Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tieu su hinh anh cac nha van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.21 MB, 28 trang )

Tổng tập
các nhà văn thế giới trong chương trình Ngữ văn THCS
Mục lục
Tác giả Quốc gia Trang
1
Tago
(Tagore - Đại thi hào Ấn độ - Danh nhân văn hoá thế giới, giải thưởng Nobel văn
học năm )
MÔPAXĂNG G. Đ.:
(Guy de Maupassant; cg. Môpatxăng; 1850 - 93), nhà văn Pháp. Học trường dòng Yvơtô (Yvetot), rồi
học luật. Yêu văn chương từ
nhỏ. Nhập ngũ từ 1870, dự
cuộc tháo chạy khủng khiếp
của quân đội Pháp trước quân
Phổ; nhiều đề tài truyện ngắn
của Môpaxăng lấy ở cuộc
chiến tranh ấy. Làm việc ở Bộ
Hải quân, rồi Bộ Giáo dục; tiếp
xúc với nhiều kẻ "cạo giấy" tầm
thường, và sau này sẽ là
những nhân vật trong truyện
của Môpaxăng. Năm 1876, gia
nhập nhóm Mêđăng (Médan),
xung quanh nhà văn Zôla Ê. (É.
Zola). Chịu nhiều ảnh hưởng
của Flôbe G. (G. Flaubert) và
Zôla. Năm 1880, nổi tiếng với
truyện "Viên mỡ bò" trong tập
truyện "Những trôi nổi ở
Mêđăng" của nhiều nhà văn
trẻ. Từ đó, chuyên viết văn.


Những năm 1881 - 90, viết 300
truyện ngắn và 6 tiểu thuyết.
Các tiểu thuyết: "Một kiếp
sống" (1883), "Anh bạn điển
trai" (1885) Từ 1884, bị bệnh
tâm thần rồi chết trong đau
khổ.
ANĐECXEN H. C.:
Hans Christian Andersen; 1805 - 75),
nhà văn Đan Mạch. Sinh trong một gia
đình nghèo, cha là thợ giày. Ham thích
văn thơ từ nhỏ nhưng được học rất ít.
Năm 1819, bỏ quê hương tới
Côpenhaghen, ước mơ trở thành nhà
thơ. Năm 1822, nhờ Côlin (J. Collin)
(giám đốc một nhà hát) giúp đỡ,
Anđecxen được đi học thêm, đỗ tú tài rồi
vào đại học (1828). Với tập thơ "Đứa trẻ
hấp hối" (1827) và nhất là tập thơ văn
xuôi "Cuộc hành trình đi bộ từ kênh
Hônmen đến mỏm phía đông của
Amagiê" (1829), tên tuổi Anđecxen bắt
đầu được biết đến. Từ 1830, đi du lịch
Đức, Thuỵ Sĩ, Pháp, Italia , cho in thêm
một số tập thơ và cuốn tiểu thuyết đầu
tiên "Người ứng tác" (1835) được dư luận
đánh giá là kiệt tác. Năm 1835, tại Italia, bắt đầu sáng tác một số truyện kể lấy nhan đề "Chuyện kể cho
trẻ em". Từ đó, hầu như mỗi năm
Anđecxen cho ra một tập truyện. Tổng số
168 truyện. Rất nhiều truyện trở thành

quen thuộc với bạn đọc đủ mọi lứa tuổi
khắp năm châu, như "Nàng công chúa
và hạt đậu", "Nàng tiên cá", "Bộ quần áo
mới của hoàng đế", "Bầy thiên nga", "Cô
bé bán diêm", vv. Truyện của Anđecxen
nhẹ nhàng, tươi mát, toát lên lòng yêu
thương con người, nhất là những người
nghèo khổ và niềm tin vào sự thắng lợi
cuối cùng của cái thiện, cái mĩ trên thế
gian. Anđecxen còn viết tiểu thuyết: "Hai
bà nam tước" (1848), "Pie may mắn"
(1870) ; một số tác phẩm du kí ("Tây
Ban Nha", 1853; "Thăm Bồ Đào Nha",
1866) và tự truyện "Chuyện đời tôi"
(1855).
ĐỖ PHỦ:
(Du Fu; tự: Tử Mỹ; hiệu: Thiếu Lăng; 712 - 770), nhà thơ Trung
Quốc. Quê: huyện Củng (Gongxian), tỉnh Hà Nam (Henan)
(Trung Quốc). Xuất thân gia đình phong kiến, có truyền thống
sáng tác thơ ca, giữ một chức quan nhỏ, quản lí kho quân giới
ở Kinh Triệu (Jingzhao), sống nghèo khổ. Gặp thời loạn An Lộc
Sơn (An Lushan), mang vợ con theo đám nạn dân, trải qua mọi
cực khổ của người dân chạy loạn nên có điều kiện gần gũi và
thấu hiểu cuộc sống cực nhục của nhân dân, cuối cùng lưu lạc
đến vùng tây nam [Tứ Xuyên (Sichuan)] rồi chết ở Lỗi Dương
(Leiyang) trên một chiếc thuyền con ở bến sông Tương
(Xiangjiang). Thơ Đỗ Phủ phản ánh chân thực các cảnh tượng
xã hội đời Đường (Tang) trong quá trình chuyển biến từ cực
thịnh đến suy vong, những sự phân hoá, thối nát ngay trong hàng ngũ quý tộc. Thơ Đỗ Phủ được mệnh
danh là "thi sử", phản ánh được những bước chuyển biến trong tư tưởng từ chỗ hi vọng vào giới nho sĩ

