Tải bản đầy đủ (.pdf) (238 trang)

GIÁO TRÌNH NGÔN NGỮ HỌC VĂN BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 238 trang )

GIÁO TRÌNH
NGÔN NGỮ HỌC
VĂN BẢN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 1.Diệp Quang Ban, Văn bản và liên kết trong tiếng Việt,
Nxb. GD, 2005
 2. Nguyễn Thị Việt Thanh, Hệ thống liên kết lời nói tiếng
Việt, Nxb. GD, 2000
 3. Nguyễn Quang Ninh, 150 bài tập rèn luyện kỹ năng
dựng đoạn văn, Nxb. GD, 1997
 4. Trần Ngọc Thêm, Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt,
Nxb. KHXH, H, 1985
 5. O. I.Moskalskaja (Trần Ngọc Thêm dịch), Ngữ pháp
văn bản, Nxb.GD, 1996
 6. I.G. Galperin, Văn bản với tư cách đối tượng
nghiên cứu của NNH, Nxb. KHXH, 1987
 7.Đinh Trọng Lạc, Phong cách học văn bản, Nxb
Giáo dục , 1994
 8. Nguyễn Trọng Báu- Nguyễn Quang Ninh, Trần
Ngọc Thêm, Ngữ pháp văn bản và việc dạy làm
văn, Nxb. GD, 1985
 9. Trịnh Sâm, Tiêu đề văn bản tiếng Việt, Nxb.
GD, 1999.
Chƣơng 1
MỞ ĐẦU VỀ NGÔN NGỮ HỌC VĂN BẢN
1. Sự hình thành ngôn ngữ học văn bản

 NNHVB (NPVB) là một bộ môn NNH mới.
Tuy đã manh nha từ những năm 40, nhưng
nó chỉ thực sự được biết đến một cách rộng
rãi từ những năm 70, sau thời kỳ trải


nghiệm của ngữ pháp và ngữ nghĩa học tạo
sinh.
 Sau khi ra đời NNHVB đã tỏ ra có những
ứng dụng thiết thực :
+ Đề ra các phương pháp xây dựng văn
bản, phân tích văn bản, tóm tắt văn bản…
+ Giúp ích cho công tác biên tập, hiệu
đính.
 Ở VN, NPVB đã được đưa vào nghiên cứu
và giảng ở ĐHTH Hà Nội từ năm 1978. Sau
đó, bộ môn này được đưa vào giảng dạy
trong rất nhiều trường ĐH trong cả nước.
 Từ năm 1989, một số kiến thức về NPVB
được đưa vào dạy ở chương trình phổ
thông. Tuy nhiên, những tài liệu tham khảo
có liên quan đến vấn đề này vẫn còn quá ít.
 Những luận điểm cơ bản để tách NNHVB thành
một bộ môn NNH độc lập :
+ Đơn vị cơ bản của lời nói thể hiện một phát
ngôn hoàn chỉnh không phải là một câu mà là văn
bản : Câu – phát ngôn chỉ là một trường hợp cá
biệt, một dạng đặc biệt của văn bản. VB là đơn vị
cao nhất của cấp độ cú pháp.
+ VB cần được coi không chỉ là đơn vị của lời
nói mà còn là đơn vị của ngôn ngữ.
+ Giống như các đơn vị khác của NN,
VB là một bộ phận của hệ thống kí hiệu
ngôn ngữ.
+ Việc nghiên cứu văn bản như 1 đơn vị
ngôn ngữ và lời nói thuộc một cấp độ đặc

