Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

ĐỂ HỌC TỐT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.08 KB, 17 trang )


Công thức làm văn nghị luận
Trong thể làm văn nghị luận thì 2 môn Chứng Minh và Giải Thích là nền tảng cho các loại còn lại.
Binh luận hay Phân tích thực chất cũng là sự kết hợp pha trộn giữa Chứng Minh và Giải Thích. Khi Phân
tích thì phần giải thích nặng hơn chứng minh, khi Bình luận thì phần chứng minh nặng hơn giải thích. Do
đó, nắm rõ phương pháp Chứng Minh và Giải Thích sẽ giúp cho việc làm văn trở nên dễ dàng hơn.
Ngày trước, có một thầy mà tôi rất nể trọng đã dạy cho chúng tôi bí quyết làm văn dựa vào các công
thức có sẵn. nay xin trình bày sơ lược lại kinh nghiệm đó cho các bạn còn đang đi học tham khảo thêm,
chắc chắn với các công thức này bạn không phải lo lắng đến việc không tìm ra ý tưởng viết văn nữa, mà
bạn chỉ còn phải lo chọn lọc, sắp xếp các ý tưởng của mình tìm được
Cơ bản của phương pháp này là các công thức dễ nhớ, dựa vào các công thức này mà người viết có
thể tìm ý, xây dựng khung ý tưởng dồi dào cho bài viết.
* Làm văn ai cũng biết có 3 phần Mở bài - Thân bài - Kết Luận
1. Mở bài: là chìa khóa cho toàn bộ bài văn, phần mở bài gồm có 3 phần:
Gợi - Đưa - Báo : tức là Gợi ý ra vấn đề cần làm - sau khi gợi thì ĐƯA vấn đề ra - cuối cùng là BÁO - tức
là phải thể hiện cho biết mình sẽ làm gì.
Khó nhất là phần gợi ý dẫn dắt vấn đề, có 3 cặp /6 lối để giải quyết như sau:
Tương đồng / tương phản : đưa ra một vấn đề tương tự/hoặc trái ngược để liên tưởng đến vấn đề cần giải
quyết, sau đó mới tạo móc nối để ĐƯA vấn đề ra, cách này thường dùng khi cần CM-GT-BL về câu nói,
tục ngữ, suy nghĩ.
Xuất xứ / đại ý: dựa vào thông tin xuất xứ/ đại ý để dưa vấn đề ra, cách này thường dùng cho tác phẩm/tác
giả nổi tiếng
Diễn dịch/ quy nạp: cách này thì cũng khá rõ về ý nghĩa rồi.
2. Thân bài
Thân bài thực chất là một tập hợp các đoạn văn nhỏ nhằm giải quyết một vấn đề chung. Để tìm ý cho phần
thân bài thì có thể dùng các công thức sau đâyđể đặt câu hỏi nhằm tìm ý càng nhiều và dồi dào càng tốt,
sau đó có thể sử dụng toàn bộ hoặc một phần ý tưởng để hình thành khung ý cho bài văn:
Đối với Giải thích: Gì - Nào - Sao - Do - Nguyên - Hậu
Đối với Chứng Minh: Mặt - Không - Giai - Thời - Lứa
2.1 Đối với Giải thích: Gì - Nào - Sao - Do - Nguyên - Hậu
Gì: Cái gì, là gì


Nào: thế nào
Sao: tại sao
Do: do đâu
1
Nguyên: nguyên nhân
Hậu: hậu quả
hãy tưởng tượng vấn đề của mình vào khung câu hỏi trên , tìm cách giải đáp câu hỏi trên với vấn đề cần
giải quyết thì bạn sẽ có một lô một lốc các ý tưởng
2.2 Đối với Chứng Minh: Mặt - Không - Giai - Thời - Lứa
- Mặt: các mặt của vấn đề
- Không: không gian xảy ra vấn đề (thành thị, nông thôn, việt nam hay nước ngoài )
- Giai: giai đoạn (vd giai đoạn trước 1945, sau 1945 )
- Thời: thời gian - nghĩa hẹp hơn so với giai đoạn (có thể là, mùa thu mùa đông, ùua mưa mùa nắng, buổi
sáng buổi chiều )
- Lứa: lứa tuổi (thiếu niên hay người già, thanh niên hay thiếu nữ )
2.3 Hình thành đoạn văn từ khung ý tưởng:
Sau khi dựa vào công thức bạn hình thành được khung ý tưởng, điều tiếp theo là từ từng ý tưởng đó ta
triển khai ra các đoạn văn hoàn chỉnh. Cách triển khai đoạn văn dùng công thức: Nào - Sao - Cảm
Nào: thế nào
Sao: tại sao
Cảm: cảm xúc, cảm giác, cảm tưởng của bản thân
Cứ như vậy bạn sẽ có nhiều đoạn văn, các đoạn văn này hợp lại là thân bài
3. Kết bài
Có công thức Tóm - Rút - Phấn để thực hiện phần này
Tóm: tóm tắt vấn đề
Rút: rút ra kết luận gì
Phấn: hướng phấn đấu, suy nghĩ riêng của bản thân
2
I/ MỘT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN HAY TRƯỚC
HẾT PHẢI LÀ 1 BÀI VĂN ĐÚNG.

1. Cần tìm hiểu phẩn tích để nhận diện chính xác yêu cầu của đề bài. Đó là điều kiện trước tiên và
cũng là điều kiện quan trọng nhất. Vì chỉ khi đã biết phải viết cái gì, viết cho ai, viết để làm gì thì
người viết mới xác định được mình phải viết như thế nào, phải làm sáng tỏ vấn đề gì trong phạm vi
kiến thức nào, phải sử dụng thao thác lập luận nào là chính và phải diễn đạt, hành văn thế nào cho
phù hợp với mục đích, tính chất của bài làm
Dĩ nhiên không phải cứ nhận thức đúng đề bài là bài văn sẽ đúng. Nhưng khi đã nhận thức đề bài
không đúng thì bài văn chắc chắn sẽ đi chệch mục tiêu.
=> Xác định đúng yêu cầu của đề bài.
2. Để làm nên 1 bài văn đúng thì việc phân tích chính xác đề bài dù là điều kiện cần nhưng chưa là
điều kiện đủ. Phân tích đúng đề chỉ đem đến cho bài làm 1 định hướng, 1 chuẩn đích. Còn có đi theo
được định hướng đó hay không còn phụ thuộc vào thực lực của người viết bài.
Thực lực thể hiện ở hệ thống luận điểm, luận cứ được nêu trong bài. Muốn bài văn đúng thì các luận
điểm, luận cứ không được phép sai. Nếu vậy thì quan điểm ý kiến của người viết phải phù hợp với
chủ đề được đưa ra bàn luận; phải có căn cứ từ lẽ phải (sự thật hiển nhiên) đồng thời phải tổ chức
một cách rõ ràng, chặt chẽ sao cho những lời nói hợp với lẽ phải và sự thật đó tìm được lối đi vào trí
tuệ và tâm hồn người đọc, để lay chuyển nhận thức của họ, thuyết phục họ nghe theo đường hướng
và cách thức mà người viết đã vận dụng để giải quyết vấn đề. [ ]
=> Xây dựng hệ thống luận điểm, luận cứ chính xác.
3. [ ] Sự phối hợp các luận điểm, luận cứ để bài văn đạt mục đích nghị luận mà đề bài đã quy định
và người viết đã đặt ra gọi là luận chứng hay lập luận. Trong 1 bài văn công việc lập luận cần được
tiến hành theo những bài bản, quy trình kỹ thuật đã được các khoa học có quan hệ với môn làm văn
đúc kết. Khái niệm thao tác lập luận sinh ra trên cơ sở đó.
Muốn bài văn đúng thì việc lựa chọn và vận dụng các thao tác lập luận không được sai lầm. Việc
phân tích đề có thể giúp người viết tránh được sự lầm lẫn trong khâu lựa chọn. Chẳng hạn không thể
dũng thao tác lập luận chứng minh hoặc dùng chứng minh làm thao tác chính khi đã nhận ra nhiệm
vụ của mình là làm cho người đọc hiểu 1 vấn đề. Cũng không thể coi thao tác lập luận chính của bài
làm là giải thích, chứng minh, so sánh, bác bỏ khi kết quả phân tích đề đã chỉ rõ: phải có trách nhiệm
thuyết phục người đọc nghe theo ý kiến đánh giá và bàn bạc của mình về 1 hiện tượng 1 vấn đề
trong đời sống, trong văn học.
Trong việc làm văn hiểu được mình phải vận dụng những thao tác lập luận nào vẫn là chưa đủ.