với giấc mộng "mũ dài đai rộng" đến chỗ chán nản, thất vọng trước cảnh xâu xé lẫn nhau trong triều
đình, thảm hoạ của bao năm chinh chiến đẩy dân đen vào cảnh lưu li, chết chóc. Tâm trạng bi quan
chán nản trộn lẫn với sự đồng cảm sâu sắc với vận mệnh đau khổ của quần chúng. Tính phức tạp trong
thơ đã làm cho Đỗ Phủ trở thành "tập đại thành của thi ca hiện thực" đương thời. Có "Đỗ Lăng tập"
khoảng 1.400 bài. Những bài thơ được truyền tụng nhất là "Tam lại" ("Tân An lại", "Đồng Quan lại",
"Thạch Hào lại"), "Tam biệt" ("Tân hôn biệt", "Thuỳ lão biệt", "Vô gia biệt"), "Binh xa hành" Ngoài những
bài thơ lấy xã hội làm đề tài, Đỗ Phủ còn làm nhiều bài tả các mặt khác của cuộc sống (cảm hoài, vịnh
vật, đề hoạ, hoài cổ) với nghệ thuật tinh xảo, mang phong cách độc đáo, không gò bó theo một hình
thức nào. Đỗ Phủ cũng dày công lao động sáng tác, khổ tâm tìm tòi về nghệ thuật thơ ca. Ảnh hưởng
của Đỗ Phủ vô cùng sâu sắc. Tinh thần hiện thực vì nhân dân mà sáng tác thơ ca của Đỗ Phủ có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển thơ ca đời Đường và các đời sau.
FLÔBE G.:
(Gustave Flaubert; 1821 -
80), nhà văn Pháp. Học trung
học ở Ruăng (Rouen) (1832 -
39), học luật (1842 - 44). Yêu
văn học từ nhỏ. Ở Pari, tiếp
xúc với nhiều nhà văn và
nghệ sĩ. Tác phẩm chính: "Bà
Bôvary" (1857), "Giáo dục
tình cảm" (1869), "Ba truyện
kể" (1877), "Buva và
Pêquysê" (1881). Flôbe là
một nhà văn nổi tiếng về tính
chính xác, nghiêm ngặt của
chữ, câu; kết cấu truyện chặt
chẽ; văn Flôbe có nhịp điệu,
ăn khớp với tư duy, tình cảm
và gợi nhiều cảnh tượng.
Ngòi bút khách quan, lạnh

lùng, đi sâu vào tâm lí. "Bà
Bôvary" là tác phẩm xuất sắc
nhất, tái hiện một tâm hồn
nhiều ảo vọng, song gặp
những hoàn cảnh sống tầm
thường, lừa đảo, xấu xa,
đồng thời miêu tả một xã hội
trì trệ, ao tù, quê kệch, trong đó con người ngụp lặn một cách mệt mỏi và tuyệt vọng. Tính cách "Bôvary"
(bovarysme) trở thành một thành ngữ trong ngôn ngữ Pháp nói về sự không ăn khớp giữa ảo vọng lãng
mạn và cái tầm thường, thô kệch của cuộc sống.
ĐICHKEN Ch.:
(Charles Dickens; 1812 - 70),
nhà văn Anh. Xuất thân trong một
gia đình công chức trung lưu,
cuộc sống thiếu thốn. Năm 12
tuổi, làm thợ phụ trong xưởng chế
tạo xi đánh giày; 16 tuổi, tự học
tốc kí rồi lần lượt làm thư kí cho
một trạng sư, làm nghề ghi chép ở
nghị viện, toà án, làm phóng viên
báo chí. Năm 21 tuổi, bắt đầu
sáng tác văn chương. Đầu tiên là
một số bút kí, phóng sự lấy bút
danh Bôzơ (Boz). Năm 1837, tiểu
thuyết "Di thư của Hội Picuych"
bắt đầu đăng trên các báo. Tiếp
đó là "Ôlivơ Tuyt" (1838), tiểu
thuyết xã hội lớn đầu tiên của
Đichken; "Nicôlai Nickơnbai"
(1839), tiểu thuyết viết về chế độ

nhà trường hà khắc. Năm 1842,
sau chuyến đi thăm nước Mĩ, xuất
bản "Kí hoạ về nước Mĩ" với ngòi
bút phê phán sắc nhọn. Tác phẩm
khác: "Matin Chazơnuyt" (1843),
"Đâyvit Copơfin" (1850) (tác phẩm
mang tính chất tự truyện nổi
tiếng), "Ngôi nhà ảm đạm" (1853), "Thời buổi khó khăn" (1854), "Cô bé Đorit" (1857), "Câu chuyện hai
thành phố" (1859) Đichken là cây bút hiện thực xuất sắc, miêu tả tài tình xã hội Anh nửa đầu thế kỉ 19.
Đichken phê phán những thói tham lam, ích kỉ, vụ lợi, vô liêm sỉ của giai cấp thống trị, đồng thời biểu lộ
lòng yêu thương sâu sắc đối với những người lao động. Tiểu thuyết của Đichken mang tính chất châm
biếm hóm hỉnh, với cái cười nhẹ nhàng, cũng có lúc chua cay, với tính cách Anh.
ĐIĐƠRÔ Đ.:
(Denis Diderot; 1713 - 84),
nhà triết học duy vật Pháp, nhà
văn, nhà tư tưởng của Cách
mạng tư sản Pháp thế kỉ 18,
viện sĩ danh dự nước ngoài
Viện Hàn lâm Khoa học
Pêtecbua (Nga; 1773). Người
tổ chức và biên soạn "Bách
khoa thư (hoặc Từ điển tường
giải) các khoa học, nghệ thuật
và thủ công nghiệp". Trong các
tác phẩm triết học (cơ sở) "Lá
thư về những người mù cho
những người sáng đọc" (1749),
"Những suy nghĩ giải thích giới
tự nhiên" (1754), " Giấc mơ
của Đalambe" (1769), "Những

