Khóa luận tốt nghiệp Trang 1 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Với bất kỳ một doanh nghiệp nào, vốn là một trong các yếu tố đầu vào cơ
bản của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với Ngân hàng thương mại
- tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền
gửi và cho vay khách hàng, đồng thời làm các dịch vụ Ngân hàng thì vai trò của
nguồn vốn càng trở nên đặc biệt quan trọng. Qui mô, cơ cấu và các đặc tính của
nguồn vốn quyết định hầu hết các hoạt động của một Ngân hàng thương mại , từ
đó quyết định khả năng sinh lời và sự an toàn của mỗi Ngân hàng. Tuy nhiên,
vấn đề làm sao để có thể tăng cường huy động được nguồn vốn với chi phí hợp
lý và ổn định, khai thác tối đa những nguồn vốn đang còn tiềm tàng trong các tổ
chức kinh tế và dân cư để có một nguồn vốn phong phú với cơ cấu vốn tối ưu
đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và của bản thân mỗi Ngân hàng luôn là
vấn đề khiến các nhà quản trị Ngân hàng phải đau đầu, nhất là khi tình hình
chính trị và kinh tế thế giới có nhiều bất ổn do cuộc suy thoái kinh tế thế giới đã
ảnh hưởng đến thu nhập của từng người dân, làm giảm đi lượng tiền nhàn rỗi từ
dân cư. Bên cạnh đó, lượng tiền nhàn rỗi này lại không chảy vào các Ngân hàng
thương mại mạnh mẽ như trước nữa bởi vì một phần lớn đã chảy vào các kênh
đầu tư khác hấp dẫn hơn như vàng, chứng khoán, đã làm cho tình hình huy
động vốn của các Ngân hàng thương mại trở nên khó khăn hơn. Do vậy yêu cầu
tăng cường huy động vốn có mức chi phí hợp lý và ổn định cao được đặt ra hết
sức cần thiết đối với Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung, Ngân hàng
Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam nói riêng.
Do đó việc nghiên cứu về công tác huy động nguồn vốn tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi nhánh tây Hà Nội là một yêu
cầu cấp thiết để giúp cho nhà quản trị ngân hàng nói chung và các nhà quản trị
Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi nhánh tây Hà Nội
nói riêng có những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác huy động
nguồn vốn tiền gửi.
Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 2Khóa luận tốt nghiệp Trang 2 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn tiền gửi cũng như
những khó khăn mà các ngân hàng đang gặp phải và sau thời gian tiếp xúc thực tế tại
ngân hàng Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi nhánh tây Hà
Nội, em đã chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng Thương
mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi nhánh tây Hà Nội” làm đề tài khóa luận của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về huy động vốn tiền gửi của Ngân hàng thương mại.
- Phân tích để thấy rõ được thực trạng huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng Thương mại
cổ phần Công thương Việt Nam – chi nhánh tây Hà Nội, những kết quả mà chi nhánh đã
đạt được cũng như hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng Thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam – chi nhánh tây Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là hoạt động huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – chi nhánh tây Hà Nội.
- Về thời gian: nghiên cứu hoạt động huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng Thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam – chi nhánh tây Hà Nội trong 3 năm 2011, 2012, 2013.
- Giới hạn đối tượng nghiên cứu: huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng Thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam – chi nhánh tây Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên nền tảng các phương pháp luận truyền thống: duy vật biện chứng hay duy vật
lịch sử, trong đề tài này cũng sử dụng một số phương pháp và công cụ nghiên cứu dưới
đây:
- Phương pháp tổng hợp: Từ các dữ liệu đã thu thập được tiến hành tổng hợp lại theo các
tiêu thức cần thiết, sau đó thống kê các kết quả, các con số theo các tiêu thức đó như số
liệu tình hình nợ xấu các năm, kết quả báo cáo tài chính của ngân hàng…
- Phương pháp so sánh: Dựa trên các báo cáo tổng hợp, các số liệu thứ cấp, tiến hành so
sánh mức chênh lệch, độ thay đổi qua các năm, giữa các tiêu thức để rút ra kết luận về sự
tăng trưởng, hoạt động, nhân tố nào chiếm vị trí quan trọng. Điều kiện so sánh các số
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 3Khóa luận tốt nghiệp Trang 3 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
liệu phải phù hợp về không gian, thời gian, nội dung kinh tế, đơn vị đo lường, phương
pháp tính toán, quy mô và điều kiện kinh doanh.
- Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát
triển và biến hóa của đối tượng để phát hiện bản chất và quy luật của đối tượng.
- Phương pháp thống kê: Tổng hợp các dữ liệu sơ cấp và thứ cấp thu được từ đó hình
thành nên các bảng số liệu, các biểu so sánh để thấy được xu hướng của sự biến đổi.
Phân tích các thông tin, xem xét sự tác động, tương tác giữa các yếu tố, chiều hướng
hoạt động của chúng như thế nào.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, mục lục, các danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ, từ viết tắt, kết
luận, các tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung của khóa luận gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn tiền gửi của Ngân hàng
Thương mại
Chương II: Thực trạng huy động vốn tiền gửi tại Ngân hàng Thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh Tây Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tiền gửi tại Ngân
hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam – Chi nhánh
Tây Hà Nội
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN VÀ CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát trển hàng trăm năm. Cùng với
sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, hệ thống Ngân hàng thương mại cũng ngày càng
được hoàn thiện, phát triển và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu trong
nền kinh tế bởi vai trò quan trọng của nó đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng
cộng đồng, từng địa phương nói riêng.
Ngân hàng là gì? Ngân hàng là một loại hình tổ chức đã có quá trình phát triển lâu
dài nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về ngân hàng. Thông thường,
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 4Khóa luận tốt nghiệp Trang 4 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
khi đưa ra khái niệm về một tổ chức người ta thường hay căn cứ vào các chức năng hay
hoạt động mà tổ chức đó thực hiện trong nền kinh tế. Theo cách tiếp cận này ta có thể
định nghĩa Ngân hàng như sau: "Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là dịch vụ tín dụng, thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế" – (Peter Rose).
Đối với ngân hàng thương mại, đạo luật ngân hàng ở mỗi quốc gia lại có một định
nghĩa khác nhau.
- Ở Mỹ: "Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ
tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính"
- Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: "Ngân hàng thương mại là những xí
nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới
hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ
trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính".