Người tập làm văn còn phải khổ công rèn luyện để có thể thực hiện 1 cách thành thao từng thao tác,
cũng như kết hợp được những thao tác đó với nhau. Có như thế mới mong đáp ứng được mục đích
riêng của mỗi bài làm cụ thể. Và khi đó bài văn mới có hy vọng được coi là đúng đắn.
=> Lựa chọn đúng các thao tác lập luận.
4. Những điểm trên chỉ giúp giải quyết được phần ý của bài làm. Nếu chỉ có ý người ta chưa thể
hoàn thành 1 bài văn. [ ] Bài văn sẽ không được coi là đúng nếu lời văn sai về ngữ pháp hoặc nội
dung.
Diễn đạt ý thành lời là cả một quá trình cực khổ. Thật không dễ gì để nói ra cho hết ý, và để những
câu chữ không phản lại cái điều mình đang muốn nói ra. Với người đang tập làm văn, cách thức duy
nhất để làm cho lời văn đạt yêu cầu là phải không tiếc công luyện tập, để viết được những câu văn
không mắc lỗi dùng từ, đặt câu, chấm câu và làm rõ được những gì mình cần biểu lộ. Mặt khác phải
làm bài sạch sẽ ngay ngắn, dễ đọc, không mắc lỗi chính tả, để qua đó giành được mối thiện cảm của
những người đọc.
=> Không mắc lỗi dùng từ, lỗi diễn đạt.
3

II- MỘT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN HAY CÒN PHẢI THỂ HIỆN ĐƯỢC SỰ SÁNG TẠO RIÊNG ĐẶC SẮC.
1. Sự sáng tạo chỉ sinh ra khi con người đã nắm chắc những kiến thức cơ bản về công việc của mình. Kiến
thức cơ bản đầu tiên và quan trọng nhất trong môn làm văn là: hoạt động tập làm văn vốn có nguồn gốc từ
đời sống. Bởi thế học sinh không được đối lập nó với cuộc đời nếu không bài văn sẽ như chùm hoa giả,
"chữ, chữ, toàn là chữ": toàn những ký tự vô hồn.
Những bài văn, câu văn nghị luận hay đều được viết bởi những con người coi văn chương chính là máu
thịt của cuộc đời.
Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta
thoát lên tiên cũng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồn
rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.
Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta"
Những câu văn tuyệt vời và con là tiếng nói xuất phát từ đáy lòng của một cái tôi cá nhân đắm chìm trong
nỗi mơ màng, buồn khổ, đang cất lên lời tâm sự với những người đồng bệnh và với mình.

Để có bài văn nghị luận hay, có thể khiến người đọc tìm được niềm hứng thú về tư tưởng, thẩm mĩ, người
viết phải sống nghiêm túc, biết hoà trí tuệ và cảm xúc thật vào từng dòng chữ.
=> Gắn việc làm văn với đời sống hiện thực.
2. Kẻ thù của sáng tạo là nhàm chán, khuôn sáo, thói quen đi trên lối mòn. Theo Vũ Trọng Phụng thì
người đọc sẽ thấy "khổ lắm" nếu người viết cứ "nói mãi" những điều ai nấy đã "biết rồi". Một bài văn nghị
luận hay cần hấp dẫn người đọc bằng ít nhất là một đôi điều mới mẻ.
a) Người viết phải dám xem xét lại những cách nhìn, cách hiểu theo các chuẩn tắc thông thưởng. Phải có
đủ can đảm để đặt những hiện tượng quen thuộc dưới một góc nhìn mới. Như cách nghĩ từ khá lâu chị
Dậu là nhân vật thuộc về một thế giới tắt đèn, số phận của người nông dân ấy tối đen y như câu kết của
thiên tiểu thuyết: "Trời tối như mực và như cái tiền đồ của chị".
Nhưng Nguyễn Tuân lại rọi vào hình tượng đó một cái nhìn khác. Nhà văn nhìn thấy người đàn bà kia
chẳng khác nào cây lúa đồng quê đang khát thèm ánh sáng.
"Bản chất của nhân vật chị Dậu rất khoẻ, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra. Một nhân vật khoẻ và
mạnh như chị Dậu, có thể ngừng cuộc đời mình ở đấy KHông/ Hay là nó phải tuông ra khỏi cái tối như
mực? Vì cái tiền đồ tối như mực ấy mà không tuông ra khỏi thì sao có thể sống được? Tôi ngờ rằng câu
kết này cũng mới chỉ là cái chấm hết của thiên truyên dài. Với một cái tiền thân ngay thẳng lành mạnh
như vậy, tôi nghĩ rằng chị Dậu thế tăt phải có một hậu thân trong các đoàn thể cách mạng; và tôi nhớ
như có lần nào, tôi đã gặp chị Dậi ở một đám đông phá kho thóc Nhật, ở một cuộc cướp chính quyền
huyện kì Tổng khởi nghĩa [ ]. Đúng thế đất, Tắt đèn chỉ là một đoản thiên"
Đây là ý kiến mới mẻ, táo bạo, gây đảo lộn cách nghĩ quen thuộc của một lớp người nào đó, ở một thời
nào đó. Chính vì thế, nó đưa lại cho người đọc những hứng thú bất ngờ. Rồi mỗi người nhân thấy cảm nhận văn
học của mình nhờ thế mà trở nên sâu sắc, giàu có thêm. Những câu văn hay thường chứa những hiểu biết, vẻ đẹp
mà trước đó có thể chúng ta chưa biết tới.
=> Nhìn nhận vấn đề ở những quan điểm mới, cách nhìn mới.
b) Nói thế không phải khuyến khích thái độ vội vàng, hấp tấp đưa ra những ý kiến tự cho là mới mẻ mà
chưa kịp thông qua sự kiểm tra, suy xét. Không thể chấp nhận thứ quy tắc cứng nhắc nào như cái quy tắc
xô bồ, "vơ đũa cả nắm" mà các sĩ tử thời xưa dùng để xét đoán những quan điểm trước đó:
"Đường, Ngu Tam đại thì khen
Hán, Đường trở xuống thì lèn cho đau
rồi cứ từ đấy mà suy: "Hán Văn đế và Đường Thái Tôn đều là hậu nhân, tất nhiên phải lèn cho đau. Nếu

không tức là trái mẹo"
Học sinh muốn tìm ra ý mới cần khổ công "động não, mở rộng liên tưởng, suy nghĩ về điều cần nghị luận
trên nhiều góc độ, phương hướng; phải mổ xẻ kiểm nghiệm sự vật mà các ý kiến bàn luận có vẻ đã ổn định rồi".
4
Nếu chịu tìm hiểu kĩ lưỡng tỉ mỉ, ta vẫn có khả năng bắt cả những con số khô khan phải nói lên những
điều sinh động, lí thú:
"Ban-dắc" sinh năm 1799 tại Tua-ra-in, một tỉnh giàu có, quê hương vui tươi của Ra-bơ-le (nhà văn lớn
của nước Pháp). Niên đại đó đáng ghi nhớ. Đó là năm mà Napoleon [ ] từ Ai cập trở về, nữa là người
chiến thắng, nửa là người bỏ trốn. [ ]
Năm 1799, năm sinh của Ban-dắc là năm khởi đầu của Đế Chế. Thế kỉ mới không còn biết tới "viên tướng
bé nhỏ", người phiêu lưu của đảo Coóc-xơ nữa. Từ nay, nó chỉ biết có Napoleon, đức hoàng đế của người
Pháp. Trong mười năm, cả trong mười lăm năm nữa - đó là những năm tuổi của Ban-dắc - những giấc
mơ tham lam của ông, tựa như con đại bàng cất cánh, đã giăng ra khắp thế giới, từ phương Đông đến tân
phương Tây. Với một người góp phần mạnh mẽ vào tất cả những gì xảy ra xung quanh anh ta, với một
Ban-dắc, anh không thể thờ ơ với việc là mười sáu năm đầu tiên tỉnh giấc vào đời trùng khớp chính xác
với mười sáu năm của Đế chế - thời kỳ có lẽ là hư ảo nhất trong lịch sử thế giới. [ ]
Đó là những sự kiện huyền diệu, qua các giác quan tham lam rộng mở ra thế giới chung quanh cuả cậu,
thâm nhập vào đời sống cá nhân câu, gieo hàng ngàn hồi ức cụ thể và lốm đốm màu sắc vào vũ trụ còn
trinh nguyên của tâm hồn cậu".
Những dòng văn làm sống dậy những năm tháng ấu thơ của một nhà văn kiêt xuất, làm nên từ rất nhiều
công phu tra cứu, tưởng tượng, dẫn tác giả tới một ý tưởng thật đặc sắc, lý thú:
"Như Napoleon, Ban-dắc biến nước Pháp thành xứ sở bậc thầy của thế giới, với Pa-ri làm trung tâm [ ].
Như Napoleon, ông bắt đầu chiếm lĩnh Pa-ri. Đoạn, ông chiếm lấy các tỉnh, tỉnh này sang tỉnh khác".
=> Chịu khó tìm tòi nâng cao vốn kiến thức hiểu biết.
3. Nhưng những ý kiến, quan điểm dù lí thú, đặc sắc thì cũng chỉ làm nên một nửa thành công. Nửa còn lại
là lời. Bài văn hay, lời văn cũng phải hay, không thể chỉ ở mức đúng.
Lời văn hay không từ những ý cạn hẹp, tầm thường. Giữa ý và lời là giữa điều được nói và cách nói. Có ý
hay mới có lời hay. Song không phải có ý hay thì lời hay cũng đến. Để có lời hay thì ý phải được nghiền
ngẫm, "chưng cất", nung nấu. Công việc diễn đạt ý thành lời đòi hỏi ngời viết chịu khó rèn luyện trang bị
một vốn liếng dồi dào về ngôn từ, cách đặt câu.