nguyên tắc triết học của vật
chất và vận động" (1770),
Điđơrô đã chống lại chủ nghĩa
duy tâm chủ quan. Trong trước
tác "Người cháu họ của Ramô"
viết khoảng năm 1762, Điđơrô
nêu ra những luận điểm của
phép biện chứng. Trong văn
học, Điđơrô đấu tranh cho chủ nghĩa hiện thực [tiểu thuyết "Giăc - kẻ theo thuyết định mệnh và ông chủ
của anh ta" (1773) và truyện ngắn "Nữ tu sĩ" (1760)] mà Điđơrô đã tiến hành đồng thời trong các tác
phẩm phê bình nghệ thuật tạo hình ("Các phòng triển lãm"; 1759 - 81) và sân khấu ("Nghịch lí về diễn
viên"; 1773 - 78).

GACXIA MACKET G.:
(Gabriel García Márquez; sinh 1928), nhà báo, nhà văn Côlômbia. Học luật rồi ra làm báo, biên tập
viên tờ "Khán giả" (El Espectador).
Với tư cách phóng viên tờ báo này,
Gacxia Macket đi thăm nhiều nước
Châu Âu. Sống lưu vong ở Pari
(1955 - 57); đến Vênêxuêla (1959).
Cuộc cách mạng Cuba thành công,
Gacxia Macket cộng tác với Hãng
Thông tấn Prenxa Latina (Prensa
Latina) của Cuba. Sang Mêhicô
(1961) hoạt động trong phong trào
chống chủ nghĩa đế quốc Mĩ ở nước
này. Gacxia Macket được xem là bậc
thầy về nghệ thuật kể chuyện ở Châu
Mĩ Latinh. Mỗi tác phẩm của Gacxia
Macket là một sự kiện văn học quan

trọng. "Đám tang của người mẹ vĩ
đại" (1962), "Trăm năm cô đơn"
(1967) đưa Gacxia Macket lên đài
vinh quang. Được Trường Đại học
Côlômbia tặng bằng tiến sĩ văn học
danh dự (1971). Chính phủ Côlômbia
buộc Gacxia Macket phải lưu vong
sang Mêhicô (1981), cho rằng ông có
liên hệ với phong trào du kích. Xuất
bản tập "Kí sự về một cái chết đã
được báo trước" (1982). Chủ đề chính trong các tác phẩm là sự cô đơn của con người, bạo lực và cái
chết, số phận nghiệt ngã, thói vụ lợi mất hết lương tri trong chế độ tư bản. Gacxia Macket kêu gọi lòng
yêu thương, tình đoàn kết giữa những con người, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời
của chủ nghĩa xã hội ở Châu Mĩ Latinh. Tác phẩm của ông tiêu biểu cho tiểu thuyết hiện thực huyền ảo.
Giải thưởng Nôben về văn học (1982).
GOOCKI M.:
(Maksim Gor'kij; tên thật: Aleksej
Maksimovich Peshkov; 1868 -
1936), nhà văn, nhà viết kịch, nhà
phê bình văn học Nga. Xuất thân
trong một gia đình thợ mộc nghèo.
Sớm ham mê văn học. Năm 1884,
đến Kazan (Kazan'), vừa lao động
kiếm sống vừa tự học. Khao khát lí
tưởng tự do, giải phóng và xây dựng
một cuộc sống mới công bằng, nhân
đạo. Những năm 1888 - 89 và 1891
- 92, Goocki đi khắp nước Nga để
tìm hiểu cuộc sống nhân dân mình.
Năm 1892, đăng truyện ngắn đầu

tay "Maka Chuđra", với bút danh M.
Goocki. Sau đó là một loạt truyện
ngắn "Bà lão Izecghin", "Bài ca chim
ưng", "Vợ chồng Ooclôp" rồi hai
cuốn tiểu thuyết "Fôma Goocđêep"
(1899), "Bộ ba" (1900) khẳng định
tài năng nghệ thuật của Goocki. "Bài
ca chim báo bão" và thiên trường ca
"Con người" chan chứa chủ nghĩa
nhân đạo. Goocki được bầu làm viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm khoa học Nga (1902), nhưng Nga hoàng
đã huỷ quyết định này. Các vở kịch "Bọn trưởng giả", "Dưới đáy", "Những người nghỉ mát", "Những đứa
con của Mặt Trời", "Bọn dã man", "Những kẻ thù" đưa lên sân khấu những vấn đề xã hội - chính trị
nóng bỏng, có sức cổ vũ cách mạng to lớn. Bị chính quyền Nga hoàng trục xuất khỏi quê hương (1905),
Goocki vào Đảng Bônsêvich. Lênin V. I. (V. I. Lenin) và Ban Chấp hành Trung ương Đảng phân công
Goocki ra nước ngoài, tuyên truyền và kêu gọi nhân dân thế giới ủng hộ cách mạng Nga. Goocki sang
Phần Lan, Đức, Pháp, Hoa Kì (1906). Hai tập bút kí "Những cuộc phỏng vấn của tôi" và "Ở Mĩ" là kết
quả của chuyến đi ấy. Cũng trong thời gian này, Goocki hoàn thành vở kịch "Những kẻ thù" và viết cuốn
tiểu thuyết "Người mẹ", mở đầu chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Rời Hoa Kì, Goocki đi Italia, ở
đây đến 1913, viết một loạt tác phẩm: "Một mùa hè", "Thời thơ ấu", "Trên những nẻo đường đất nước
Nga", "Những chuyện nước Ý", nhiều vở kịch và nhiều bài chính luận. Năm 1913, về nước, bắt đầu viết
"Kiếm sống".
Sau cách mạng, Goocki tham gia nhiều công tác văn hoá, xã hội. Bị lao phổi, Goocki ra nước ngoài
chữa bệnh (1921); sáng tác tập cuối thiên tự thuật "Những trường đại học của tôi", hồi kí "V. I. Lênin",
tiểu thuyết lớn "Sự nghiệp gia đình Actamônôp" và bắt đầu xây dựng bộ tiểu thuyết sử thi "Cuộc đời Klim
Xamghin". Năm 1928, về nước. Giai đoạn này, ông viết "Trên những nẻo đường Liên bang Xô Viết",
"Truyện kể về những người anh hùng" và một loạt bài lí luận, tiếp tục viết bộ tiểu thuyết sử thi, ba vở
kịch trong đó có "Êgo Bulưchôp và những người khác". Được tặng thưởng Huân chương Lênin.
GÔGÔN N. V.:
(Nikolaj Vasil'evich Gogol'; 1809 - 52),
nhà văn Nga, người kế tục Puskin A. X.