biệt đòi hỏi phải xây dựng một bộ môn
ngôn ngữ học thật đặc biệt – NNHVB.
2. Những cách hiểu khác nhau về
văn bản
 1) L. Hjelmslev (1953 ): VB được xét như
một lớp phân chia được thành các khúc
đoạn
 2) W. Koch (1966) : VB được hiểu ở bậc
điển thể là phát ngôn bất kỳ có kết thúc và
có liên kết, có tính độc lập và đúng về ngữ
pháp.
 3) L.M. Loseva (1980) : VB có thể định
nghĩa là điều thông báo viết, có đặc trưng
là tính hoàn chỉnh về ý và cấu trúc và thái
độ nhất định của các tác giả đối với điều
được thông báo […]. Về phương diện cú
pháp, VB là một hợp thể nhiều câu (ít khi là
một câu) liên kết với nhau bởi ý và bằng các
phương tiện từ vựng – ngữ pháp.
 4)Trần Ngọc Thêm (1985) : Nói một cách chung
nhất thì VB là một hệ thống mà trong đó các câu
mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu – phần tử,
trong hệ thống VB còn có cấu trúc. Cấu trúc của
VB chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan
hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói
riêng với toàn VB nói chung. Sự liên kết là mạng
lưới của những quan hệ và liên hệ ấy.
 5) D. Crystal (1992) : VB là một sản phẩm diễn
ngôn xuất hiện một cách tự nhiên dưới dạng nói,
viết hoặc biểu hiện bằng cử chỉ, được nhận dạng

vì những mục đích phân tích. Nó thường là một
chỉnh thể NN với một chức năng giao tiếp có thể
xác định được, ví dụ như một cuộc thoại, một tờ
áp phích.
<->Phần lớn các quan niệm chưa chú ý đến sự
phân biệt VB với diễn ngôn (DN) và đều nhấn
mạnh đến tính liên kết của VB.
3. Về tên gọi “văn bản” và
“diễn ngôn”
 Hiện nay, trong giảng dạy và nghiên cứu
NN tồn tại 2 thuật ngữ sau :
- Văn bản (Anh: text, Pháp: texte, Nga:
tekst)
- Diễn ngôn (Anh : discourse, Pháp :
discours, Nga : diskurs)
 Giai đoạn đầu, tên gọi VB được dùng để chỉ
chung những sản phẩm NN viết và sản phẩm NN
nói có mạch lạc và liên kết.
 Giai đoạn 2, có xu hướng dùng VB để chỉ sản
phẩm NN viết, còn diễn ngôn chỉ sản phẩm NN
nói .
 Giai đoạn hiện nay, diễn ngôn được dùng như VB
ở giai đoạn đầu, tức là dùng chỉ chung những sản
phẩm NN viết và sản phẩm NN nói có mạch lạc
và liên kết.
 Sự phức tạp trong quan hệ giữa tên gọi VB
và tên gọi DN không hề vô can với dạng nói
và dạng viết của NN. Và ngày nay, ngừơi ta
hiểu dạng viết không hề giản đơn là ghi lại
lời nói miệng, 2 dạng này tác động lẫn

nhau, nâng đỡ nhau, giúp cho một ngôn
ngữ cụ thể phát triển theo hướng ngôn ngữ
văn hoá.
4. Phân biệt ngôn ngữ nói và
ngôn ngữ viết
 Vấn đề phân biệt ngôn ngữ nói và ngôn ngữ
viết được xem xét ở 3 phương diện:
- Phương diện chất liệu;
- Phương diện hoàn cảnh sử dụng;
- Phương diện bên trong hệ thống ngôn
ngữ .
CÁC ĐIỂM KHÁC BIỆT TRỰC QUAN
 NGÔN NGỮ NÓI
1. Về chất liệu
- Âm thanh của ngôn ngữ
trải ra trong thời gian 1
hướng và 1 chiều.
- Sử dụng ngữ điệu.
- Có thể dùng các phương
tiện kèm ngôn ngữ.
 NGÔN NGỮ VIẾT
1. Về chất liệu
- Chữ viết trải ra trong
không gian (phản ánh tính
tuyến thời gian).
- Có hệ thống dấu câu đặc
thù.
2. Về hoàn cảnh sử dụng
- Có tính chất tức thời
không được dàn dựng

trước, không có cơ hội
gọt giũa, kiểm tra.
- Thường có ngừơi
nghe trực tiếp (mặt đối
mặt).
2. Về hoàn cảnh sử dụng
- Có điều kiện dàn
dựng trước, có cơ hội
gọt giũa, kiểm tra.