Cần biết chăm chỉ nhặt nhạnh, tích luỹ những chữ, câu văn, cách nói hay. Bởi người làm văn đâu dễ tìm ra
lối viết chặt chẽ hùng hồn, trang trọng.
"Tất cả mọi ngời sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai chối cãi được [ ].
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trừơng học. Chúng thẳng tay chém giết những ngời yêu nước thơng nòi
của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. [ ]
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa [ ].
Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. [ ]
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội
nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim
Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe
Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập [ ]
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập".
Có thể thấy rằng viết ra những lời nghị luận hay là một vấn đề nghệ thuật đồng thời cũng là vấn đề kỹ
thuật. Đòi hỏi người viết phải có kiến thức sâu rộng, phương pháp suy nghĩ đúng đắn, chặt chẽ, nhất là
một tâm hồn đẹp. Bởi "văn tức là người". Nhưng đồng thời người viết phải có vốn ngôn từ phong phú,
tinh xảo, đủ khả năng làm chủ ngôn từ.
Muốn viết hay, trước hết là tu dưỡng, rèn luyện con người. Phải chịu đọc, học, phân tích, tìm hiểu những
bài văn, câu văn mẫu mực của văn chương nghị luận.
Học là để thực hành. Đọc, tìm hiểu, sưu tầm, tích luỹ nhiều áng văn hay nhưng nếu cứ để cho ý đẹp đông
cứng trong sổ tay hoặc dại dột đưa nguyên những lời mình chép được vào bài làm để bài văn thành "của
giả", "áo nâu vá mụn gấm", hay "râu ông nọ cắm cằm bà kia".
Nhớ rằng sáng tạo vẫn là yêu cầu tất yếu của vận dụng thực hành. Làm văn nghị luận hình thức ngôn từ không tách
5
rời nội dung, ý nghĩa. Lời văn là hay khi nó hoà hợp với ý văn, bộc lộ hết chiều sâu, vẻ đẹp vốn có của ý văn.
=> Có vốn hiểu biết về ngôn từ sâu sắc. Biết cách diễn đạt ý đẹp thành lời hay.
Chứng minh câu ca dao:"1 cây làm chẳng nên non "
Đề bài:Chứng minh câu ca dao sau:
"Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao."

BÀI LÀM
MB:
Chúng ta đều biết rằng một cọng rơm không thể cháy hết mình nhưng một bó rơm thì lại có thể bởi
những ngọn lửa sẽ được chúng truyền cho nhau cứ thế đến hết. Cũng như con người không thể tự
mình làm mọi việc mà luôn phải đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau thì mới có thể hoàn thành được việc
lớn. Để lưu truyền đến muôn ngàn sau bài học về tinh thàn cao đẹp ấy ông cha ta đúc kết lại qua câu
ca dao:
"Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao."
TB GIẢI THÍCH SƠ LƯỢC VỀ CÂU CA DAO)
Quả thật vậy, "một cây " thì không thể làm nên núi non nhưng "ba cây"-tượng trưng cho nhiều cây
thì lại có thể không chỉ là núi thấp mà còn là núi cao. Từ "một cây" đến "ba cây" số lượng đã thay đổi
nên chất lượng cũng thay đổi "ba cây chụm lại". Chính sự thay đổi ấy đã mượn chuyện về cây cối để
nhắ nhở chúng ta phải biết đồng sức, đồng lòng, noi theo tinh thần đoàn kết quý báu của dân tộc đã
trải qua hàng nghìn năm lịch sử.
(CHỨNG MINH THEO ỪNG THỜI KÌ-THEO THỜI GIAN)
Tinh thần đoàn kết từ lâu đã thấm nhuần tư tưởng của người dân VIỆT NAM bởi vậy dân tộc LÔ LÔ từ
lâu đã hình thành nên truyền thuyết kể về đoàn người đi san mặt đất"Nhiều sứ chung một lòng-
Nhiều lòng chung một ý"."San mặt đất"-một công việc tưởng chừng như không thể thực hiện ấy đã
được những người dân tộc LÔ LÔ thực hiện. Đó không chỉ đơn thuần là một truyền thuyết mà nó còn
mang tinh thần giáo dục về sự đoàn kết rất lớn. Đó cũng chính là cơ sở để người dân VIỆT NAM đứng
lên đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Từ các đời vua Hùng Vương nhân dân ta đã biết đứng dậy cùng nhau đấu tranh chống giặc ngoại
xâm. Sau này khi đến đời vua Trần với tiếng hô "Quyết chiến!" vang như sấm dậy của các bô lão
trong hội nghị Diên Hồng hay những chữ "sát Thát"-giết giặc mông Cổ được đồng loạt thích lên tay
các tướng sĩ chính là những minh chứng cho sực quyết tâm đoàn kết chống giặc của nhân dân ta. Đó
cũng chính là động lực giúp nhân dân ta vượt qua mọi rào cản ngoại xâm và ngày càng khẳng định
rõ hơn vị thế của sự chung sức, chung lòng.
Nhưng chưa dừng lại ở đó, sự đồng tâm nhất trí của dân tộc ta còn được thể hiện vô cùng rõ nét qua
giai đoạn lịch sử chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nhân dân ta đã thực sự trải qua rất nhiều khó

khăn gian khổ nhưng đó cũng chính là sợi dây vô hình nối mọi người, mọi tầng lớp lại với nhau cùng
nghe theo lời dạy của Bác:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại tành công"
Lời dạy ấy luôn luôn đi sâu vào tư tưởng mỗi người bởi nó mang một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Câu
nói, lời dạy ấy đã góp phần to lớn giải thoát, đem lại sự tự do cho cả một dân tôcj với những trận
Đống Đa, Gò Vấp, Điện Biên Phủ, Vậy liệu nó có xứng đáng được ghi nhớ và học tập theo?
Tất nhiên là có. Chính vì thế mà lớp trẻ ngày nay đã không ngừng phát triển ngoại giao với các nước
với tiêu trí "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai". Cùng với đó là bao nhà máy thủy điện nhiệt điện
được xây dựng dựa trên bàn tay của biết bao người lao động cùng các kĩ sư cả trong nước và nước
ngoài. VIỆT NAM đang dần đi lên trên con đường hội nhập, phát triển một phần không hề nhỏ bé
chính là ý thức đoàn kết cua mỗi chúng ta.
KB:
Vậy là qua câu ca dao:
"Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn nuí cao."
Chúng ta không chỉ có đuọc một bài học bổ ích về tình đoàn kết mà từ đó chúng ta còn thấy được
sức mạnh vô địch và sự ấm no hạnh phúc mà nó mang lại. Đó chính là ngọn lửa thàn kì thắp sáng
con đường chúng ta đang hướng tới.
6
Chứng minh người V.N luôn sống theo đạo li " Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây " và " Uống nước nhớ nguồn "
Mb: Dẫn dắt vào đề, trích dẫn nguyên văn vấn đề
TB:_Giải thích khái niệm hai câu tục ngữ
_Liên tưởng vào thực tế, đời sống con người
_Nêu mối quan hệ ( tại sao phải thực hiện hoặc chứng minh bằng phản chứng )
_Dẫn chứng
+Các đời trước đã hi sinh để ngày sau độc lập => chúng ta phải bít trân trọng, biết ơn, noi gương
theo đúng câu tục ngữ
+Ngày xưa có các tấm gương như thì ngày nay chúng ta cũng có những tấm gương tiêu biểu như

+Họ luôn nhớ ơn các anh hùng đời trước
+Tự suy nghĩ thêm các dẫn chứng khác
KB _Tóm lại
_Liên hệ bản thân
BÀI VIẾT
Trong cuộc sống, đạo đức là một yếu tố rất quan trọng, nó thể hiện sự văn minh, lịch sự, nếp
sống, tính cách, và phần nào có thể đánh giá được phẩm chất, giá trị bản thân con người. Và có rất
nhiều mặt để đánh giá đạo đức, phẩm chất của con người. Một trong số đó là sự biết ơn, nhớ ghi
công lao mà người khác đã giúp đỡ mình. Đó cũng là một chân lí thiết thức trong đời thường. Chính
vì vậy ông cha ta có câu : “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Câu tục ngữ trên đều mang một triết lí nhân văn sâu sa. Đó là cần phải biết ơn những người đã
mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho chúng ta.
Câu tục ngữ này mượn hình ảnh “ăn quả” và “trồng cây” ý muốn nói, khi được hưởng thụ những trái
ngọt, trái thơm, cần nhớ tới công sức, mồ hôi nước mắt của người đã làm ra nó. Điều đó được ẩn dụ
nhằm khuyên răn thái độ của mỗi con người xử sự sao cho đúng, cho phải đối với những người đã
giúp đỡ mình để không phải hổ thẹn với lương tâm. Hành động đó đã thể hiện một tư tưởng cao đẹp,
một lối ứng xử đúng đắn. Lòng biết ơn đối với người khác đó chính là một truyền thống tốt đẹp của
ông cha ta từ xưa tới nay. Đó cũng chính là biết sống ân nghĩa mặn mà, thuỷ chung sâu sắc giữa con
người với con người. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng thụ hiện tại không phải tự dưng mà có.
Đó chính là công sức của biết bao lớp người. Từ những bát cơm dẻo tinh trên tay cũng do bàn tay
người nông dân làm ra, một hạt lúa vàng chín giọt mồ hôi mà. Rồi đến tấm áo ta mặc, chiếc giày ta
đi cũng đều bởi những bàn tay khéo léo của người thợ cùng với sự miệt mài, cần cù trong đó. Những
di sản văn hoá nghệ thuật, những thành tựu độc đáo sáng tạo để lại cho con cháu. Còn nhiều, rất
nhiều những công trình vĩ đại nữa mà thế hệ trước đã làm nên nhằm mục đích phục vụ thế hệ sau.
Tất cả, tất cả cũng đều là những công sức lớn lao, sự tâm huyết của mỗi người dồn lại đã tạo nên
một thành quả thật đáng khâm phục để ngày nay chúng ta cần biết ơn, phục hồi, tu dưỡng, phát
triển những di sản đó. Những lòng biết ơn, kính trọng không phải chỉ là lời nói mà còn cần hành động
để có thể thể hiện được hết ân nghĩa của ta. Đó chính là bài học thiết thực về đạo lí mà mỗi con
người cần phải có. Lòng nhớ ơn luôn mang một tình cảm cao đẹp, thấm nhuần tư tưởng nhân văn.
Nó giáo dục chúng ta cần biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những anh hùng vĩ đại đã hi sinh, lấy thân