- Còn ở Việt Nam, theo Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng (2010): "Ngân hàng thương
mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận". Luật Ngân
hàng Nhà nước định nghĩa hoạt động ngân hàng như sau: "Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ, và dịch vụ ngân hàng với nội dung là nhận tiền gửi và sử dụng
số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán".
1.1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển đa dạng các nghiệp vụ kinh doanh, ngân hàng ngày càng
thực hiện nhiều vai trò mới để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu xã
hội. Các ngân hàng ngày nay có những vai trò cơ bản sau:
- Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính, thực hiện vai trò điều chuyển các khoản
tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình thành vốn tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các
thành phần kinh tế khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
- Ngân hàng thương mại giữ vai trò là trung gian thanh toán, thay mặt khách hàng thực
hiện thanh toán các giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ của họ.
- Ngân hàng thương mại giữ vai trò là người bảo lãnh, cam kết trả nợ cho khách hàng khi
khách hàng mất khả năng thanh toán.
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 5Khóa luận tốt nghiệp Trang 5 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
- Ngân hàng thương mại giữ vai trò đại lý, thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản
của họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán…
- Ngân hàng thương mại là người thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, góp
phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
- Ngân hàng thương mại là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia.
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 6Khóa luận tốt nghiệp Trang 6 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
1.1.1.3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
a) Hoạt động huy động vốn:
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và các tổ chức nước
ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
b) Hoạt động tín dụng:
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức
cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước. Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và
chiếm tỷ trọng lớn nhất.
- Cho vay: Ngân hàng thương mai được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình
thức:
+ Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
đời sống.
+ Cho vay trung và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống.
- Bảo lãnh: Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh Ngân hàng khác bằng uy tín
và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với
một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một Ngân hàng thương mại không được vượt
quá tỷ lệ so với vốn tự có của Ngân hàng thương mại.
- Chiết khấu: Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
- Cho thuê tài chính: Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng
phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của công ty cho thuê tài chính.
c) Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 7Khóa luận tốt nghiệp Trang 7 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua Ngân
hàng, Ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước.
Để thực hiện thanh toán giữa các Ngân hàng với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước,
Ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi Ngân
hàng thương mại đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy
định. Ngoài ra, chi nhánh của Ngân hàng thương mại được mở tài khoản tiền gửi tại chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch
vụ thanh toán và ngân quỹ của Ngân hàng thương mại bao gồm các hoạt động:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên Ngân hàng
trong nước
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép
d) Các hoạt động khác:
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động vốn tiền gửi, cấp tín dụng và cung
cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, Ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện một số
hoạt động khác bao gồm:
- Góp vốn và mua cổ phần: Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ
để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn được góp vốn, mua cổ
phần và liên doanh với Ngân hàng nước ngoài để thành lập Ngân hàng liên doanh.
- Tham gia thị trường tiền tệ: Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền tệ, theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua hình thức mua bán các công cụ của thị
trường tiền tệ.
- Kinh doanh ngoại hối: Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh hoặc thành lập
công ty trực thuộc kinh doanh ngoại hối vàvàng trên thị trường trong nước và thị trường
quốc tế.
- Ủy thác và nhận ủy thác đầu tư: Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác làm
đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động Ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản,
vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác, đại lý.
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 8Khóa luận tốt nghiệp Trang 8 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
- Cung ứng dịch vụ bảo hiểm: Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm,
được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định
của pháp luật.
- Tư vấn tài chính: Ngân hàng được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho
khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc
Ngân hàng
- Bảo quản vật quý giá: Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật
quý giá, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ vàcác dịch vụ khác có liên quan theo quy
định của pháp luật.
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 9Khóa luận tốt nghiệp Trang 9 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
1.1.2. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Theo các nhà kinh tế học: “Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là toàn bộ các
nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các
dịch vụ ngân hàng”. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm: vốn chủ sở hữu,
vốn tiền gửi và vốn phi tiền gửi.
1.1.2.1. Vốn chủ sở hữu
“Vốn chủ sở hữu là vốn riêng của một Ngân hàng thương mại, bao gồm số vốn ban
đầu và số vốn gia tăng không ngừng cùng với sự phát triển của Ngân hàng thương mại”.
Vốn chủ sở hữu bao gồm:
- Vốn điều lệ: là vốn đầu tư ban đầu của ngân hàng, được ghi trong bản điều lệ và phải đạt
mức tối thiểu theo quy định của pháp luật, còn được gọi là vốn pháp định.
- Vốn bổ sung trong hoạt động
+ Bổ sung vốn từ nguồn lợi nhuận: luật pháp cho phép ngân hàng giữ 1 phần lợi
nhuận để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc trích từ nguồn lợi nhuận
bao nhiêu tùy thuộc vào quyết định của ban lãnh đạo.
+ Bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm.
- Các quỹ
+ Quỹ thặng dư cổ phần: là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch
giữa thị giá với mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Nguồn thặng dư này
sẽ chuyển thành cổ phần trong tương lai.
+ Quỹ dự phòng tổn thất: được trích lập hàng năm nhằm bù đắp tổn thất xảy ra trong
quá trình hoạt động của ngân hàng.
+ Quỹ bảo toàn vốn: nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát trong
trường hợp ngân hàng chưa có hoặc chưa kịp có những ứng phó trong hoạt động
kinh doanh.
+ Các quỹ khác: quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc… Các quỹ này dùng
vào mục đích làm tăng giá trị ngân hàng, tạo gắn kết với người lao động.
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 10Khóa luận tốt nghiệp Trang 10 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
1.1.2.2. Vốn tiền gửi
“Tiền gửi là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà ngân hàng đang tạm
thời quản lý sử dụng với trách nhiệm hoàn trả”. Vốn tiền gửi bao gồm:
- Tiền gửi thanh toán là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng nhờ ngân
hàng giữ và thanh toán hộ. Lãi suất của khoản tiền trong tài khoản thanh toán thường có
lãi suất rất thấp hoặc bằng không.
- Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội là tiền gửi của doanh nghiệp, các
tổ chức cá nhân tại ngân hàng trong một thời gian nhất định. Tiền gửi có kì hạn của khách
hàng doanh nghiệp, tổ chức có đặc điểm: lãi suất cao hơn và số dư ổn định hơn tiền gửi
thanh toán, tuy nhiên khách hàng vẫn có thể rút tiền bất cứ lúc nào nhưng không thể thực
hiện các giao dịch thanh toán.
- Tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi của dân cư gửi vào ngân hàng trong một khoảng thời gian
xác định nhờ ngân hàng giữ hộ và hưởng lãi. Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định cao,
lãi suất cao.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác là số tiền mà 1 ngân hàng gửi tại ngân hàng khác.
1.1.2.3. Vốn phi tiền gửi
- Tiền vay
+ Vay Ngân hàng Nhà nước: Khi rơi vào trạng thái thiếu vốn hoặc cần giải quyết nhu
cầu cấp bách trong chi trả, các Ngân hàng thương mại có thể vay tiền của Ngân
hàng Nhà nước.
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Các Ngân hàng thương mại chuyển vốn cho nhau
trong thời gian ngắn với mức lãi suất hợp lý để đảm bảo mức dự trữ tiền gửi theo
quy định và đáp ứng được nhu cầu ngân quỹ đột xuất.
+ Vay trên thị trường tài chính
•
Huy động vốn ngắn hạn: ngân hàng phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn.
•
Huy động vốn trung và dài hạn: phát hành trái phiếu
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 11Khóa luận tốt nghiệp Trang 11 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
- Tiền trong thanh toán
+ Thanh toán quốc tế: là các khoản tiền kí quỹ của khách hàng cho chuyển tiền quốc
tế, nhờ thu và mở thư tín dụng trong khoảng thời gian chờ thanh toán
+ Thanh toán trong nước: là khoản tiền khách hàng chuyển ủy nhiệm chi đề nghị
chuyển tiền nhưng qua giờ thanh toán bù trừ; tiền chờ thanh toán séc bảo chi
+ Thanh toán nội bộ: là khoản thuế chưa nộp, lương chưa trả, phúc lợi chưa
chia…
- Các khoản treo chờ xử lý: trong quá trình hoạt động thường có những giao dịch chưa xác
định đúng phát sinh mà phải chờ xử lý, khi đó ngân hàng sẽ hạch toán giao dịch đó vào
tài khoản treo chờ xử lý. Ngân hàng có thể coi đây là nguồn vốn và sử dụng khi chưa xác
định được nguyên nhân và quyết toán.
- Tiền ủy thác: là nguồn tiền mà Ngân hàng Nhà nước hoặc các tổ chức tín dụng khác ủy
nhiệm cho ngân hàng thực hiện 1 nhiệm vụ nào đó.
1.1.3. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Các Ngân hàng thương mại với tư cách là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính
trung gian, nhận tiền của các khách hàng có tiền nhàn rỗi gửi vào Ngân hàng hoặc phát
hành các công cụ tài chính như các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu v.v để thu hút vốn.
Các tổ chức, cá nhân mở tài khoản tại Ngân hàng đáp ứng cho nhu cầu thanh toán,
thông qua việc làm trung gian thanh toán và chuyển hoá các phương tiện thanh toán,
Ngân hàng thu hút được lượng vốn lớn trong thanh toán. Đây là nguồn vốn có chi phí
thấp nên các Ngân hàng thương mại thường xuyên cải tiến các phương tiện, nâng cao
công nghệ thanh toán để thắng thế trong việc hấp dẫn khách hàng gửi tiền và bán thêm
các dịch vụ. Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân thường mở tài khoản tiền gửi
giao dịch tại một hoặc một số Ngân hàng thương mại nhất định, khi cần thiết yêu cầu rút
ra hoặc chuyển trả tiền cho bên thụ hưởng một cách nhanh chóng vì tính chất của tài
khoản này là thanh toán theo yêu cầu. Qua đó Ngân hàng vừa là thủ quỹ, vừa cung cấp
dịch vụ thanh toán theo yêu cầu của khách hàng.
Ở Việt Nam, một trong các yêu cầu bắt buộc khi một doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh phải mở tài khoản tiền gửi giao dịch tại một Ngân hàng thương mại, tài
khoản này một mặt là nơi thu nhận tiền từ những người mua hàng hoặc dịch vụ mà
doanh nghiệp này cung ứng, một mặt là nơi bảo quản tài sản tài chính an toàn, khi cần có
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 12Khóa luận tốt nghiệp Trang 12 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
thể chi trả bất cứ lúc nào và trong nhiều trường hợp, số dư của nó được dùng để bảo lãnh
hay đặt cọc cho các hợp đồng hoặc các thoả ước khác.
Trong khi thực hiện là trung gian thanh toán các Ngân hàng thương mại còn nhận
được tiền gửi các tổ chức tín dụng là một loại tiền gửi giao dịch.
Để thu hút được tiền gửi phi giao dịch của các tổ chức, cá nhân, Ngân hàng sử dụng
các tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn các tổ chức kinh tế xã hội hoặc phát
hành các loại giấy tờ có giá: kỳ phiếu, trái phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi.
1.1.3.1 Huy động vốn dưới hình thức tiền gửi ( Tiền gửi thanh toán )
Các tổ chức kinh tế, xã hội, các tổ chức tín dụng khác, cá nhân mở tài khoản giao
dịch tại các Ngân hàng thương mại, thông qua tài khoản này, người sở hữu chúng có
quyền phát hành séc hoặc lệnh chi trả cho người khác. Trước đây, tài khoản tiền gửi có
thể phát séc không được hưởng lãi nhưng để huy động được nguồn vốn này ngoài việc
cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ thanh toán, các Ngân hàng thương mại đã thực hiện
trả lãi cho loại tiền gửi này. Loại tiền gửi này là nguồn vốn Ngân hàng phải chi phí huy
động thấp nhất do người gửi tiền quan tâm nhiều hơn đến tính lỏng trong tài sản của họ.
Các Ngân hàng thường yêu cầu mức dư tối thiểu trên tài khoản trước khi người gửi
được hưởng lãi, lãi suất trả cho loại tiền gửi này cao hơn tài khoản vãng lai , đổi lại số
dư của nó tương đối ổn định hơn. Những quy định về loại tài khoản này rất khác nhau
giữa các Ngân hàng, tuy nhiên đặc điểm vốn có của tiền gửi phát hành séc là tiền gửi có
thể được thanh toán khi người gửi yêu cầu nên nguồn vốn này có độ ổn định thấp. Một
lý do khác gây nên sự mất ổn định của loại tiền gửi này do chi phí của Ngân hàng cho nó
thấp dẫn đến việc cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại để huy động tiền gửi.