- Thường không có
ngừơi nghe trực tiếp
(mặt đối mặt).
3. Về mặt bên trong hệ
thống ngôn ngữ
- Về ngữ âm : Sử dụng
đúng và tốt hệ thống ngữ
âm cụ thể (tránh ngữ âm
địa phương). Dùng tốt
ngữ điệu.
- Về từ ngữ : Cho phép
sử dụng lớp từ ngữ hội
thoại.
3. Về mặt bên trong hệ
thống ngôn ngữ
- Về chữ viết : Viết đúng
chuẩn chính tả, dùng tốt
dấu câu, tuân thủ nghiêm
các quy định hình thức
của các VB pháp quy.

- Về từ ngữ : Tránh dùng
lớp từ ngữ hội thoại,
chọn dùng các từ ngữ
phù hợp với PCCN của
VB.
- Về câu : Thừơng dùng
câu ngắn gọn, có thể dùng
câu tỉnh lược nhiều bộ
phận, kể cả tỉnh lược đồng
thời C và V.
Nhiều khi dùng những từ
ngữ lặp, thừa trong câu
mà không nhằm mục đích
diễn đạt tu từ.
- Về câu : Có thể dùng
câu ghép dài, nhiều bậc,
câu tỉnh lược chủ ngữ và
bổ ngữ trong hoàn cảnh
cụ thể.
5.Văn bản- khái niệm và những
đặc trƣng cơ bản
 5.1 Khái niệm
Văn bản (text) là sản phẩm của hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ. Nó vừa là sản phẩm vừa là
phương tiện của hoạt động giao tiếp.
Văn bản thường bao gồm một tập hợp nhiều
câu, nhưng có trường hợp tối thiểu chỉ có một câu
(ca dao, châm ngôn, tục ngữ, được ghi lại). Còn
tối đa, văn bản có thể là một tập sách hoặc một bộ
sách nhiều tập.

 “Văn bản là một hệ thống gồm một chuỗi
câu được sắp xếp theo trật tự hình tuyến và
được tổ chức chặt chẽ. Trong đó mỗi câu là
một đơn vị liên kết trong văn bản. Các đơn
vị trong văn bản tổ hợp, gắn bó với nhau tạo
thành một cấu trúc hoàn chỉnh nhằm thực
hiện một ý đồ giao tiếp chung.”
(Đình Cao- Lê A, Làm văn, GD, 1989)
5.2. Những đặc trưng cơ bản
 a. Tính chỉnh thể
Dù dung lượng văn bản lớn nhỏ thế nào nó
cũng cần phải là một sản phẩm ngôn ngữ mang
tính chỉnh thể. Văn bản là một tập hợp của nhiều
câu, nhiều đoạn, nhiều chương, nhiều phần
nhưng các bộ phận này phải tạo thành một thể
thống nhất hoàn chỉnh.
Tính chỉnh thể thể hiện ở :
 Tính trọn vẹn về nội dung
Nghĩa là một văn bản dù ngắn hay dài đều thể hiện
một nội dung trọn vẹn.
Tính trọn vẹn về nội dung còn biểu hiện ở sự nhất
quán về chủ đề. Mỗi văn bản tập trung vào việc thể hiện
một chủ đề nhất định.
 Tính hoàn chỉnh về hình thức
Tính chỉnh thể của văn bản bộc lộ ở kết cấu: tiêu đề,
phần mở, phần thân, phần kết (ở các văn bản đủ lớn).

 b. Tính liên kết
Đó là những mối quan hệ qua lại chặt chẽ giữa
các câu, giữa các đoạn, giữa các phần, giữa các bộ

phận của một văn bản. Chính tính liên kết này
cũng là cơ sở để tạo nên tính chỉnh thể của văn
bản.
Tính liên kết thể hiện ở cả hai phương diện :
- Liên kết nội dung
- Liên kết hình thức.

×