mình, mồ hôi xương máu để bảo vệ nền độc lập cho đất nước, giữ vững bình yên vùng trời Tổ quốc
cho chúng ta có những năm tháng sống vui sống khoẻ và có ích cho xã hội, phần để thực hiện đúng
trách nhiệm, bổn phận của chúng ta, phần vì không hổ thẹn với những người ngã xuống giành lấy sự
độc lập. Có ai hiểu được rằng, một sự biết ơn được thể hiện như một đoá hoa mai ửng hé trong nắng
vàng, một lòng kính trọng bộc lộ như một ánh sao đêm sáng rọi trên trời cao. Đó là những cử chỉ cao
đẹp, những hành động dù chỉ là nhỏ nhất cũng đều mang một tấm lòng cao thượng. Những người có
nhân nghĩa là những người biết ơn đồng thời cũng biết giúp đỡ người khác mà không chút tính toan
do dự. Chính những hành động đó đã khơi dậy tấm lòng của biết bao nhiêu con người , rồi thế giới
này sẽ mãi là một thế giới giàu nhân nghĩa
Tóm lại câu tục ngữ trên giúp ta hiểu được về đạo lí làm người. Lòng tôn kính, sự biết ơn không
thể thiếu trong mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay. Chúng ta luôn phải trau dồi những
phẩm chất cao quý đó, hãy biết rèn luyện, phấn đấu bằng những hành động nhỏ nhất vì nó không tự
có trong mỗi chúng ta. Chúng ta cần phải biết ơn những người đã có công dẫn dắt ta trong cuộc sống
nhất là đối với những người trực tiếp giúp đỡ chỉ bảo ta như cha mẹ, thầy cô. Bài học đó sẽ mãi là
7
một kinh nghiệm sống ẩn chứa trong câu tục ngữ trên và nó có vai trò, tác dụng rất lớn đối với cuộc
sống trên hành tinh này.
Giải thích câu tục ngữ: "Không thầy đố mày làm nên"
Đề bài: Ông cha ta có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Bằng hiểu biết của mình, em hãy làm
sáng tỏ câu tục ngữ đó.
Bài làm
Trong xã hội, người thầy mang một vai trò rất quan trọng trong việc tu dưỡng, rèn luyện,
hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách của lứa tuổi học sinh. Điều đó cũng được ông cha ta
quan niệm, khẳng định từ hàng nghìn đời nay. Chính vì vậy trong kho tàng tục ngữ, ca dao dân ca
Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm nên” để bộc lộ rõ nét điều đó.
Câu tục ngữ trên mang hình thức thách đố nhưng bản chất lại là câu khẳng định, nó còn mang
cấu trúc kiểu phủ định, thuộc loại câu hỏi tu từ. Hai từ: “thầy” – “mày”, từ “mày” không có ý nghĩa
hạ thấp giá trị học sinh mà để đi liền với chữ “thầy” cho vần và dễ nhớ. Câu tục ngữ này nêu lên vai
trò quan trọng của người thầy đối với nền giáo dục và học sinh, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta
phải biết ơn, kính trọng thầy cô giáo. Không chỉ vậy, câu tục ngữ này còn mang giá trị truyền thống

tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam từ rất lâu đời.
Thầy không chỉ là người dạy dỗ chúng ta về kiến thức mà còn là người dạy ta đạo đức, phẩm
chất, giá trị mỗi con người. Học chữ, học làm việc, tất cả mọi cái học đều phải có thầy. Có thể nói
thầy như thế hệ đi trước, trải qua biết bao kinh nghiệm trong cuộc sống, nay truyền thụ lại kiến thức
cho học sinh, mở đường chỉ lối, giúp ta có con đường đúng đắn nhất để đi. Công lao đó không gì sánh
nổi. Những ngày đầu tiên bước vào lớp, thầy đã dìu dắt, dạy dỗ, chỉ bảo. Thầy dạy học đếm, học
viết, học đánh vần. Lên lớp cao, thầy dạy cho chúng ta những điều sâu sắc. Suốt quá trình học tập
thì thầy là người luôn sát cánh bên ta, trợ giúp, nâng đỡ , chắp cánh cho ta bay vào tương lai. Không
một người học sinh nào có thể thành đạt vào đời mà không có sự kèm cặp của thầy. Tất nhiên là nếu
thầy dạy cho chúng ta mà chúng ta không biết tiếp nhận, không biết vận dụng thì công sức của thầy
cũng chỉ là không. Chính vì vậy chúng ta cần phải biết rằng tâm huyết của thầy dành cho chúng ta là
hết mình nên chúng ta cũng phải nỗ lực, cố gắng, chịu khó để không phụ lòng những công ơn đó.
Công lao của thầy đối với sự nghiệp sau này của học sinh là vô cùng lớn, nó chính là mầm mống của
sự thành đạt. Khi một người thầy hết lòng vì học sinh thì đó chính là niềm đam mê yêu nghề của
thầy và cũng là tư tưởng lớn trong nền giáo dục.
Chúng ta có được ngày hôm nay cũng chính là do sự dìu dắt của thầy. Thầy đã truyền thụ
kiến thức, rèn giũa những phẩm chất cao quý tốt đẹp trong mỗi con người chúng ta để chúng ta trở
thành những viên kim cương sắc bén, đã được gọt giũa, luôn toả sáng trong đường đời, và cũng
chính điều đó nhắc nhở chúng ta hãy biết kính trọng người thầy ở mọi lúc mọi nơi, hình ảnh của
người thầy phải đi vào sự tôn kính trong mỗi chúng ta. Hãy biết vận dụng vốn kiến thức của thầy đã
truyền thụ kết hợp với khả năng vốn có của bản thân để tạo nên một sự thành đạt rực rỡ trong cuộc
đời của mình. Đó chính là những gì thầy mong muốn, gửi gắm niềm tin ở ta. Và nó cũng thể hiện
lòng tôn kính một cách sắc nét nhất đối với thầy. Câu tục ngữ này mang giá trị trường tồn cùng thời
gian và trong bất kì hoàn cảnh nào thì nghĩa của nó cũng luôn được chấp nhận, khẳng định. Không
chỉ vậy, câu tục ngữ còn mang hình thức giản dị, âm điệu vui nhộn, nhưng ẩn chứa trong đó là biết
bao nỗi niềm, tâm sự của ông cha ta.
Nói tóm lại câu tục ngữ này muốn nói với chúng ta một điều sâu sắc nhất. Đó chính là hãy hiểu được
vai trò giá trị của người thầy, hãy biết suy nghĩ một cách toàn diện nhất để có những thái độ bộc lộ
sự kính trọng đối với thầy, không chỉ là lời nói, mà còn bằng hành động. Hãy thể hiện rằng, chúng ta
là những con người văn minh, biết đạo lí làm người và xứng đáng là người con đất Việt.