(A. S. Pushkin), người đứng đầu
"trường phái tự nhiên" (hiện thực phê
phán). Xuất thân từ một gia đình quý
tộc nhỏ ở Ukraina. Học xong trung học,
đến Pêtecbua (Peterburg) lập nghiệp.
Bắt đầu nổi tiếng với tập truyện "Những
buổi tối ở một thôn gần vùng Đikanka"
(1831 - 32). Tập truyện "Miagôrôt"
(1835) mở đầu thời kì sáng tác hiện
thực chủ nghĩa. Truyện "Tarat Bunba"
ngợi ca tinh thần yêu nước chiến đấu,
cuộc sống tự do phóng khoáng và
chiến công anh hùng. "Chiếc áo khoác"
(1842) và những truyện về Pêtecbua
nói về thân phận "con người nhỏ bé".
Hài kịch "Quan thanh tra" (1836) phê
phán bộ máy quan liêu chuyên chế.
"Những linh hồn chết" (tập 1, 1842) là
tiểu thuyết về nước Nga nông nô, là
đỉnh cao trong sáng tác của Gôgôn.
Gôgôn có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga.
ÊRENBUA I. G.:
(Il'ja Grigor'evich Erenburg; 1891 - 1967),
nhà văn Nga Xô Viết, nhà hoạt động xã hội.
Sống nhiều năm ở Pháp, Đức, Tây Ban Nha;
làm phóng viên trong chiến tranh; đại diện cho
các nhà văn Liên Xô tại các hội nghị quốc tế
bảo vệ hoà bình, văn hoá, chống chủ nghĩa
phát xít. Phó chủ tịch Hội đồng Hoà bình Thế
giới (1950), đại biểu Xô Viết Tối cao Liên Xô

(1950). Tiểu thuyết "Khuliô Khurenitô" (1922),
"Pari sụp đổ" (1941) phê phán xã hội tư sản
Châu Âu và chiến tranh đế quốc. "Ngày hôm
sau" (1933) viết về cuộc sống trên đất nước Xô
Viết, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ca
ngợi con người mới. "Bão táp" (1946 - 47) viết
về Chiến tranh thế giới II (1939 - 45). Êrenbua còn có nhiều tập thơ, tiểu luận, phê bình, chân dung văn
học. Tập hồi kí nghệ thuật "Con người, năm tháng, cuộc đời" (1961 - 65) gồm 6 tập, ghi lại những quan
sát và cảm xúc qua nhiều năm hoạt động văn học, xã hội. Giải thưởng Nhà nước Liên Xô (1942, 1948).
Giải thưởng Hoà bình quốc tế Lênin (1952).
ÊXÊNIN X. A.:
(Sergej Aleksandrovich Esenin; 1895 -
1925), nhà thơ Nga. Tốt nghiệp trung học,
đến Matxcơva kiếm sống, tự học văn học
và âm nhạc. Năm 1917, sau khi rời quân
ngũ, đi khắp nước Nga. Nhiệt tình chào
đón Cách mạng tháng Mười. Những năm
1922 - 23, cùng với nữ nghệ sĩ Đuncan I. (I.
Duncan) du lịch sang Đức, Pháp, Bỉ Về
nước năm 1924. Có thơ in từ 1914, những
bài thơ dạt dào tình yêu đối với thiên nhiên
và đời sống nông thôn. Lúc đầu Êxênin ngộ
nhận về cách mạng, khi ở cực này, lúc ở
cực khác, có lúc bị khủng khoảng tư tưởng
trầm trọng, sống phóng túng, buông thả.
Giai đoạn sau, ông mới dứt khoát từ bỏ thế
giới cũ và bày tỏ tâm tình của mình trong
các bài "Trở về tổ quốc", "Nước Nga cũ đã
đi qua", "Nước Nga Xô Viết", "Thư gửi một
người phụ nữ", "Thư mẹ" và "Trả lời".

