn Trung
Văn
12(RC 8quan(BDĐ)
11 Thôn Vạn
Phóc
10(RC) 7quan(BDĐ)
12 Xã Mé Lao 10(RC) 5
13 Xã Phùng
Khoang
15(RC) 120
14 Làng Yên

30 30
MỘT VÀI NHẬN XÉT
1.Hầu hết các làng xã, thôn quy định cấp lương hàng năm cho
những người xung vào làm lính ở làng (13/14 làng xã ). Còn việc cấp
lương hàng tháng chỉ có ở một số làng xã (5/24). Tuy nhiên, vẫn có
làng xã quy định rõ ràng là không cấp lương hàng năm/ hàng tháng
cho binh lính, mà chỉ dành cho họ một số quyền lợi nào đó. Số làng
này không nhiều và cần phải được khảo sát cụ thể hơn về điều kiện và
tục lệ của làng xã đó để lý giải
2.Cấp ruộng là hình thức trả lương hàng năm và cấp tiền là hình

thức trả lương hàng tháng. Hai hình thức cấp ruộng và cấp tiền được
sử dụng đối với từng làng xã nhất định do tục lệ và điều kiện của làng
quy định. Có 5 làng xã thực hiện cả cấp ruộng và cấp tiền, 8 làng xã
chỉ thực hiện cấp ruộng. Không làng xã nào chỉ thực hiện cấp tiền
3. Mức cấp lương cho binh lính tuỳ theo từng làng xã cụ thể.
Ngay trong một làng, giữa các thôn cũng khác nhau
10
Trong 13 làng xã thực hiện cấp ruộng hàng năm( bao gồm cả các
làng cấp tiền hàng tháng) thì làng xã có số ruộng cấp nhiều nhất là 40
sào (xã Mộ Lao), gấp 8 lần so với làng xã cấp Ýt nhất là 5 sào ( thôn
Dương Tây và thôn Tây –làng La Khê ).
Trong 8 làng xã chỉ thực hiện cấp ruộng thì sự chênh lệch giảm
xuống chỉ còn 4 lần ( nhiều nhất là 40 sào, Ýt nhất là 10 sào- xã Tây
Mỗ và Phú Thứ)
Trong 5 đơn vị làng xã vừa cấp ruộng, vừa cấp tiền thì:số ruộng
được cấp nhiều nhất là 20 sào (thôn Tây làng La Khê ) và Ýt nhất là 5
sào ( thôn Dương Tây và thôn Bắc cũng thuộc làng La Khê ). Với hai
đơn vị được cấp ruộng hàng năm Ýt nhất này, thì những người đi lính
lại được nhận một số tiền lương hàng tháng nhiều nhất là 72 quan và
50 quan. Còn đơn vị đựơc cấp ruộng nhiều nhất thì tiền lương hàng
tháng lại được cấp Ýt nhất.
Như vậy có một sự điều chỉnh khá cân bằng giữa lương cấp hàng
năm và hàng tháng cho binh lính trong làng xã
4. Nguồn để cấp lương cho người đi lính được quy định cụ thể
:ruộng lấy từ ruộng công và tiền thì bổ dân đinh phải chịu. Có thể
thấy, việc trả lương cho binh lính là trách nhiệm chung của cả làng xã
5. Qua “Hương ước cổ Hà Tây”, ta thấy trong làng xã, chỉ binh
lính và bộ phận chức dịch/kỳ dịch ( lý trưởng, phó lý, hương trưởng,
khán thủ ) là được làng xã cấp lương. Trong bộ phận chức dịch thì lý
trưởng là người đựơc cấp lương cao nhất.

11
-Hầu hết các làng xã quy định cấp lương cho binh lính thì đều có
quy định cấp lương cho bộ phận lý dịch nói chung và lý trưởng nói
riêng. Vì thế, ta có thể rót ra một số so sánh từ bảng số 2:
-Hình thức trả lương cho lý trưởng cũng là cấp ruộng và cấp tiền.
Trong đó cấp ruộng là chủ yếu và được tính theo năm. Cấp tiền không
phải là hình thức trả lương hàng tháng như đối với binh lính , mà là
quy định theo năm
-Không thấy 2 hình thức tồn tại cả cấp ruộng, cấp tiền ở một làng
xã, mỗi làng chỉ áp dụng một hình thức duy nhất hoặc cấp tiền hoặc
cấp ruộng cho lý trưởng.
-Nhìn chung số ruộng cấp cho binh lính nhiều hơn so với lý
trưởng
Mé Lao là xã cấp ruộng cho binh lính nhiều nhất là 40 sào, thì cấp
cho lý trưởng là 5 sào. Trong khi Ngọc Trục là nơi lý trưởng được
hưởng nhiều ruộng nhất là30sào, thì binh lính cũng được cấp tới 12
sào
Lý dịch mà đặc biệt là lý trưởng và binh lính là hai đối tượng
quan trọng và được làng xã cấp lương cho hàng năm/hàng tháng. Qua
một sè so sánh trên ta có thể thấy những người đi lính được làng xã
cấp lương nhiều hơn và thường xuyên hơn. Tất nhiên, điều này không
có nghĩa là binh lính được nhiều quyền lợi hơn so với lý trưởng, bởi vì
thực tế ngoài việc được hưởng lương ra thì lý trưởng còn những
quyền lợi khác mà binh lính không có. Song điều này vẫn cho ta thấy
rằng, binh lính là một bộ phận quan trọng và được ưu tiên khá nhiều
trong làng xã
12
Nghĩa vô lớn nhất của một người dân /đinh tráng trong làng xã là
đi thuế, đi phu và đi lính. Nhưng nghĩa vụ luôn đi liền với quyền lợi.
Vì vậy binh lính là một trong những thành phần được ưu tiên nhiều