8
Đề : Giải thích câu tục ngữ "Người ta là hoa đất"
Đề bài: Dân gian ta có câu “Người ta là hoa đất”. Bằng hiểu biết của mình, em hãy làm sáng tỏ câu
tục ngữ trên.
Bài làm
“Giá trị của con người”. Khái niệm đó đã được người xưa hiểu từ rất lâu đời. Những nhà trí thức
thời xưa thì đã có óc nhận xét, phân tích sâu sắc và thể hiện dưới những lời ca, truyền từ đời này
sang đời khác.
Trong kho tàng văn học Việt Nam, để thể hiện giá trị của con người thì có vô số tục ngữ, ca dao.
Nhưng có một câu tục ngữ thể hiện điều đó lại mang một hình thức ẩn dụ, rất sâu sắc khiến người
đọc phải tò mò mà ngẫm nghĩ, nhẹ nhàng mà thấm thía các ý sâu xa. Đó chính là câu tục ngữ “Người
ta là hoa đất”.Câu tục ngữ có 5 chữ nhưng mang nhiều điều hàm ẩn, hình ảnh hoa là một thứ đẹp
đẽ, thuần tuý, là kết tinh tạo hoá ban tặng mang một hương thơm nồng nàn, một vẻ đẹp kiều diễm.
Vậy thì hoa đất là gì? Hoa đất chính là mạch sống của đất trời, cũng có thể nói hoa đất chính là con
người. Tại sao vậy? Con người là một sinh vật hoàn hảo của vũ trụ. Con người có hình thể, bản năng
và trí tuệ - đó chính là thứ vũ khí mạnh nhất. Trí tuệ đã đem lại cho con người sự tìm tòi khám phá,
những kiến thức khoa học tạo nên những bước ngoặt thành đạt thật đáng khâm phục. Con người có
thể xây nên những toà tháp có giá trị cả về kinh tế lẫn lịch sử, những máy móc hiện đại để phục vụ
con người. Những nền văn minh từ cổ đại tới hiện đại đều do một tay con người tạo ra. Trong quá
trình đấu tranh thiên nhiên, bạt núi, ngăn sông, khai khẩn đất hoang, con người đã tin ở trí thông
minh và sức lực của mình, con người đã đứng lên xây dựng một xã hội, một tinh cầu văn minh. Câu
tục ngữ trên đã khẳng định điều đó. Dường như mọi tinh hoa, vẻ đẹp đều hội tụ vào con người. Và
nó còn đẹp trong lòng yêu thương của mỗi cá nhân. Sự gắn bó đi kèm với ý chí chính là thứ để con
người trường tồn cùng thời gian. Con người không chỉ là tâm điểm của trái đất mà còn là tâm điểm
của vũ trụ, Từ xa xưa, con người đã biết dựa vào nhau để sống, đã biết trao đổi của cải vật chất. Trải
theo cùng năm tháng, thời gian thì những bông hoa đất đó đã tạo nên được những thành tựu như
ngày nay. Tất cả những điều đó đều thể hiện con người là ngọn đèn bất diệt.
Không đâu xa lạ, ngay trên đất Việt Nam này, nhân dân ta đã phấn đấu xây dựng đất nước mình
suốt từ Bắc chí Nam. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã làm cho đất nước càng tươi đẹp. Nhân dân
ta có mối tình cao cả, đoàn kết anh em từ miền ngược tới miền xuôi. Các Vua Hùng có công dựng

nước, nhân dân mọi thời có công giữ nước. Những vị danh nhân, những nhà thành đạt toả sáng trên
đường đời. Những điều đó phần nào đã làm sáng tỏ được câu tục ngữ trên.
Thời xưa ông cha ta có những lối suy nghĩ và câu từ giản dị nhưng nó chứa đựng biết bao
nhiêu điều mà khiến chúng ta ngày nay thấm thía, cảm nhận mãi mà vẫn chưa thể lĩnh hội hết được.
Câu tục ngữ trên là một điển hình rõ nét. Có thể nói câu tục ngữ này mang nhiều ý tứ sâu xa nhưng
đúc kết lại bài học của nó là sự trân trọng về giá trị con người. Đó không chỉ là một lời ca ngợi mà
còn là một sự khẳng định, một luận điểm đúng đắn sôi nổi thu hút nhiều suy nghĩ của những người
xung quanh.
9
Giải thích câu tục ngữ "Người sống đống vàng"
Đề bài: Dân gian ta có câu “Người sống, đống vàng”. Bằng hiểu biết của mình, em hãy làm sáng
tỏ câu tục ngữ trên.
Bài làm
Trên thế gian này, con người là quý giá nhất. Con người có thể làm ra mọi thứ. Con người
nắm giữ, sử dụng thời gian, làm ra vàng bạc, lúa gạo, biết suy nghĩ. Sức lao động của con người là
vô hạn và cũng là cái để con người thực hiện những ước mơ, là phương tiện tồn tại cùng với thời
gian. Điều đó cũng được ông cha ta hiểu từ xưa tới giờ và được đúc kết lại bằng câu tục ngữ:
“Người sống, đống vàng”.
Câu tục ngữ trên thuộc câu so sánh ẩn dưới hai vế đối xứng với nhau. Vần lưng giữa câu làm
cho người nghe dễ nhớ, dễ hiểu. Câu tục ngữ mang hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất dân gian ví con người quý như vàng bạc, làm tôn giá trị tới mức đỉnh cao. Nghĩa thứ
hai là có con người thì sẽ có của cải, vật chất. Đúng như câu tục ngữ, người xưa cũng đã từng có
câu: Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
Thật vậy, từ ngày xưa, nhân dân ta không có những phương tiện máy móc như hiện giờ, mọi
người chỉ biết dựa vào sức người, đôi tay và khối não. Đó chính là những công cụ sống mà được
truyền từ đời này sang đời khác và bất kì thời nào thì giá trị của con người vẫn luôn được xem là bậc
nhất, luôn được mọi người quan tâm hàng đầu. Ngay cả từ thời trái đất còn sơ khai, con người đã
biết săn bắt, trồng trọt, chăn nuôi để tồn tại. Trải qua thời gian thì những phát minh được ra đời,
những kinh nghiệm được đúc kết lại làm hành trang vững bước cho thế hệ sau. Cứ dần dần như vậy

mà ngày nay, chúng ta đã được hưởng một thành quả lớn nhất là đời sống ổn định, có của ăn, của
để, có cây trồng, vật nuôi phục vụ đời sống.
Có thể nói con người làm chủ trên trái đất này, không có con người thì tất cả sẽ vô vị, trở nên
lạnh lẽo, dù có nhiều của cải đến đâu thì cũng chỉ là vô nghĩa vì không được con người khai thác, sử
dụng. Con người với năng lực của mình đã xây dựng nên được những tháp chùa, nhưng toà lâu đài cổ
kính trường tồn cùng thời gian. Năng lực của con người sẽ mãi là một thứ vũ khí mạnh nhất để chống
lại bất kì kẻ thù nào và cũng là cái để làm nên tất cả.
Nói tóm lại, câu tục ngữ trên khẳng định tầm quan trọng và đề cao năng lực giá trị con người.
Nó không chỉ là một sự khẳng định mà nó còn là một lời khuyên, một bài học, một tư tưởng đúng
đắn dành cho mỗi chúng ta.
Giải thích câu tục ngữ "Đói cho sạch "
Đề bài: Ông cha ta câu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Bằng hiểu biết của mình em hãy làm sáng
tỏ câu tục ngữ đó.
Bài làm
Trong cuộc sống hiện tại cũng như thời xưa, vẻ đẹp bên ngoài là vốn quý, là niềm tự hào của
mỗi con người. Song phẩm chất bên trong còn quý giá hơn nhiều. Trong kho tàng tục ngữ, cao dao
Việt Nam có rất nhiều câu tục ngữ thể hiện điều đó. Và một tiêu biểu, điển hình, phổ biến nhất đó
chính là câu tục ngữ: “Đói cho sạch, rách cho thơm”.
Câu tục ngữ có hai vế, đối rất chỉnh. tác giả dân gian đã mượn những thứ gần gũi, thiết thực
với đời thường để biểu lộ những tư tưởng, quan điểm của những người dân lao động. Câu tục ngữ
này mượn hình ảnh “đói” và “rét” để nói lên hoàn cảnh nghèo khổ, thiếu thốn của cuộc sống bấy giờ.
10
“Sạch” và “thơm” là cách sống trung thực, không tham lam, biết giữ gìn phẩm chất trong sạch,
không sa vào tội lỗi. Hai chữ “cho” có nghĩa là giữ lấy. Hai động từ đó là hai động từ quan trọng nhất
trong bài, thể hiện hành động, thói quen, những biểu lộ của người dân lao động. Phải biết giữ gìn
phẩm giá, nhân cách đó chính là bài học của câu tục ngữ trên. Đó cũng chính là quan điểm sống của
người dân lao động hoàn toàn trái nghịch với cách sống của giai cấp thống trị.
Thời phong kiến xưa, xã hội đầy rẫy những bất công, rối ren, giai cấp thống trị nghiệt ngã,
bóc lột nhân dân ta dưới nhiều hình thức, coi thường, khinh rẻ những người dân lao động. Theo bản
năng của con người, “con giun xéo lắm cũng quằn”, đến mức đường cùng thì tự nhiên phải biết