Trường ca "Pugachôp" (1921) đề cập đến
quyền lợi của giai cấp nông dân trong lịch
sử; trường ca "Anna Xnêghina" (1925) là bức tranh rộng lớn ở nông thôn, ngợi ca các chiến sĩ đấu tranh
cho cuộc sống mới. Thời kì cuối, ông khẳng định lòng tin vào thắng lợi của nhân dân và tổ quốc với: "Bài
ca về cuộc trường chinh vĩ đại" (1924), "Những môtip Ba Tư" (1924 - 25). Sau đó Êxênin lại rơi vào
khủng hoảng tư tưởng, cảm thấy cô đơn (trường ca "Con người tăm tối", 1925). Thơ ông đậm đà tính
cách dân gian, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân gian. Khi sung sức nhất, thơ Êxênin trong sáng,
giản dị, âm điệu uyển chuyển, giàu sức biểu cảm, ngôn ngữ tinh tế, đạt mức cổ điển.
HÔME:
[Ph. Homère, HL. Homêros; theo
Hêrôđôt (Ph. Hé rodote, HL.
Hêrôdotos): ông sống vào thế kỉ 9
tCn.], nhà thơ Hi Lạp cổ đại, người
được coi là tác giả 2 bản anh hùng ca
nổi tiếng "Iliat" và "Ôđixê" . Cho tới
nay, chỉ có những truyền thuyết về
Hôme và các truyền thuyết ấy thường
mâu thuẫn nhau. Có 7 thành phố
giành nhau vinh dự là quê hương của
nhà thơ: Côlôphôn (Colophon), Xume
(Sumer), Pylôt (Pylos), Itac, Acgôt
(Argos), Kio (Chio), Aten (Athènes).
Theo một tài liệu mà người ta cho là
của nhà sử học Hêrôđôt (thế kỉ 5
tCn.), thì Hôme là con một thiếu nữ
mồ côi bị quyến rũ và sinh ra ở cửa
sông Mêlet, nên lúc đầu đặt tên là
Mêlêzigien. Lớn lên, nhờ quen biết
một người chủ tàu tên là Măngtextơ,
ông được đi đây đó, hiểu rộng, biết nhiều, nhất là các truyện phiêu lưu của Uylixơ (Ulysse). Về sau, bị

đau mắt nặng và mù, đi lang thang, làm thơ, kể chuyện thơ để kiếm ăn, cuối cùng ốm chết khi đi ngang
qua hòn đảo nhỏ Iôt (Ios) và được chôn cất trên bãi biển. Vẫn theo tài liệu ấy, "Hôme" là biệt danh, theo
ngôn ngữ ở Xume, "Hôme" có nghĩa là "mù", nhưng lại có tài liệu cho rằng "Hôme" có nghĩa là "con tin",
hình như cha Hôme bị những người dân đảo Sip bán cho người Ba Tư. Theo nhiều học giả về Hi Lạp
hiện nay, Hôme là một nghệ sĩ dân gian có công sưu tầm, chỉnh lí những bài ca truyền thuyết chiến tranh
thành Tơroa (Troie), và "Iliat", "Ôđixê" trước hết là những tác phẩm truyền miệng, mãi rất lâu về sau mới
được ghi lại bằng văn tự.

LA FÔNGTEN J. Đ.:
(Jean de La Fontaine; 1621 -
95), nhà ngụ ngôn Pháp. Được
bầu vào Viện Hàn lâm Pháp
(1684). Học ở Pari, sau đó về
quê ở Satô - Tiery (Château -
Thierry), sống 20 năm giữa
cảnh thiên nhiên rừng núi. La
Fôngten viết nhiều thể loại: thơ,
tiểu thuyết, kịch, truyện, ngụ
ngôn. Tập "Truyện" (1665) được
nhiệt liệt hoan nghênh. Song
chủ yếu La Fôngten là nhà ngụ
ngôn với tập "Ngụ ngôn" (1668 -
94) nổi tiếng. Ngụ ngôn của La
Fôngten có nguồn gốc ở ngụ
ngôn của Êdôp (Ésope), Pheđrơ
(Phèdre), ở ngạn ngữ của
người Hinđu (Hindu), ở truyện
phương Đông. Từ những chất liệu ấy, La Fôngten sáng tạo những bài ngụ ngôn ngắn gọn là công trình
nghệ thuật nhỏ, sống động. Tập thơ "Ngụ ngôn" của La Fôngten là "một vở kịch có trăm hồi khác nhau",
với những ý nghĩa sâu sắc, những lời răn ý nhị, những đối thoại tuyệt diệu, tâm lí nhân vật tinh tế. Đó là

những truyện nhỏ với những tình tiết hấp dẫn, giọng kể vui, dí dỏm, những bi kịch, hài kịch, những bản
anh hùng ca, tình ca réo rắt, đầy chất thơ. Nhân vật là muông thú, cỏ cây, người, họp thành một xã hội
hoạt động, nhốn nháo hay trầm tư, muôn màu muôn vẻ. Có những ngụ ngôn răn dạy luân lí, có những
ngụ ngôn châm biếm. Càng về sau, ngụ ngôn La Fôngten có tầm cỡ những bức tranh xã hội, chính trị
rộng lớn. Từ những năm 1920, thơ La Fôngten đã được Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra tiếng Việt và được
công chúng hết sức yêu thích.
KHUẤT NGUYÊN:
(Qu Yuan; khoảng 340 - khoảng
278 tCn.; tên: Bình, tên chữ:
Nguyên, song xưa nay vẫn quen
gọi: Khuất Nguyên), nhà thơ yêu
nước Trung Quốc. Thân thế có
nhiều điều còn tranh luận. Người
nước Sở, sống nửa sau thời Chiến
Quốc, lúc tình trạng xâu xé giữa 7
nước đi vào giai đoạn quyết định,
cũng là lúc nước Sở từ chỗ cường
thịnh đi đến diệt vong. Khuất
Nguyên từng được trọng dụng dưới
thời Sở Hoài Vương, vì chủ trương
kiên quyết chống Tần nên ông bị
gạt bỏ. Dưới thời Khoảnh Tương Vương, bị đày về Giang Nam. Năm 278 tCn., tướng Tần là Bạch Khởi
đánh chiếm thủ đô Sính của nước
Sở, ít lâu sau, trong tình thế tuyệt
vọng, Khuất Nguyên nhảy xuống
sông Mịch La tự tử. Tác phẩm gồm:
"Thiên vấn" (Hỏi trời), 9 bài trong
"Cửu chương" và kiệt tác "Li tao".
Còn 11 bài trong "Cửu ca", theo ý
kiến chung, là những bài dân ca

