Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Phân tích bài thơ tỏ lòng của phạm ngũ lão

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.61 KB, 3 trang )

Phân tích bài thơ Tỏ lòng ( thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão
Mỗi khi nhắc đến Phạm Ngũ Lão,chúng ta liền nhớ đến người anh hùng xuất thân
ở tầng lớp bình dân,ngồi đa sọt mà lo việc nước.Về sau,chàng trai làng PHù Ủng ấy đã
trở thành nhân vật lịch sử từng có công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên-
Mông,giữ địa vị cao ở đời Trần.
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn
võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn
Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.
Phạm Ngũ Lão là người văn võ song toàn.Văn thơ của ông để lại không
nhiều,nhưng Thuật hoài là bài thơ nổi tiếng hừng hực hào khí Đông A của lịch sử giai
đoạn thế kỷ X đến XV.
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của
người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng
Phạm Ngũ Lão.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).
Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang
dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ
vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian
chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra
trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được
biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận
mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh
phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của
đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí
thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên
bầu trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng
sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí


thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất
độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát”
đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích,
một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
“Thuyền bè muôn đội;
Tinh kỳ phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…”
(Bạch Đằng giang phú)
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập
chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng!
“Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin
bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác
này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện
rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần
trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về
những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm
sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng
một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm
nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là
thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một
gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.
Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn
luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng
Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa
thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững:

“Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).
Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì đến đây âm hưởng thơ bỗng
dưng như một nốt trầm lắng lại. Điều đó rất phù hợp với lời bộc bạch, tâm sự, bày tỏ nỗi
lòng của nhà thơ. Nói cách khác âm hưởng thơ góp phần thể hiện nỗi lòng của Phạm Ngũ
Lão.
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).
Vẻ đẹp của người trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư thế, khí phách, tầm
vóc, sức mạnh mà còn thể hiện ở cái chí, cái tâm của người tráng sĩ. Cái chí, cái tâm ấy
gắn liền với quan niệm chí làm trai. Theo Phạm Ngũ Lão chí làm trai phải gắn liền với
hai chữ công danh, Chí làm trai này mang tinh thần, tư tưởng tích cực, gắn với ý thức
trách nhiệm, lập công (để lại sự nghiệp), lập danh (để lại tiếng thơm cho đời). Chí làm
trai đó được coi là món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh có nghĩa là hoàn thành
nghĩa vụ đối với dân, với nước. Quan niệm lập công danh đã trở thành lý tưởng sống của
trang nam nhi thời phong kiến. Sau này Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã cổ vũ con người từ bỏ lối sống
tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn
đời bất hủ”. Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc
chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ
đó mà nảy sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Nói cách khác cái tâm thể hiện qua nỗi
thẹn…
Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời
Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với cha ông mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát
Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi
tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”
thực chất là một lời thề suốt đời tận tuỵ với chủ tướng Trần Hưng Đạo, “thẹn” còn được

hiểu là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay, những
người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn.
Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới Đào
Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Đó là nỗi thẹn của người có nhân cách. Trong bài
Thuật hoài,Phạm Ngũ Lão thẹn vì chưa trả xong nợ nước. Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân
cách. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá
con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa
khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho
cộng đồng. Như vậy, Phạm Ngũ Lão vừa đề cao cái chí, vừa đề cao cái tâm của con
người Việt Nam đời Trần. Đó chính là con người hữu tâm trong thơ ca trung đại Việt
Nam.
Tóm lại bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được quan niệm về
con người trong văn học phương Đông. Hình ảnh tráng sĩ – con người Việt Nam đời Trần
vừa mang tầm vóc vũ trụ, vừa có ý thức, trách nhiệm cộng đồng, vừa lắng sâu một nỗi
lòng cao cả. Nói cách khác ba kiểu con người: con người vũ trụ, con người cộng đồng và
con người hữu tâm đồng hiện, hài hoà. Chính ý thức trách nhiệm với đất nước (con người
cộng đồng) nên sẵn sàng xông pha cứu nước với tư thế và tầm vóc lớn lao (con người vũ
trụ) và luôn biết nghĩ suy, khát vọng (con người hữu tâm)… Dáng đứng Việt Nam, con
người Việt Nam đời Trần cao đẹp làm sao!

×