1.1.3.2 Huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Bao gồm hai loại chính là tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn hoặc các giấy chứng
nhận tiền gửi. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất của các Ngân hàng thương mại
đặc tính chung của loại này là người sở hữu được hưởng lãi và không được phát séc.
Mức lãi suất thường cao hơn tiền gửi giao dịch vì người gửi tiền không được hưởng
nhiều dịch vụ của Ngân hàng và họ đánh đổi tính lỏng lấy thu nhập từ tài sản của họ.
Tiền gửi trên tài khoản tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch phổ biến nhất, tiền
gửi tiết kiệm có thể có hoặc không có kỳ hạn. Tiền gửi không kỳ hạn có thể được gửi
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 13Khóa luận tốt nghiệp Trang 13 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
thêm hoặc rút ra bất kỳ khi nào. Tiền gửi có kỳ hạn, về nguyên tắc không được rút trước
hạn tuy nhiên do cạnh tranh về huy động vốn, các Ngân hàng thương mại đã cho phép
khách hàng rút theo yêu cầu sau khi họ phải chịu mức phạt tiền lãi. Đây là nguồn vốn có
thời hạn dài nên chi phí cao và khá ổn định. Tiền gửi kỳ hạn của các tổ chức kinh tế xã
hội là những khoản tiền gửi có thời gian đến hạn xác định từ một vài tháng đến vài năm.
Lãi suất phải trả cho loại tiền gửi này khá cao và tương quan với kỳ hạn, có thể với cả
quy mô tiền gửi tuỳ theo sự vận dụng của mỗi Ngân hàng.
Do đặc thù của quan hệ thanh toán mà các tổ chức tín dụng thường mở tài khoản tại
các tổ chức tín dụng khác tạo thành tiền gửi của các tổ chức tín dụng.
1.1.3.3 Huy động vốn bằng cách đi vay
a) Vay chiết khấu hay tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước
Việc vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của nguồn
vốn do sự giảm sút số vốn hiện có so với tài sản của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên
nhu cầu khoản vay này phải phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước, ở nhiều
nước khoản vay này phải ký quĩ bằng thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác, chẳng
hạn: hối phiếu chấp nhận thanh toán. Đặc điểm nguồn vốn này là thời hạn ngắn do đó
các Ngân hàng thương mại phải tăng cường huy động các nguồn vốn khác để trả nợ ngay
khi đến hạn. Là nguồn vốn quan trọng khi gặp khó khăn trong cân đối nguồn vốn và sử
dụng vốn. Chi phí vốn cho tiền vay thường cao hơn so với các nguồn khác.
b) Vay các tổ chức tín dụng khác
Các Ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng khác trên thị
trường liên Ngân hàng trong nước hoặc quốc tế. Tiền vay có thời hạn từ một ngày (Over
night) đến một vài tháng để bù đắp thiếu hụt trong cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn tuy
nhiên đây là nguồn vốn thường có thời hạn ngắn và chi phí cao nên việc vay mượn có
tính tạm thời, về lâu dài các Ngân hàng thương mại tìm cách khai thác nguồn vốn tiền
gửi để trả khoản nợ này.
1.1.3.4 Huy động vốn bằng các hình thức khác khác
a) Phát hành các giấy tờ có giá
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 14Khóa luận tốt nghiệp Trang 14 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
Các Ngân hàng thương mại phát hành kỳ phiếu và trái phiếu với đặc điểm là có kỳ
hạn và khoản lãi được hưởng ghi trên bề mặt của nó. Hình thức huy động vốn này được
thực hiện với mục đích sử dụng vốn rõ ràng, số lượng và thời gian phát hành nhất định
khi cần thiết. Đặc điểm của khoản nợ này là có tính ổn định cao, quyền đòi tiền thường
xếp sau các khoản tiền gửi. Hiện nay ở Việt Nam có một số loại giấy tờ có giá có thể
được mua bán trên thị trường trong khi với các nước có thị trường tài chính phát triển,
hoạt động mua bán các công cụ nợ diễn ra khá phổ biến và sôi động.
b) Nhận vốn uỷ thác đầu tư
Đối với một số Ngân hàng thương mại, ngoài nguồn vốn huy động, vay tái cấp vốn
của Ngân hàng Nhà nước còn có thể nhận được nguồn vốn ủy thác đầu tư của Nhà nước
và các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế theo các chương trình, dự án có mục tiêu
cụ thể. Để được nhận nguồn vốn này, các Ngân hàng phải lập dự án cho từng đối tượng
hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay.
c) Sử dụng các nguồn vốn khác
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, các Ngân hàng thương mại có thể sử
dụng kết dư trên các tài khoản thanh toán vãng lai như chênh lệch thu hộ lớn hơn chi hộ
các Ngân hàng khác trong thanh toán liên Ngân hàng. Ngoài ra còn có thể có số dư trên
các tài khoản ký quĩ hoặc các khoản quản lý, giữ hộ nhưng số vốn này không nhiều và
Ngân hàng không chủ động trong việc tập trung nguồn vốn này.
Như vậy, các Ngân hàng thương mại tạo lập nguồn vốn chủ yếu bằng phương thức
huy động vốn để khai thác nguồn vốn nhàn rỗi, vốn trong thanh toán của khách hàng,
trường hợp mất cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn có thể vay vốn các tổ chức tín
dụng hoặc dưới hình thức chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước và có thể nhận vốn ủy
thác đầu tư cùng với số vốn của chủ sở hữu để có nguồn vốn với qui mô nhất định đủ tài
trợ cho danh mục tài sản. Phương thức huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội giữ vai trò
quan trọng nhất do nó cho phép khai thác, phát huy nội lực để phát triển kinh tế đồng
thời thường có chi phí thấp hơn so với các nguồn vốn khác.