nước Sở được Khuất Nguyên cải
biên. Tính dân tộc của thơ Khuất
Nguyên rất sâu đậm: "viết bằng
tiếng nước Sở, làm bằng thanh âm
nước Sở, ghi chép sự việc trên đất
Sở, dùng tên sự vật của nước Sở".
Điểm quán xuyến toàn bộ "Cửu
chương" và "Li tao" là lòng yêu
nước thiết tha, mãnh liệt. "Li tao"
gồm 373 câu, viết theo thể "tao",
một thể thơ do chính nhà thơ sáng
tạo trên cơ sở dân ca nước Sở.
Khuất Nguyên là danh nhân văn hoá đầu tiên của Trung Quốc được thế giới kỉ niệm (9.1953). Thơ ông
đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ thơ Trung Quốc qua các thời đại sau này.
LECMÔNTÔP M. I.:
(Mikhail Jurievich
Lermontov; 1814 - 41), nhà
thơ, nhà văn, nhà viết kịch
Nga, được mệnh danh là "Mặt
Trời thi ca" của nước Nga sau
khi Puskin A. X. (A. S. Puskin)
mất. Sinh trưởng trong một
gia đình quý tộc, học đại học
ở Matxcơva, sĩ quan ở
Pêtecbua (Peterburg),
Lecmôntôp sáng tác khi
Cuộc khởi nghĩa tháng Chạp
thất bại, nhưng cảm hứng
công dân, tinh thần yêu nước,
bất bình và phản kháng, khao

khát đấu tranh cho tự do vẫn
tràn đầy trong tác phẩm của
ông. Về thơ có "Trầm tư",
"Vừa chán lại vừa buồn",
"Nhà tiên tri". Về kịch có "Vũ
hội hoá trang" (1835) với tấn
bi kịch của một con người
giữa thế giới giả trá, không
phân biệt được tốt xấu, ác
thiện, đả kích, phê phán xã hội tư sản sâu sắc, thể hiện tính bi kịch chân chính trong nghệ thuật. Tiểu
thuyết "Người anh hùng thời đại" (1840) với nội dung xã hội tâm lí sâu sắc, phong phú và nghệ thuật đặc
sắc là đỉnh cao về chủ nghĩa hiện thực của Lecmôntôp.

HUYGÔ V.:
(Victor Hugo; 1802 - 85), nhà thơ,
nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch Pháp.
Cha là tướng ở trong quân đội dưới
thời Cách mạng và thời Napôlêông I
(Napoléon I). Thuở nhỏ, sống với mẹ,
chịu nhiều ảnh hưởng của mẹ. Làm
thơ từ nhỏ; 16 tuổi, được giải thưởng
thơ của Viện Hàn lâm Tuludơ. Đứng
đầu nhóm thơ Tao Đàn, gồm nhiều
nhà thơ trẻ đầy tài năng và nhiệt tình,
đại diện cho trào lưu lãng mạn ở
Pháp. Năm 1827, Huygô cho in kịch
"Crômoen" với một bài tựa được xem
là tuyên ngôn của phong trào văn thơ
lãng mạn. Nhiều tập thơ và tiểu thuyết
của Huygô ra đời, mở đường cho một

nền văn chương mới. Danh tiếng
Huygô lừng lẫy. Được bầu vào Viện
Hàn lâm Pháp (1842), Viện Nguyên
lão (1845). Năm 1851, Huygô bước
vào thời kì sáng tác thứ hai. Lu-i
Bônapactơ (Louis Bonaparte) làm đảo
chính đánh đổ nền cộng hoà, thành
lập Đế chế II; Huygô bỏ ra nước
ngoài, sống ở Jecxây (Jersey) và
Guecnơxay cho đến 1870, khi đế chế sụp đổ. Sáng tác chính: "Crômoen" và "Tựa" (kịch, 1827), "Ngày
cuối cùng của một người bị kết án" (truyện vừa, 1829), tập thơ "Những bài thơ Phương Đông" (1829) là
cảm tác trước sự nổi dậy vì nền độc lập của người Hi Lạp chống Thổ Nhĩ Kì, "Hecnani" (kịch, 1830),
"Nhà thờ Đức Bà Pari" (tiểu thuyết, 1831), "Nhà vua vui chơi" (kịch, 1832), "Trừng phạt" (thơ, 1852), tập
thơ "Chiêm ngưỡng" (1856), "Những người khốn khổ" (tiểu thuyết, 1862), "Chín mươi ba" (tiểu thuyết,
1874), "Mariông đơ Loocmơ" (1831), "Truyền kì các thế kỉ" (thơ, 1859 - 83). Huygô là một thiên tài. Ông
đã sáng tạo một nền thi ca, tiểu thuyết, kịch hoàn toàn mới, tiêu biểu cho chủ nghĩa lãng mạn Pháp và
có ảnh hưởng lớn trên văn đàn thế giới. Tựa "Crômoen" đưa ra khái niệm về cái " thô kệch" (grotesque )
làm đảo lộn mọi quan niệm văn chương lúc ấy. Ông đề xướng mĩ học của cái "tương phản", của sự "vận
động từ bóng tối đến ánh sáng", phá huỷ mọi thành trì phân cách máy móc các thể loại và xây dựng
những quan niệm mới, mong đạt tới cái vô biên. Huygô là một nhà văn suốt đời đấu tranh cho tự do, dân
chủ, cho quyền sống của người lao động, phụ nữ và trẻ em.
LỖ TẤN:
[Lu Xun; tên thật: Chu Thụ
Nhân (Zhou Shuren); 1881 -
1936], nhà văn Trung Quốc.
Thời trẻ từng học hàng hải,
rồi học khai mỏ. Sang Nhật
Bản học y, sau chuyển sang
viết văn. Viết nhiều thể loại:
truyện ngắn, bút kí, chính