chống lại bằng bất cứ hành động nào, có mấy ai nghĩ đến việc giữ gìn phẩm chất, thanh danh. Ấy
vậy mà những người dân lao động, đối với họ điều đó là quan trọng nhất, là mục tiêu để hướng tới, là
động lực thúc đẩy để sống. Dù có bần cùng, đói khổ đến đâu thì ý chí kiên cường của họ vẫn luôn
chiến thắng, niềm tin của họ vẫn không bao giờ tàn lui. Từ xa xưa, nước ta vốn dĩ là một nước gắn
liền với đồng ruộng, nhân dân ta lam lũ cùng nắng mưa, giai cấp thống thị vẫn vắt kiệt sức của họ
bởi những sưu thuế nặng nề, chính sách áp bức đến tận xương tuỷ. Trong hoàn cảnh như vậy, con
người mà không có lập trường thì rất dễ bị nhơ bẩn về đạo đức. Những người dân lao động chỉ biết
dựa vào nhau, thốt nên lời những kinh nghiệm của cuộc sống để khuyên nhủ nhau sống sao cho khỏi
hổ thẹn với trời đất, sao cho khỏi cắn rứt lương tâm, danh dự, ám ảnh bới những tội lỗi xấu xa mà
mình đã gây ra.
Nói kết lại, đối với người lao động thời xưa, vật chất không có gì, họ chỉ biết sống dựa vào ý
chí, niềm tin, sự nỗ lực, phấn đấu. Nhờ vào những yếu tố đó mà họ đã vượt lên được số phận, biết
sống vui vẻ, lạc quan, yêu đời, không một sự bóc lột nào có thể tước đi được tinh thần, lý trí của họ.
Điều đó đã được đúc kết qua quá trình lao động sản xuất, cô đọng được qua từng suy nghĩ của mỗi
con người. Quan niệm sống ấy thật cao đẹp, nó không chỉ là kinh nghiệm mà nó còn là lời dạy dỗ,
khuyên răn, chỉ bảo, áp dụng cho tất cả mọi người.
Giải thích câu tục ngữ "Đi một ngày đàng "
Trong cuộc sống, có những điều mà chúng ta chưa hề biết. Những kiến thức đơn giản thì hiển
hiện xung quanh chúng ta, còn những điều mới lạ, hấp dẫn thì lại ẩn chứa trong xã hội. Chính vì vậy
để có được kiến thức thì chúng ta phải biết tìm hiểu, học hỏi, khám phá. Đó cũng chính là ước
nguyện của ông cha ta nên tục ngữ mới có câu rằng: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”
Câu tục ngữ này mang hai vế đối xứng với nhau. “Một” đối với “một”, đó chính là hình thức đối
xứng độc đáo. Câu tục ngữ này ý khuyên nhủ chúng ta hãy biết đi đây, đi đó để được ở mang, tích
luỹ kiến thức, tầm nhìn về xã hội. “Ngày đàng” ở đây là một phép ẩn dụ. Nó không phải là con số cụ
thể quy ước mà chỉ một khoảng thời gian mà chúng ta tiếp nhận những điều hay lẽ phải ngoài xã hội.
Không chỉ vậy, ngụ ý của tác giả dân gian còn được bộc lộ rằng không phải bất kì cái mới mẻ nào
cũng có thể tiếp nhận mà hãy chắt lọc, thấm hiểu để nhận ra sự mới mẻ nào có ích, sự mới mẻ nào
có hại mà biết đường đề phòng tránh hay học tập. Điều đó được thể hiện qua từ “sàng khôn”. Không
chỉ vậy câu tục ngữ này còn nói lên thế giới đa dạng và phong phú, nếu biết tiếp nhận nó một cách
khéo léo thì kết quả thu được sẽ rất lớn. Thật vậy. Ngoài xã hội có rất nhiều những điều hấp dẫn đối

với những người mới tiếp xúc. Đó là nơi văn minh, là nơi giao lưu học hỏi của các tầng lớp, cũng là
nơi trao đổi , buôn bán, có nhiều loại hình nghệ thuật độc đáo, những công nghệ độc đáo, hay những
kiến thức khoa học huyền bí. Từ những cách ăn nói ngoài xã hội đến những hình thức ứng xử, tất cả
đều là kiến thức, được khoác nhiều bộ áo trên nhiều phương diện. Mặt tích cực không nhỏ nhưng mặt
tiêu cực cũng không phải là ít. Những tệ nạn xã hội, những trò đùa lôi kéo sự đam mê của con người
dẫn đến sự lu mờ về đạo đức, nhân phẩm. Có nhiều người mặc dù biết được tác hại của nó nhưng đã
dấn chân vào rồi thì khó lòng rút ra được. Do đó ý thức của chúng ta trong việc tiếp nhận kiến thức
tốt đẹp là hoàn toàn cần thiết. Ngày xưa, thời kì vật chất còn xơ xài, ông cha ta ăn vất vả cực nhọc
nên ý thức đã nhận ra rằng sự học hỏi là thiết yếu trong việc thay đổi cuộc sống thêm tiến bộ, nhưng
có mấy khi có điều kiện để vượt khỏi luỹ tre làng. Vì vậy đó là một ước vọng lớn lao của ông cha ta.
Không chỉ thời bấy giờ mà ngày này, xã hội ngày một văn minh, đất nước đổi mới, con người đang
bước sang kỉ nguyên hiện đại, yếu tố học hỏi là không thể không tồn tại. Để theo kịp những tiến bộ
khoa học, con người cũng phải tìm hiểu, học tập lẫn nhau để xứng đáng là một phần tử của đất
nước, xứng đáng là một con người văn minh, lịch sự. Chính những sự giàu đẹp của đất nước ngày
một tăng cao đã là sự thúc giục trong ý thức học hỏi ngoài đời của mỗi con người. Trong tất cả các
môi trường học tập thì dường như xã hội là một nơi sâu thẳm về kiến thức, là nơi chứng kiến biết bao
kinh nghiệm của con người và cũng là kho tàng để chúng ta tích luỹ. Có biết bao nhiêu điều hay lẽ
phải đang chờ chúng ta. Chắc chắn mỗi người đi ra ngoài xã hội đều vấp phải những trở ngại, khó
11
khăn, nhưng chính những điều đó lại càng tăng thêm sức mạnh cho mỗi chúng ta. Tuy nhiên thì
không phải học tập ngoài xã hội chỉ đơn thuần như vậy mà còn cần phải học khôn, học chọn lọc
những tinh tuý, còn những điều tiêu cực thì lại là mặt trái để chúng ta biết tránh xa.
Nói tóm lại câu tục ngữ trên khuyên răn chúng ta về cách mở rộng hiểu biết, mở rộng vồn
kiến thức để tạo nên những thành quả vượt bậc và cách sống cao đẹp.


Giải thích câu tục ngữ: "Có công mài sắt "
Đề bài: Nhân dân ta có câu câu tục ngữ: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”.
Hãy chứng minh câu tục ngữ trên.
Bài làm

Trong cuộc sống, con người ta đều có những thành công đạt được và những ước mơ muốn
vươn tới. Và để thực hiện được điều đó thì ta phải có lòng kiên trì, bền bỉ, nỗ lực. Chính vì vậy ông
cha ta đã có câu : “Có công mài sắt, có ngày nên kim” để động viên, khích lệ hay nói một cách khác
là khuyên răn con cháu, dạy bảo những kinh nghiệm trong đời thường, cuộc sống.
Câu tục ngữ được chia làm hai vế, mỗi vế có 4 từ. Hai vế này có hai cặp từ tương ứng với nhau: “Có
công – có ngày ; mài sắt - nên kim”. Một vế chỉ sự nỗ lực, một vế chỉ thành quả đạt được.
Cây kim tuy nhỏ nhưng nó rất có ích, tròn trịa, trơn bóng, sắc nét. Để mài được một cây kim như vậy
thì thật là khó.
Câu tục ngữ này mượn hình ảnh cây kim để nói lên được phẩm chất cao quý truyền thống của
dân tộc Việt Nam từ hàng nghìn đời nay. Từ những việc nhỏ như quét nhà, nấu cơm đến những việc
lớn như xây dựng đất nước, chống giặc ngoại xâm. Những thành tựu hiện nay mà ông cha ta đạt
được đã minh chứng cho điều đó. Những tháp chùa cổ kính có giá trị, một số công trình nghệ thuật
nổi tiếng như tháp Chương Sơn, chuông chùa Trùng Quang với những đường nét hoa văn thanh
thoát, mạnh mẽ, thể hiện tinh thần thượng võ, yêu nước. Và một thành tựu lớn nhất của ông cha ta
đó chính là xây dựng nên được một quốc gia văn minh, nhân dân đồng lòng, đất nước yên bình. Công
cuộc dựng, giữ , phát huy, đổi mới đất nước đó đã thể hiện được sự bền bỉ, chịu thương chịu khó, sự
sáng tạo, lao động kiên cường của ông cha ta.
Trong lao động sản xuất, nhân dân ta cũng đã có những việc làm và kết quả đạt được để khẳng
định ý nghĩa của câu tục ngữ trên là hoàn toàn đúng. Từ xưa tới giờ, đất nước ta đã gặp phải những
khó khăn rất lớn, từ những thảm hoạ thiên nhiên như lụt lội, bão bùng đến những cuộc chiến tranh
do con người tạo ra nhưng nhờ sự cố gắng, chịu đựng, vượt khó mà chúng ta đã khắc phục được
những trở ngại đó.
Và trong học tập thì điều đó lại càng được khẳng định rõ nét hơn. Những em bé chập chững
bước vào lớp một, tập toẹ đánh vần, viết chữ đến những năm tháng tiếp theo lên lớp, phải kiên trì
cần cù mới mong đạt được kết quả tốt trên con đường học tập của mình.
Trong đường đời cũng vậy, những danh nhân, thương gia, thi sĩ, nhà nho, nhà văn nổi tiếng cũng
từng phải vất vả, hi sinh, sử dụng những kiến thức mình có nhưng không thể thiếu đi và phải luôn
gắn liền với sự kiên trì, chuyên cần, sáng tạo mới có thể thành đạt.
Những tấm gương chăm học, những tấm gương chịu khó như Bác Hồ là một điển hình rõ nét
nhất. Bác đã phải vất vả làm việc, chịu khó học tiếng nước ngoài, đi bôn ba khắp nơi để tìm đường

cứu nước. Thật hiếm ai như vậy! Và cũng nhờ những sự nỗ lực đó mà đất nước ta mới được tự hào về
một danh nhân, một vị lãnh tụ vĩ đại nổi tiếng mà khắp năm, châu bốn bể đều biết tới.
Câu tục ngữ trên với hình thức ngôn từ dân dã nhưng thật ngắn gọn súc tích, bao hàm những ý
nghĩa sâu sa. Đó chính là những đúc kết lâu đời trong quá trình lao động, kinh nghiệm chiến đấu, sản
xuất và cả trong đời thường cuộc sống của ông cha ta. Nó như một bài học quý báu, một thông điệp
hữu dụng, một lời dạy chân tình rằng: “Hãy biết tu dưỡng, rèn luyện những đức tính, phẩm chất kiên
trì, nhẫn nại, chịu khó, cần cù, sáng tạo, kết hợp với khả năng vốn có của bản thân để làm nên một
sức mạnh vô địch vượt mọi gian truân, vất vả trong cuộc sống, những trở ngại éo le nhất mà đi tới
thành công, thắng lợi”. Nào chúng ta hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ nhất như học tập chăm chỉ,
lao động cần cù để trở thành con ngoan trò giỏi, trở thành chủ nhân tương lai của đất nước nhé!!!
12