1.2. HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Đặc điểm huy động vốn tiền gửi
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 15Khóa luận tốt nghiệp Trang 15 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất
trong hoạt động của các NHTM. Trong các hình thức huy động vốn của tổ chức tín
dụng, huy động vốn tiền gửi là phương thức huy động vốn cổ xưa nhất và cho đến hiện
nay nó vẫn là hình thức huy động vốn quan trọng nhất về mặt kinh tế và chiếm tỉ lệ lớn
nhất trong tổng nguồn vốn huy động ở mỗi tổ chức tín dụng. Việc huy động vốn bằng
nhận tiền gửi là một hình thức huy động vốn đặc trưng riêng có của các tổ chức tín dụng
và của các tổ chức khác được nhà nước cho phép hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, tùy
thuộc vào các loại hình hoạt động mà các tổ chức này được phép thực hiện các loại hình
huy động vốn bằng tiền gửi khác nhau. Nhìn chung, tiền gửi có những đặc điểm chung
như sau:
Phải thanh toán khi khách hàng yêu cầu, ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa
đến hạn. Vì vậy, ngân hàng thường khó dự tính được chính xác việc thay đổi quy mô và
kết cấu của nguồn tiền gửi. Nhu cầu rút tiền của khách hàng thường nhạy cảm và khó
xác định, ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản – nhu cầu thanh toán của khách
hàng bao gồm cả yêu cầu chi trả và vay hợp pháp đồng thời phải đảm bào tính thuận
tiện, nhanh chóng trong quá trình chi trả.
Quy mô của tiền gửi là rất lớn so với các nguồn khác. Mặc dù tiền gửi phải trả theo
yêu cầu nhưng nó tương đối ổn định và là nguồn vốn dồi dào trong dân cư. Trong khi đó
các khoản đi vay phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi cùng kỳ hạn. Các khoản vay
NHNN và ngân hàng khác thường có thời hạn ngắn chỉ nhằm đảm bảo khả năng thanh
toán tức thời và phụ thuộc nhiều vào tình trạng của nền kinh tế.
Dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Ngoài chi phí trả lãi, ngân hàng phải thực
hiện dự trữ bắt buộc và mua bảo hiểm tiền gửi theo quy định của NHNN. Ngân hàng duy
trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc và quan tâm tới khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới, huy động
mới, tính thanh khoản của tài sản nắm giữ để dảm bảo khả năng chi trả. Dự trữ bắt buộc
và bảo hiểm tiền gửi làm tăng giá thành của đồng vốn huy động, tùy theo loại kỳ hạn và
tăng thêm chi phí quản lý.
Kỳ hạn. Nguồn tiền gửi gắn liền với kỳ hạn danh nghĩa: tiền gửi không kỳ hạn, 1
tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng Kỳ hạn của nguồn phản ánh tính ổn định của nguồn
vốn, liên quan tới kỳ hạn sử dụng vốn, chi phí nguồn vốn. Tuy nhiên, ngân hàng thường
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 16Khóa luận tốt nghiệp Trang 16 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
cố gắng duy trì thời gian mà khoản tiền tồn tại liên tục tại một ngân hàng, đó là kỳ hạn
thực tế. Nguồn tiền có kỳ hạn dài hơn được tạo ra bởi sự tiếp nối liên tục của các khoản
tiền gửi trong ngân hàng. Những nguồn với kỳ hạn danh nghĩa ngắn hạn có thể tồn tại
đan xen trong nhiều năm trở thành nguồn có kỳ hạn thực tế trung và dài hạn.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn tiền gửi của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế mở cửa hội nhập hiện nay, để thu hút được nguồn tiền gửi lớn từ
trong dân chúng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM phải tìm cách đa dạng
hóa cung cấp sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tối đa mọi nhu cầu của khách hàng. Do vậy,
căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, huy động tiền gửi khách hàng có thể phân chia thành
nhiều hình thức khác nhau:
1.2.2.1. Theo mục đích huy động
Huy động tiền gửi thanh toán
Đây là hình thức huy động tài khoản tiền gửi thanh toán các tổ chức kinh tế, tổ chức
tín dụng, cá nhân. Đối với loại tài khoản tiền gửi này, mục đích chính của người gửi tiền
là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng.
Khách hàng có thể rút tiền nhiều lần bằng các phương tiện thanh toán. Khách hàng có
thể yêu cầu ngân hàng trích tiền trên tài khoản để chuyển trả cho người thụ hưởng, hay
chuyển số tiền được hưởng vào tài khoản này. Tiền gửi thanh toán có chi phí huy động
thấp, ngoài chi phí trả lãi rất nhỏ, ngân hàng còn thu chi phí phát sinh trong hoạt động
phục vụ thanh toán.
Để tăng nguồn tiền này, ngân hàng phải đa dạng hóa và phục vụ tốt các dịch vụ
trung gian, huy động nhiều khách hàng là các doanh nghiệp lớn sẽ làm cho mức dư tiền
gửi bình quân tại các ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàng có thể
sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
của ngân hàng.
Huy động tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm của tầng lớp dân cư. Đây là loại tiền
gửi để dành của các tầng lớp dân cư, được gửi vào ngân hàng để được hưởng lãi, hình
thức phổ biến của loại tiền gửi này là tiết kiệm có sổ. Theo đó, ngân hàng sẽ cấp cho
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 17Khóa luận tốt nghiệp Trang 17 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
người gửi tiền một sổ dùng để gửi tiền vào và rút tiền ra, đồng thời nó còn xác nhận số
tiền đã gửi.
Các hình thức gửi tiền tiết kiệm phổ biến ở nước ta hiện nay là:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đây là sản phẩm tiết kiệm mà khách hàng không
đăng ký kỳ hạn gửi ban đầu, dùng để thanh toán, giao dịch, được hưởng lãi suất
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là sản phẩm tiết kiệm mà khách hàng gửi theo
những kỳ hạn định trước. Nếu khách hàng có nhu cầu rút trước hạn cũng có thể
được đáp ứng nhưng phải chịu lãi suất thấp.
+ Tiền gửi tiết kiệm bậc thang: khách hàng gửi tiền một lần vào một sổ tiết kiệm
nhưng được rút gốc nhiều lần. Khi rút gốc (một phần hay toàn bộ) ngân hàng sẽ trả
tiền lãi tương ứng với số tiền gốc cho khách hàng theo lãi suất quy định.
+ Tiền gửi tiết kiệm tích lũy: khách hàng gửi tiền có thể gửi theo mức thỏa thuận
nhiều lần vào một sổ tiết kiệm theo kì hạn nhất định đã đăng kí với ngân hàng.