luận, bút kí trữ tình (thường
gọi là tạp văn), thơ, kịch,
với lòng ưu ái sâu xa là thức
tỉnh đồng bào, chỉ cho họ
con đường giải phóng cuả
chính họ. Lỗ Tấn chịu ảnh
hưởng thuyết tiến hoá cuả
Đacuyn.S (C. R. Darwin),
mượn lí thuyết sinh vật học
này để nói rõ tiến hoá là cần
thiết. Về sau, qua thực tế
đấu tranh xã hội, Lỗ Tấn
tiếp thu chủ nghĩa Mac -
Lênin. Hơn 20 năm sử dụng
ngòi bút như vũ khí, Lỗ Tấn tập trung mổ xẻ các căn bệnh tinh thần cuả đồng bào mình. Biểu hiện tập
trung nhất là "phép thắng lợi tinh thần" được miêu tả sinh động trong thiên truyện vừa nổi tiếng "AQ
chính truyện" (1921). Đó là tác phẩm thể hiện đầy đủ nhất tư tưởng và phong cách nhà văn. Trong hàng
loạt các tập "tạp văn", Lỗ Tấn còn lên án mạnh mẽ các loại kẻ thù của nhân dân, của cách mạng như
bọn phong kiến, bọn quân phiệt tay sai đế quốc, chính quyền tư sản phản động cùng bọn bồi bút chó
săn. Đó là những thế lực đang lợi dụng sự mê muội và sự tự thoả mãn của nhân dân để cản phá con
đường giải phóng dân tộc. Lỗ Tấn còn là nhà nghiên cứu lịch sử văn học, để lại hai bộ sách có giá trị:
"Đại cương lịch sử văn học Hán", "Lược sử tiểu thuyết Trung Quốc". Ngoài ra còn có nhiều tác phẩm
dịch văn học Nga Xô Viết, Đông Âu, Bắc Âu, vv. Lỗ Tấn phát huy đầy đủ thiên chức văn nghệ, hỗ trợ đắc
lực cho công cuộc giải phóng dân tộc, trở thành ngọn cờ của nền văn học cách mạng Trung Quốc.
LÝ BẠCH:
(Li Bai; tự: Thái Bạch; hiệu:
Thanh Liên Cư Sĩ; 701 -762), nhà
thơ đời Đường, Trung Quốc. Bộc
lộ tài hoa từ thuở nhỏ. Giỏi thơ
phú, đọc rộng, biết nhiều. Từ 25

tuổi, đi lãng du khắp nơi. Làm
việc ở Hàn lâm viện một năm
nhưng không được coi trọng, bị
dèm pha, hơn một năm sau rời
Tràng An. Năm Thiên Bảo thứ ba
(774), kết giao với Đỗ Phủ. Khi
xảy ra loạn An Lộc Sơn, ông đã
từng phục vụ cho Vĩnh vương Lý
Lân, vì Lân thất bại nên ông cũng
bị liên luỵ và bị đầy đi Dạ Lang.
Cuối đời lang thang cùng khổ,
chết ở Đương Đồ. Thơ ông thể
hiện tinh thần ngạo mạn, miệt thị
bọn quyền quý phong kiến và phê
phán sâu sắc sự thối nát của nền
chính trị đương thời, thông cảm
với nỗi cực khổ của nhân dân; lên
án các thế lực phiến loạn An Lộc
Sơn, ca ngợi cuộc chiến tranh
giữ gìn sự thống nhất đất nước.
Ông giỏi về miêu tả cảnh sắc
thiên nhiên tráng lệ, diễn đạt tình yêu đất nước non sông. Thơ ông hùng tráng, sảng khoái, tưởng tượng
phong phú, ngôn ngữ tự nhiên, âm điệu hài hoà biến hoá. Là đỉnh cao mới về thơ ca lãng mạn tích cực
sau Khuất Nguyên. Các bài thơ "Thục đạo nan", "Hành lộ nan", "Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt",
"Tĩnh dạ từ", "Tảo phát Bạch Đế thành" được mọi người truyền tụng. Nhưng trong một số tác phẩm
cũng có những nét tiêu cực như thoả sức rượu chè và có ý muốn đi cầu tiên, học đạo. Tác phẩm có "Lý
Thái Bạch tập".
MAIAKÔPXKI V. V.:
(Vladimir Vladimirovich Majakovskij;
1893 - 1930), nhà thơ Nga. Say mê