Đề: Em hãy lam sáng tỏ cau nói học,học nữa,học mãi!!!
1/MB: nêu vấn đề nghị luận: “học! học nữa! học mãi”
học hỏi là 1 việc rất quan trọng đối với nhân dân ta, đối với cả nhân loại từ ngàn xưa cho đến nay. Nó giúp
con ng` mở mang kiến thức,nó giúp cho đất nước văn minh, tiến bộ. nhận thức được tầm wan trọng của
vấn đề này, tuy fải bận trăm công nghìn việc, nhưng lê-nin vẫn th` khuyên cán bộ và tự đặt cho mình
nhiệm vụ: “học! học nữa! học mãi!”.
2/TB: A-BÌNH:
a)giải thích câu nói (or nêu các biểu hiện của vấn đề)học là việc học sinh tiếp thu kiến thức của nhân loại
dưới sự hướng dẫn của thầy cô giáo…khi học chúng ta fải tìm tòi, suy nghĩ them để hiểu rõ và mở rộng
các kiến thức đã thu thập được. như thế lời dạy của lê-nin có ý nghia là khuyên chúng ta fải luôn học hỏi
ko ngừng, học hỏi suốt đời chẳng những trong nhà trường và cả ngoài XH…
b)phân tích các mặt đúng,lợi:đó là một chân lí, một sự thật hiển nhiên, rõ rang từ trước đến nay. bởi vì
kiến thức của nhân loại bao la mênh mông như biển cả còn sự hiểu biết của mỗi ng` trong chúng ta chỉ
như giọt nước. hơn thế nữa, mỗi một giây phút trôi wa thì hành tinh của chúng ta lại có một phát minh mới
ra đời, vì thế ko bao h chúng ta học được hết những kiến thức đó và cũng vì thế mà chúng ta fải luôn luôn
học tập ko ngừng.làm sao chúng ta có thể quên được tấm gương của nhà bác học Lê Quý Đôn của đất
nước VN or các bác học Newtơn, Ampere… trên thế giới đã suốt đời học hỏi và cống hiến nhiều kiến thức
quý báo cho nhân laọi. ngoài ra, lời nhận định này cũng đúng vì nó có giá trị về mặt giáo dục con ng` mới,

giáo dục lý tưởng sống cao quý. Cho nên chúng ta ko lạ gì khi thấy các danh nhân trên thế giới cũng từng
có những suy nghĩ tương tự như câu nói nổi tiếng của Darwin:“nhà bác học ko có nghĩa là ngừng học” or:
“đường đời là chiếc thang ko nấc chót, việc học là quyển sách ko trang cuối cùng.” (Kalinin). Or câu của
bác hồ : “học hỏi là một việc fải tiếp tục suốt đời”.
Chính câu nói của các nhà bác học càng làm tăng them giá trị chân lí của lời nhận định của lê-nin.
B-LUẬN: (mở rộng vấn đề)
a)phân tích các mặt bổ sung.
Nhưng thật đáng tiếc là có những ng` làm ngược lại với lời dạy bảo quý giá này. thật đáng tiếc là trong
nhà trường có những học sinh lười biếng, ko cố gắng chăm lo học tập, kiền thức nôgn cạn, dở dang. Cũng
như thế trong XH còn có những kẻ tự kiêu, tự mãn khi đã đạt được = cấp mà ko chịu típ tục học hỏi. và
đương nhiên những kẻ đó đáng bị chê trách vì đã ko nghe theo lời khuyên bảo tốt đẹp này.
b)xây dựng thái độ đúng cần fải có.
Do đó, học hỏi suốt đời là một việc fải làm và cần làm. Ý nghĩa trọn vẹn, sâu xa của câu nói cũng là muốn
chúng ta thực hiện được điều đó. Nhưng làm như thế vẫn chưa đủ. để việc học hỏi đạt kết quỷ thật tốt,
chúng ta fải xác định rõ động cơ học tập là vì tổ quốc, vì nhân dân, học để trở thành ng` lao động mới có
khả năng trình độ để phục vụ đất nước,sẵn sàng xây dựng và bảo vệ tổ quốc. bên cạnh mục đích học
tập,chúng ta còn fải có tinh thần thái độ học tập đúng đắn, học đi đôi với hành, học ở nhà trường, học
ngoài XH
c)phân tích nguyên nhân,hậu quả, (or tác dụng)
nếu đạt được những điều kiện trên thì việc học hỏi sẽ mang lại 1 tác dụng, 1 kết quả thật to lớn là kiến
thức của mỗi ng` trong chúng ta sẽ được lien tục nâng cao, từ đó sẽ giúp cho đất nước ngày càng văn minh
13
tiến bộ. đặc biệt là đối với đất nước chúng ta ngày nay,nhiệm vụ học tập càng trở nên vô cùng cấp thiết,trở
thành nghĩa vụ của mỗi ng` công dân vì đất nước ta, sau gần một trăm năm đô hộ của thực dân pháp,sau
hơn hai mươi năm chiến đấu chống đế quốc mỹ, đa số nhân dân ta ko có thời giờ và phương tiện để học
tập.nên muốn nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến trrang, ổn định đời sống nhân dân, khôi phục và phát
triển kinh tế, tiến tới xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ và phồn vinh, ta cần fải cố gắng học tập gấp
năm mười lần trước đây thì mới mong có một đội ngủ cán bộ quản lí, khoa học kĩ thuật đông đảo, công
nhân lành nghề,nông dân có trình độ cao để tiếp thu kỹ thuật mới tăng nâng suất lao động.
3/KB: thái độ,kết luận chung của bài nghị luận.

Rõ rang nhận định của lê-nin đúng là một sự thật hiển nhiên trong cuộc sống, là một chân lí của thời đại.
Đồng thời,câu nói trên cũng bộc lộ tấm long, ước muốn thiết tha của lê-nin.
II- MỘT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN HAY CÒN PHẢI THỂ HIỆN ĐƯỢC SỰ SÁNG TẠO RIÊNG ĐẶC SẮC.
1. Sự sáng tạo chỉ sinh ra khi con người đã nắm chắc những kiến thức cơ bản về công việc của mình. Kiến
thức cơ bản đầu tiên và quan trọng nhất trong môn làm văn là: hoạt động tập làm văn vốn có nguồn gốc từ
đời sống. Bởi thế học sinh không được đối lập nó với cuộc đời nếu không bài văn sẽ như chùm hoa giả,
"chữ, chữ, toàn là chữ": toàn những ký tự vô hồn.
Những bài văn, câu văn nghị luận hay đều được viết bởi những con người coi văn chương chính là máu
thịt của cuộc đời.
Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta
thoát lên tiên cũng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồn
rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.
Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta"
Những câu văn tuyệt vời và con là tiếng nói xuất phát từ đáy lòng của một cái tôi cá nhân đắm chìm trong
nỗi mơ màng, buồn khổ, đang cất lên lời tâm sự với những người đồng bệnh và với mình.
Để có bài văn nghị luận hay, có thể khiến người đọc tìm được niềm hứng thú về tư tưởng, thẩm mĩ, người
viết phải sống nghiêm túc, biết hoà trí tuệ và cảm xúc thật vào từng dòng chữ.
=> Gắn việc làm văn với đời sống hiện thực.
2. Kẻ thù của sáng tạo là nhàm chán, khuôn sáo, thói quen đi trên lối mòn. Theo Vũ Trọng Phụng thì
người đọc sẽ thấy "khổ lắm" nếu người viết cứ "nói mãi" những điều ai nấy đã "biết rồi". Một bài văn nghị
luận hay cần hấp dẫn người đọc bằng ít nhất là một đôi điều mới mẻ.
a) Người viết phải dám xem xét lại những cách nhìn, cách hiểu theo các chuẩn tắc thông thưởng. Phải có
đủ can đảm để đặt những hiện tượng quen thuộc dưới một góc nhìn mới. Như cách nghĩ từ khá lâu chị
Dậu là nhân vật thuộc về một thế giới tắt đèn, số phận của người nông dân ấy tối đen y như câu kết của
thiên tiểu thuyết: "Trời tối như mực và như cái tiền đồ của chị".
Nhưng Nguyễn Tuân lại rọi vào hình tượng đó một cái nhìn khác. Nhà văn nhìn thấy người đàn bà kia
chẳng khác nào cây lúa đồng quê đang khát thèm ánh sáng.
"Bản chất của nhân vật chị Dậu rất khoẻ, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra. Một nhân vật khoẻ và
mạnh như chị Dậu, có thể ngừng cuộc đời mình ở đấy KHông/ Hay là nó phải tuông ra khỏi cái tối như