Ngoài ra còn môt số hình thức tiết kiệm khác như tiết kiệm phát lộc, tiết kiệm
đa năng,
Tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch. Loại tiền gửi này được hưởng lãi
cao và chủ tài khoản không được phát hành séc. Nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng
lớn và quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy động, nhất là đối với các ngân hàng
bán lẻ. Do đó, việc tăng cường huy động nguồn tiền này đóng vai trò vô cùng quan trọng
đối với sự phát triển của Ngân hàng thương mại.
1.2.2.2. Theo đối tượng huy động
Huy động tiền gửi từ các tầng lớp dân cư
Mỗi một gia đình và cá nhân trong xã hội đều có những khoản tiền tiết kiệm để dự
phòng cho những nhu cầu chi dùng cho tương lai. Khi xã hội càng phát triển thì khoản
dự phòng này càng lớn. Nhằm mục đích sinh lời, họ có thể sử dụng các hình thức đầu tư
như mua vàng, ngoại tệ mạnh, bất động sản… Các hình thức này mặc dù mang lại nguồn
lợi nhuận cao hơn nhưng lại tiềm ẩn rủi ro lớn. Do đó, xuất hiện bộ phận dân chúng chọn
hình thức gửi tiền kiệm vào ngân hàng vừa đảm bảo an toàn lại vừa thu được một khoản
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 18Khóa luận tốt nghiệp Trang 18 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
lợi tức nhất định. Tùy theo nhu cầu sử dụng tiền mặt mà khách hàng có thể lựa chọn các
hình thức gửi tiền khác nhau với các kì hạn khác nhau. Có 2 hình thức gửi tiền đặc trưng
là tiền gửi có kì hạn và tiền gửi thanh toán . Tiền gửi có kì hạn mang giá trị cốt lõi là
sinh lời, trong khi đó tiền gửi thanh toán lại mang mục đích phục vụ cho nhu cầu thanh
toán của khách hàng. Đặc tính của loại này là biến động hơn rất nhiều so với tiền gửi tiết
kiệm có kì hạn. Do đó, để thu hút nguồn vốn ổn định trong xã hội, các ngân hàng thường
quy định mức lãi suất đối với tiền gửi có kì hạn cao hơn so với tiền gửi thanh toán.
Đối với nguồn tiền huy đông từ các tầng lớp dân cư, do nhu cầu sử dụng khác nhau,
các Ngân hàng thương mại đã tìm mọi hình thức đa dạng hóa các sản phẩm cung cấp
như rút ngắn kì hạn gửi tiền nhằm huy động tối đa các khoản tiết kiệm này, từ đó tạo ra
một nguồn vốn không nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và thu được lợi
nhuận cho bản thân ngân hàng.
Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và các tổ chức khác
Đây là khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các cơ quan, đoàn thể… Với tư cách là
trung tâm thanh toán, các Ngân hàng thương mại thực hiện việc mở tài khoản tiền gửi
thanh toán cho các khách hàng. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp lớn nhỏ đều có tài
khoản tại một ngân hàng và thực hiện các giao dịch trên tài khoản của mình thông qua
ngân hàng đó. Do đó có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải trả, cho
nên hệ thống tài khoản thanh toán của ngân hàng luôn hình thành một số dư tiền gửi nhất
định. Nó đã trở thành nguồn vốn huy động có chi phí thấp, do các ngân hàng thường
không trả lãi hoặc quy định một tỷ lệ lãi suất rất thấp. Nếu biết khai thác sử dụng thì
nguồn vốn này sẽ mang lại hiệu quả rất lớn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại.
Ngoài mục đích thanh toán, các doanh nghiệp khi có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi,
chưa cần dùng đến, họ sẽ mang gửi theo một kì hạn nhất định với mức lãi suất cao hơn
so với tiền gửi thanh toán tại ngân hàng để lấy lãi. Khi có nhu cầu sử dụng, họ sẽ cử
người đại diện đến ngân hàng yêu cầu rút tiền.
1.2.2.3. Theo thời hạn huy động
Tiền gửi là đầu vào sống còn của ngân hàng. Đây là nguồn tài chính cơ bản tài trợ
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 19Khóa luận tốt nghiệp Trang 19 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
cho các khoản cho vay, đầu tư tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Để thu hút tối đa khoản
tiền này, các Ngân hàng thương mại đã đưa ra các hình thức huy động phong phú với các
dịch vụ đa dạng kèm theo.
Huy động từ tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kì hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút tiền nhiều lần bằng
các phương tiện thanh toán. Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng trích tiền trên tài
khoản để chuyển trả cho người thụ hưởng, hay chuyển số tiền được hưởng vào tài khoản
này. Đối với loại tài khoản tiền gửi này, mục đích chính của người gửi tiền là nhằm đảm
bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng, do vậy, nó còn
được gọi là tiền gửi thanh toán. Tiền gửi không kỳ hạn có chi phí huy động thấp, ngoài
chi phí trả lãi rất nhỏ, ngân hàng còn thu chi phí phát sinh trong hoạt động phục vụ thanh
toán.
Để tăng nguồn tiền này, ngân hàng phải đa dạng hóa và phục vụ tốt các dịch vụ
trung gian, huy động nhiều khách hàng là các doanh nghiệp lớn sẽ làm cho mức dư tiền
gửi bình quân tại các ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàng có thể
sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
của ngân hàng.
Huy động từ tiền gửi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời gian nhất định theo kỳ
hạn đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Mục đích của người gửi tiền là lấy lãi cho nên ngân
hàng có thể chủ động kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn vì chủ động được thời gian.
Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời gian gửi tiền và sự thỏa thuận giữa hai bên về
những điều kiện đảm bảo an toàn trong quan hệ tín dụng. Về cơ bản, các khoản tiền gửi
có kì hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn
trên tài khoản vãng lai nên không thể phát séc. Thông thường, tiền gửi có kì hạn là các
khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kì hạn là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần
lớn tồn khoản vào kinh doanh. Để mở rộng khoản tiền này, ngoài biện pháp lãi suất,
ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp nhằm tạo nên tính lỏng cho loại tiền gửi có
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 20Khóa luận tốt nghiệp Trang 20 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
kỳ hạn như cho phép khách hàng rút trước hạn hoặc quay số trúng thưởng…
1.2.2.4. Phân theo loại tiền
Để đa dạng hóa hoạt động huy động vốn, bám sát nhu cầu gửi tiền của khách hàng
(họ đang cất giữ loại tiền gì, nếu đang nắm giữ ngoại tệ có gửi tiết kiệm trong ngân hàng
hay không), ngân hàng đưa ra hình thức huy động phân theo loại tiền nội tệ hoặc ngoại
tệ.