nhất trong làng xã. Việc trả lương cho binh lính của các làng xã đã
phần nào cho ta thấy điều đó, đồng thời qua đó cũng cho thấy vai trò
quan trọng của bộ phận này
Nghiên cứu về bé phận binh lính là một điều hết sức quan trọng
trong nghiên cứu về lịch sử chống ngoại xâm, về nghệ thuật quân sự
truyền thống Việt Nam. Một vài tìm hiểu về việc trả lương cho binh
lính của làng xã qua hương ước sẽ góp phần tìm hiểu về quyền lợi của
binh lính nói chung- từ đó chúng ta có thể mở ra để nghiên cứu và lý
giải nhiều điều.
Tài liệu tham khảo
1 Nguyễn Từ Chi, Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ,
trong Góp phần nghiên cứu văn hoá và téc người, Nxb Văn hoá
dân téc, H, 2003
2 Phan Đại Doãn, Làng xã Việt Nam, một số vấn đề về kinh tế-xã
hội-văn hoá,Nxb CTQG, H, 2001
3 Phan Đại Doãn, Mấy vấn đề về văn hoá làng xã Việt Nam trong
lịch sử, Nxb CTQG,H,2004
4 Nguyễn Tá Nhí, Hương ước cổ Hà Tây, Bảo tàng tổng hợp sở văn
hoá thông tin thể thao Hà Tây, 1993
13
PHỤ LỤC
1.Khoán ước xã Duyên Trường, huyện Thanh Trì ( Thường Tín)
-Điều 8;Hễ có phái bắt lính mới thì lý trưởng chiếu nhà nào hai con
trai trở nên, cường tráng, tuổi tác hợp lệ thì đưa đi tuyển. Ai được mãn
khoá thì được dự chiếu kỳ mục[18]
2.Lệ làng La Khê:
- Điều 4: cấp ruông cho binh lính
Dân xã nào sung vào quân ngò nếu ở thôn Dương Tây thì cấp ruộng
cho mỗi người 5 sào lại cấp thêm 72 quan tiền. Thôn Tây thì cấp cho
mỗi người 2 mẫu ruộng lại cấp thêm 7 đồng bạc.

Thôn Bắc thì cấp cho mỗi người 5 sào ruộng lại cấp cho thêm 50
quan tiền.
[63]
3. Phong tục các xã Mộ Lao, Vạn Phóc trong tổng Đại Mỗ.
- Cấp phát tiền ruộng cho binh lính[98-99]
+ Xã Đại Mỗ trong tổng từ trước đến nay chỉ cấp ruộng cho binh lính
gồm 1mẫu 8 sào, không thu bổ gì, trích lấy ruộng công đem chia
+Xã Tây Mỗ từ trước đến nay có người nào sung vào quân ngò thì
mỗi người được cấp một phần ruộng khoảng 1mẫu không có thu bổ gì
khác trích lấy ruộng công của dân đem chia.
14
+Xã Phú Thứ từ trước đến nay có người nào sung vào quân ngò thì
cấp cho mỗi người một mẫu ruộng công không có thu bổ gì khác.
+ Xã Ngọc Trục từ trước đến nay có người nào sung vào quân ngò thì
cẫp ch 1 mẫu 2 sào ruộng , lấy ruộng công đem cấp không có thu bổ

+Xã Phú Đô từ trước đến nay có người nào sung vào quân ngò thì cấp
cho mỗi người 2 mẫu ruộng lấy ruộng công của dân cấp cho.
+ Thôn Trung Văn từ trước đến nay cấp ruộng cho lính mỗi người
một mẫu hai sào lấy ruộng công của dân cấp cho. Lại cấp cho mỗi
người lính mỗi tháng 8 quan tiền đều bổ cho dân đinh tráng góp.
+ Xã Vạn Phóc từ trước đến nay cấp ruộng cho binh lính mỗi người
một mẫu, lại cấp thêm cho mỗi người lính mỗi tháng 7 quan tiền. Số
ruộng lấy ruộng công của dân để cấp
+ Xã Mộ Lao từ trước đến nay cấp ruộng cho binh lính mỗi người 4
mẫu không có thu bổ gì thêm, ruộng lấy của công cấp cho
+ Xã Phùng Khoang từ trước đến nay cấp ruộng cho lính mỗi người 1
mẫu 5sào, ruộng lấy của công cấp cho
5.Phong tục làng Yên Lé
- Điều6: Cấp ruộng cho binh lính

Dân xã có người nào xung lính thì đồng dân cẫp cho mỗi người 3
mẫu đất[133]
15
16

×