mực? Vì cái tiền đồ tối như mực ấy mà không tuông ra khỏi thì sao có thể sống được? Tôi ngờ rằng câu
kết này cũng mới chỉ là cái chấm hết của thiên truyên dài. Với một cái tiền thân ngay thẳng lành mạnh
như vậy, tôi nghĩ rằng chị Dậu thế tăt phải có một hậu thân trong các đoàn thể cách mạng; và tôi nhớ
như có lần nào, tôi đã gặp chị Dậi ở một đám đông phá kho thóc Nhật, ở một cuộc cướp chính quyền
huyện kì Tổng khởi nghĩa [ ]. Đúng thế đất, Tắt đèn chỉ là một đoản thiên"
Đây là ý kiến mới mẻ, táo bạo, gây đảo lộn cách nghĩ quen thuộc của một lớp người nào đó, ở một thời
nào đó. Chính vì thế, nó đưa lại cho người đọc những hứng thú bất ngờ. Rồi mỗi người nhân thấy cảm nhận văn
học của mình nhờ thế mà trở nên sâu sắc, giàu có thêm. Những câu văn hay thường chứa những hiểu biết, vẻ đẹp
mà trước đó có thể chúng ta chưa biết tới.
=> Nhìn nhận vấn đề ở những quan điểm mới, cách nhìn mới.
b) Nói thế không phải khuyến khích thái độ vội vàng, hấp tấp đưa ra những ý kiến tự cho là mới mẻ mà
14
chưa kịp thông qua sự kiểm tra, suy xét. Không thể chấp nhận thứ quy tắc cứng nhắc nào như cái quy tắc
xô bồ, "vơ đũa cả nắm" mà các sĩ tử thời xưa dùng để xét đoán những quan điểm trước đó:
"Đường, Ngu Tam đại thì khen
Hán, Đường trở xuống thì lèn cho đau
rồi cứ từ đấy mà suy: "Hán Văn đế và Đường Thái Tôn đều là hậu nhân, tất nhiên phải lèn cho đau. Nếu
không tức là trái mẹo"
Học sinh muốn tìm ra ý mới cần khổ công "động não, mở rộng liên tưởng, suy nghĩ về điều cần nghị luận
trên nhiều góc độ, phương hướng; phải mổ xẻ kiểm nghiệm sự vật mà các ý kiến bàn luận có vẻ đã ổn định rồi".
Nếu chịu tìm hiểu kĩ lưỡng tỉ mỉ, ta vẫn có khả năng bắt cả những con số khô khan phải nói lên những
điều sinh động, lí thú:
"Ban-dắc" sinh năm 1799 tại Tua-ra-in, một tỉnh giàu có, quê hương vui tươi của Ra-bơ-le (nhà văn lớn
của nước Pháp). Niên đại đó đáng ghi nhớ. Đó là năm mà Napoleon [ ] từ Ai cập trở về, nữa là người
chiến thắng, nửa là người bỏ trốn. [ ]
Năm 1799, năm sinh của Ban-dắc là năm khởi đầu của Đế Chế. Thế kỉ mới không còn biết tới "viên tướng
bé nhỏ", người phiêu lưu của đảo Coóc-xơ nữa. Từ nay, nó chỉ biết có Napoleon, đức hoàng đế của người
Pháp. Trong mười năm, cả trong mười lăm năm nữa - đó là những năm tuổi của Ban-dắc - những giấc
mơ tham lam của ông, tựa như con đại bàng cất cánh, đã giăng ra khắp thế giới, từ phương Đông đến tân
phương Tây. Với một người góp phần mạnh mẽ vào tất cả những gì xảy ra xung quanh anh ta, với một

Ban-dắc, anh không thể thờ ơ với việc là mười sáu năm đầu tiên tỉnh giấc vào đời trùng khớp chính xác
với mười sáu năm của Đế chế - thời kỳ có lẽ là hư ảo nhất trong lịch sử thế giới. [ ]
Đó là những sự kiện huyền diệu, qua các giác quan tham lam rộng mở ra thế giới chung quanh cuả cậu,
thâm nhập vào đời sống cá nhân câu, gieo hàng ngàn hồi ức cụ thể và lốm đốm màu sắc vào vũ trụ còn
trinh nguyên của tâm hồn cậu".
Những dòng văn làm sống dậy những năm tháng ấu thơ của một nhà văn kiêt xuất, làm nên từ rất nhiều
công phu tra cứu, tưởng tượng, dẫn tác giả tới một ý tưởng thật đặc sắc, lý thú:
"Như Napoleon, Ban-dắc biến nước Pháp thành xứ sở bậc thầy của thế giới, với Pa-ri làm trung tâm [ ].
Như Napoleon, ông bắt đầu chiếm lĩnh Pa-ri. Đoạn, ông chiếm lấy các tỉnh, tỉnh này sang tỉnh khác".
=> Chịu khó tìm tòi nâng cao vốn kiến thức hiểu biết.
3. Nhưng những ý kiến, quan điểm dù lí thú, đặc sắc thì cũng chỉ làm nên một nửa thành công. Nửa còn lại
là lời. Bài văn hay, lời văn cũng phải hay, không thể chỉ ở mức đúng.
Lời văn hay không từ những ý cạn hẹp, tầm thường. Giữa ý và lời là giữa điều được nói và cách nói. Có ý
hay mới có lời hay. Song không phải có ý hay thì lời hay cũng đến. Để có lời hay thì ý phải được nghiền
ngẫm, "chưng cất", nung nấu. Công việc diễn đạt ý thành lời đòi hỏi ngời viết chịu khó rèn luyện trang bị
một vốn liếng dồi dào về ngôn từ, cách đặt câu.
Cần biết chăm chỉ nhặt nhạnh, tích luỹ những chữ, câu văn, cách nói hay. Bởi người làm văn đâu dễ tìm ra
lối viết chặt chẽ hùng hồn, trang trọng.
"Tất cả mọi ngời sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai chối cãi được [ ].
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trừơng học. Chúng thẳng tay chém giết những ngời yêu nước thơng nòi
của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. [ ]
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa [ ].
Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. [ ]
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội
nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim
Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe
Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập [ ]
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập".
Có thể thấy rằng viết ra những lời nghị luận hay là một vấn đề nghệ thuật đồng thời cũng là vấn đề kỹ

thuật. Đòi hỏi người viết phải có kiến thức sâu rộng, phương pháp suy nghĩ đúng đắn, chặt chẽ, nhất là
một tâm hồn đẹp. Bởi "văn tức là người". Nhưng đồng thời người viết phải có vốn ngôn từ phong phú,
15
tinh xảo, đủ khả năng làm chủ ngôn từ.
Muốn viết hay, trước hết là tu dưỡng, rèn luyện con người. Phải chịu đọc, học, phân tích, tìm hiểu những
bài văn, câu văn mẫu mực của văn chương nghị luận.
Học là để thực hành. Đọc, tìm hiểu, sưu tầm, tích luỹ nhiều áng văn hay nhưng nếu cứ để cho ý đẹp đông
cứng trong sổ tay hoặc dại dột đưa nguyên những lời mình chép được vào bài làm để bài văn thành "của
giả", "áo nâu vá mụn gấm", hay "râu ông nọ cắm cằm bà kia".
Nhớ rằng sáng tạo vẫn là yêu cầu tất yếu của vận dụng thực hành. Làm văn nghị luận hình thức ngôn từ không tách
rời nội dung, ý nghĩa. Lời văn là hay khi nó hoà hợp với ý văn, bộc lộ hết chiều sâu, vẻ đẹp vốn có của ý văn.
=> Có vốn hiểu biết về ngôn từ sâu sắc. Biết cách diễn đạt ý đẹp thành lời hay.
KẾ HOẠCH DẠY THÊM MÔN NGỮ VĂN 7
Giáo viên: Phạm Thị An Hà
Số
tiết
Tên bài dạy Ghi chú
4 Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận
Phần tập làm
văn
10 Cách viết một bài văn nghị luận hay- đúng
15 Cách viết một bài văn nghị luận hay thể hiện được sự sáng tạo,
đặc sắc.
10 Hướng dẫn viết bài văn nghị luận chứng minh
10 Hướng dẫn viết bài văn nghị luận giải thích
10 Hướng dẫn viết bài văn nghị luận kết hợp chứng minh và giải
thích.
2 Hướng dẫn viết văn bản hành chính
2 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản “Tinh thần yêu nước của
nhân dân ta”

Văn bản nghị
luận
2 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản “sự giàu đẹp của Tiếng
Việt”
2 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản “Đức tính giản dị của Bác
Hồ”
2 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản “Ý nghĩa văn chương”
2 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản “Sống chết mặc bay”
4 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản “Những trò lố hay là Va-
ren và Phan Bội Châu”
4 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản “Ca Huế trên sông Hương”
4 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản “Quan Âm Thị Kính”
1 Câu rút gọn
Phần Tiếng
Việt
1 Câu đặc biệt
2 Thêm trạng ngữ cho câu
2 Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động
2 Dùng cụm chủ - vị để mở rộng câu
2 Liệt kê.
2 Dấu chấm lửng, dấu chấm phẩy, dấu gạch ngang
4 Luyện tập về các loại câu đã học
16
Tìm và phân
tích ví dụ
4 Luyện tập : chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động
4 Luyện tập dùng cụm chủ - vị để mở rộng câu. Sử dụng phép liệt
kê.
Thời gian: thứ 4, 7 hàng tuần
Tổng số học sinh : 12



17

×