Huy động bằng tiền gửi nội tệ
Nội tệ là loại tiền được sử dụng chủ yếu trong các hoạt động hàng ngày của người
dân. Họ tích trữ nội tệ, thanh toán, giao dịch qua ngân hàng cũng thường bằng nội tệ. Vì
vậy, nguồn tiền gửi huy động bằng nội tệ thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền gửi huy động và có lãi suất huy động cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động bằng
ngoại tệ.
Huy động bằng tiền gửi ngoại tệ
Xuất phát từ nhu cầu thanh toán quốc tế, yêu cầu đầu tư, cất trữ các ngoại tệ mạnh
của khách hàng nên để đa dạng hóa hoạt động huy động vốn, ngân hàng đưa ra hình thức
huy động tiền gửi bằng ngoại tệ. Ngoại tệ có thể chuyển đổi thành nội tệ theo một tỷ giá
nhất định do Ngân hàng nhà nước quy định hàng ngày. Tỷ giá này luôn biến động theo
cung cầu trên thị trường nên lãi suất huy động của khoản tiền này thường thấp hơn so
với lãi suất tiền gửi huy động bằng nội tệ.
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Quy mô vốn tiền gửi.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh nguồn vốn tiền gửi so với tổng nguồn vốn của
NHTM, so sánh xem lượng vốn tiền gửi huy động từ dân cư chiếm tỷ trọng bao nhiêu
phần trăm so với tổng vốn huy động của toàn ngân hàng.
Quy mô nguồn vốn tiền gửi huy động của ngân hàng lớn là một trong những chỉ
tiêu phản ánh hiệu quả huy động vốn tiền gửi của Ngân hàng. Điều đó cho thấy Ngân
hàng đã thành công khi thu hút được nhiều khách hàng biết tới Ngân hàng, tin tưởng và
gửi tiền vào Ngân hàng.
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 21Khóa luận tốt nghiệp Trang 21 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
Quy mô nguồn vốn tiền gửi lớn cho phép Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của
khách hàng, đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình để từ đó giảm rủi ro, giảm chi phí
phụ cho một đồng vốn huy động, tăng khả năng thanh toán, khả năng cạnh tranh. Những
lợi ích mà quy mô lớn mang lại cho Ngân hàng khả năng sinh lời cao cũng như tăng vị
thế Ngân hàng trên thương trường.
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 22Khóa luận tốt nghiệp Trang 22 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
1.2.3.2. Tốc độ tăng trưởng và tính ổn định của vốn tiền gửi
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh sự tăng trưởng nguồn vốn tiền gửi của ngân hàng.
Nếu tỷ lệ này lớn hơn 100% chứng tỏ quy mô,khối lượng vốn tiền gửi của ngân hàng
năm này được mở rộng hơn so với năm trước, tương ứng với kết quả là số phần trăm
vượt bậc của năm này so với năm trước.
Vốn tiền gửi phải có sự tăng trưởng về số lượng và thời gian. Vốn tiền gửi phải có
sự tăng trưởng về số lượng để có thể thỏa mãn các nhu cầu về khối lượng vốn tín dụng,
thanh toán, cũng như các hoạt động kinh doanh ngày càng gia tăng của Ngân hàng. Đồng
thời vốn tiền gửi phải có sự ổn định về thời gian. Nếu Ngân hàng huy động được một
khối lượng vốn lớn nhưng không ổn định thì thường xuyên có khả năng một dòng tiền
lớn bị rút ra. Ngân hàng luôn phải đối đầu với vấn đề thanh toán thì lượng vốn lớn cho
vay và đầu tư sẽ không lớn, như vậy hiệu quả huy động vốn sẽ là không cao, ngược lại
nếu nguồn vốn huy động ổn định Ngân hàng sẽ yên tâm sử dụng phần lớn vốn đó vào
hoạt động kinh doanh có thu nhập cao. Nguồn vốn tăng đều qua các năm đạt mục tiêu đề
ra và có sự gia tăng đều đặn là nguồn vốn tương đối ổn định.
1.2.3.3. Cơ cấu vốn tiền gửi
Ý nghĩa: Cơ cấu vốn tiền gửi là tỷ trọng mỗi loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn tiền
gửi. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ giữa các loại vốn tiền gửi trong tổng nguồn vốn tiền gửi.
Cơ cấu tiền gửi được xem là hợp lý nếu giá trị và kỳ hạn của các loại tiền gửi phù
hợp với giá trị và kỳ hạn các tài sản có mà các Ngân hàng thương mại đang nắm giữ.
Xu hướng biến động cơ cấu theo hướng tích cực: sự biến động về cơ cấu vốn sẽ
ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay, đầu tư và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro của
hoạt động kinh doanh. Xu hướng biến đổi cơ cấu vốn phải đáp ứng được nhu cầu sử
dụng trong tương lai về cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, cho vay nội tệ và ngoại tệ.
1.2.3.4. Chi phí huy động vốn tiền gửi
Chi phí huy động là khoản chi phí mà các Ngân hàng thương mại phải bỏ ra để có
thể huy động được nguồn vốn tiền gửi, nó bao gồm chi phí trả lãi và chi phí phi lãi.
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 23Khóa luận tốt nghiệp Trang 23 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
Chi phí trả lãi phản ánh số tiền mà ngân hàng phải bỏ ra cho một đồng vốn tiền gửi
huy động được, là số tiền mà Ngân hàng phải trả cho khách hàng dựa trên số tiền mà
Ngân hàng huy động được thông qua tài khoản tiền gửi của khách hàng. Lãi suất mà
Ngân hàng áp dụng sẽ căn cứ vào biểu mẫu lãi suất đối với từng kỳ hạn tiền gửi nhất
định. Mức lãi suất đối với các loại tiền gửi và các kỳ hạn tiền gửi khác nhau phụ thuộc
vào mức độ ổn định, nhu cầu thực tế của Ngân hàng và theo quy định về trần lãi suất của
Ngân hàng Nhà nước.
Chi phí phi lãi bao gồm các khoản chi phí khác liên quan đến hoạt động huy động
vốn tiền gửi của các Ngân hàng thương mại như chi phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí dưới
dạng dữ trữ bắt buộc theo quy định, chi phí quảng cáo, tiếp thị, chi phí quản lý, chi phí
nhân viên…
Việc xác định chi phí huy động vốn tiền gửi là mối quan tâm hàng đầu đối với các
nhà quản trị Ngân hàng. Người gửi tiền muốn có một lãi suất cao, người vay lại muốn có
một lãi suất thấp. Là trung gian đóng vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên Ngân hàng
phải tìm cách đa dạng hóa lợi ích của các bên trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo
lợi ích của Ngân hàng. Vì vậy trong công tác huy động vốn mỗi Ngân hàng đều cố gắng
áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí
huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay với một lãi suất có
thể chấp nhận được trên thị thị trường. Lãi suất huy động vốn bình quân được tính bằng
bình quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn, chênh lệch đầu
vào đầu ra. Sự đa dạng hóa trong lãi suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là
cần thiết để làm tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà Ngân hàng đưa ra. Nếu có
chính sách lãi suất phù hợp hiệu quả Ngân hàng sẽ tối thiểu hóa được chi phí trong khi
vẫn hoàn thành kế hoạch về nguồn vốn.
1.2.3.5. Sự phù hợp giữa nguồn tiền gửi và cho vay
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết nguồn vốn tiền gửi huy động có đủ để đáp ứng nhu
cầu sử dụng vốn của ngân hàng hay không, phản ánh sự cân đối giữa nguồn vốn tiền gửi
huy động được với hoạt động tín dụng, đầu tư.
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 24Khóa luận tốt nghiệp Trang 24 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
+ Nếu hệ số này > 1 phản ánh nguồn vốn tiền gửi thừa đủ để đáp ứng cho nhu cầu sử
dụng vốn của ngân hàng.
+ Nếu hệ số này < 1 phản ánh nguồn vốn tiền gửi không đủ để đáp ứng cho nhu cầu
sử dụng vốn của ngân hàng.
+ Nếu hệ số này = 1 phản ánh nguồn vốn tiền gửi vừa đủ để đáp ứng cho nhu cầu sử
dụng vốn của ngân hàng.
Hiệu quả hoạt động huy động vốn tiền gửi của Ngân hàng thương mại được đánh
giá thông qua sự phù hợp giữa nguồn vốn huy động được với hiệu quả cho vay. Vì hoạt
động chính của Ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng nên nguồn vốn huy động
được phải thực sự phát huy được khả năng sinh lời khi cung ứng nguồn vốn cho nền
kinh tế, góp phần phát triển kinh tế và đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng.
Nếu nguồn vốn huy động được mà không đáp ứng đủ nhu cầu vay của nền kinh tế,
ngân hàng sẽ dần đánh mất uy tín trên thị trường, đánh mất khách hàng vào tay đối thủ
cạnh tranh. Mặt khác, nguồn vốn huy động được mà không sử dụng hết, nguồn vốn
không sinh lời hiệu quả, Ngân hàng sẽ gặp những rủi ro khi các chi phí trả lãi và chi phí
phi lãi là rất lớn khó có thể bù đắp được.
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1
Trang 25Khóa luận tốt nghiệp Trang 25 GVHD: TS. Nguyễn Thu Thủy
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Bản thân ngân hàng không thể tự mình hoạt động tốt được mà nó còn chịu cả sự chi
phối từ bên ngoài. Vì vậy hoạt động huy động tiền gửi không chỉ chịu tác động của các
yếu tố bên trong ngân hàng còn chịu tác động của nền kinh tế hay xã hội. Đó có thể là
những nhân tố chủ quan hay nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động huy động tiền
gửi của ngân hàng.
1.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan
Đây là nhóm nhân tố do bản thân ngân hàng tác động tới. Nhân tố này luôn đóng
vai trò quyết định trong việc tăng cường huy động tiền gửi.
1.3.1.1. Uy tín của ngân hàng
Trong kinh doanh thì uy tín là một yếu tố vô cùng quan trọng. Nó quyết định thành
công cho doanh nghiệp. Uy tín không phải là thứ một sớm một chiều có ngay mà nó
được kết tinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đối với Ngân hàng, uy tín có
được là do sự nỗ lực, phấn đấu của tập thể cán bộ ngân hàng trong một thời gian dài. Uy
tín của ngân hàng trong hoạt động huy động tiền gửi thể hiện bởi khả năng sẵn sàng
thanh toán khi khách hàng có nhu cầu rút tiền trước hạn và chất lượng hoạt động. Ngân
hàng nào có uy tín thì khách hàng sẽ tìm đến ngân hàng gửi tiền nhiều hơn những ngân
hàng khác mặc dù có thể lãi suất huy động ở ngân hàng đó cao hơn. Khách hàng luôn có
xu hướng trung thành với ngân hàng họ đã lựa chọn. Bởi họ tin rằng, khi gửi tiền vào
những ngân hàng này, đồng vốn của mình sẽ được an toàn tuyệt đối. Điều này làm cho
những ngân hàng có uy tín luôn huy động được nguồn tiền gửi nhiều hơn, chi phí rẻ hơn,
và tiết kiệm thời gian hơn do mất ít thời gian marketing ngân hàng.
1.3.1.2. Chính sách khách hàng
Nhu cầu của công chúng có vai trò quyết định đối với loại hình tiền gửi nào sẽ được
ngân hàng cung cấp. Ngân hàng nào không tuân thủ theo sở thích của khách hàng sẽ phải
trả giá cao hơn ngân hàng khác để huy động tiền gửi. Vì vậy, việc đưa ra chính sách
khách hàng của mỗi ngân hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động huy động tiền
gửi của ngân hàng. Thông thường, Ngân hàng phân chia khách hàng thành nhiều nhóm,
mỗi nhóm có những cách phục vụ riêng như đối với khách hàng lâu năm thì đưa ra các
Sinh viên: Cao Thị Hoài ThuLớp: K46H1Sinh viên: Cao Thị Hoài Thu Lớp: K46H1