văn học từ nhỏ. Năm 1909, sau ba lần
bị bắt, Maiakôpxki tuyên bố "Tôi muốn
làm nghệ thuật xã hội chủ nghĩa". Giai
đoạn đầu, Maiakôpxki chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa vị lai; trong
thơ có nhiều hình tượng, câu chữ khó
hiểu, nhưng cảm hứng bao trùm vẫn
là khát vọng cải tạo xã hội, tư tưởng
nhân đạo, niềm tin vào nhân dân và
tinh thần phê phán thực tại xã hội tư
sản. Tác giả các trường ca: "Đám
mây mặc quần" (1915), "Cây sáo -
xương sống" (1916), "Chiến tranh và
thế giới" (1917), "Con người" (1916 -
1917). Sau Cách mạng 1917, viết
những dòng thơ hừng hực khí thế
"Hành khúc bên trái bước" (1918);
trường ca "150 triệu" (1919); vở kịch
"Diệu pháp - trò hề" (1918);
Maiakôpxki rũ bỏ chủ nghĩa vị lai để
trở thành nhà thơ của "giai cấp tiến
công". Nhân vật trữ tình trong thơ
Maiakôpxki những năm 20 thế kỉ 20 không xa rời bão táp cách mạng xã hội, không suy tư ngoài những
vấn đề xã hội.
Kết quả của các chuyến đi Hoa Kì, Đức, Pháp, Cuba là các tập thơ "Pari" (1924 - 25), "Thơ về nước
Mĩ" (1925 - 26). Những bài hay nhất trong những năm này là "Gửi đồng chí Nette - con tàu và người",
"Gửi Xecgây Exênin" (1926), "Thơ về sổ hộ chiếu Xô Viết" (1929). Hai trường ca hay nhất: "Vlađimia
Ilich Lênin" (1924), "Tốt lắm" (1927). Maiakôpxki ca ngợi nhân cách Lênin (V. I. Lenin), ca ngợi cách
mạng, ca ngợi "mùa xuân của nhân loại". Luôn đấu tranh cho thơ ca chân chính trong thời đại mới: "Nói
chuyện với người thanh tra tài chính về thơ", "Một cuộc kì ngộ của Vlađimia Maiakôpxki ở thôn quê mùa

hè" Tiểu luận "Tôi làm thơ như thế nào?". Còn có hai vở kịch đả kích, châm biếm xuất sắc: "Con rệp"
(1928), "Nhà tắm" (1929) mới cả về nội dung lẫn hình thức, đánh dấu sự phát triển của kịch Xô Viết.
Maiakôpxki là nhà thơ vĩ đại của văn học Xô Viết, ảnh hưởng đến nhiều nhà thơ lớn trong nước và trên
thế giới. Thất vọng vì đời sống chung cũng như đời tư, Maiakôpxki tự sát tại Matxcơva năm 1930.
MÔNGTEXKIƠ S. L.:
(Charles Louis
Montesquieu; 1689 - 1755),
nhà văn, nhà triết học, xã hội
học và sử học Pháp, người
đại diện cho khuynh hướng
chính trị của giai cấp tư sản
Pháp thế kỉ 18 và có ảnh
hưởng lớn đến Cách mạng
tư sản Pháp 1789. Ông phê
phán nhà thờ và thần học,
nhưng lại cho rằng tôn giáo
có một vai trò nhất định trong
việc duy trì đạo đức xã hội.
Trong khi phê phán chế độ
quân chủ chuyên chế ở Pháp,
Môngtexkiơ lại đồng thời bảo
vệ tư tưởng thoả hiệp về việc
duy trì một chế độ quân chủ
lập hiến ôn hoà và nêu lên
nguyên tắc phân chia quyền
lực (thuyết phân quyền:
quyền lập hiến, quyền tư
pháp và quyền hành chính); cố gắng tìm cách vạch ra nguyên nhân xuất hiện các chế độ nhà nước,
phân tích các hình thức nhà nước khác nhau, khẳng định luật pháp phụ thuộc vào hình thức cầm quyền
ở mỗi nước. Theo ông, luật pháp không phải do thượng đế quyết định hay chỉ xuất phát từ một nguyên

tắc trừu tượng, như công lí. Môngtexkiơ là một trong những người sáng lập ra trường phái địa lí trong xã
hội học; ông cho rằng bộ mặt tinh thần của một dân tộc, tính chất của luật pháp của một xã hội phụ
thuộc vào khí hậu, đất đai, bề mặt lãnh thổ mà dân tộc đó sinh sống, nghĩa là phụ thuộc vào những điều
kiện địa lí. Môngtexkiơ cũng nhấn mạnh đến vai trò của môi trường xã hội mà theo ông, nó được
đồng nhất với khái niệm chế độ chính trị và luật pháp. Những tác phẩm chính: "Những bức thư Ba Tư"
(1721), "Suy nghĩ về nguyên nhân thịnh suy của người La Mã" (1734), "Về tinh thần của luật pháp"
(1748).

NGUYỄN ĐÌNH THI :
(1924 - 2003 ), nhà văn Việt Nam. Nguyên
quán: làng Vũ Thạch, Hà Nội. Sinh ở Luông
Prabăng (Luang Prabang, Lào); khoảng năm 1930,
theo gia đình về nước. Tham gia phong trào Việt
Minh khi còn là sinh viên (1941), tham gia Hội Văn
hoá Cứu quốc (1943), hai lần bị thực dân Pháp bắt
giam (1942, 1944). Năm 1945, là thành viên Ủy ban
Giải phóng Dân tộc Việt Nam; sau Cách mạng
tháng Tám, làm tổng thư kí Hội Văn hoá Cứu quốc,
đại biểu Quốc hội; thời kì Kháng chiến chống Pháp,
tham gia lãnh đạo Hội Văn nghệ Việt Nam; những
năm 1954 - 89, là tổng thư kí Hội Nhà văn Việt
Nam. Chủ tịch Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội
Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Tác giả hai bài hát
“Diệt phát xít” và “Người Hà Nội”. Nguyễn Đình Thi có nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực: văn học, tiểu
thuyết, thơ, kịch, lí luận phê bình. Về tiểu thuyết, đáng chú ý là các tập “Xung kích” (1951), “Vào lửa”
(1966), “Mặt trận trên cao” (1967) và bộ tiểu thuyết dài “Vỡ bờ” (x. “Vỡ bờ”). Về kịch, có “Con nai đen”,
“Hoa và Ngần”, “Rừng trúc”, “Nguyễn Trãi ở Đông Quan”. Nguyễn Đình Thi mượn tích cổ để gửi gắm
những vấn đề của hiện tại. Những vấn đề ông đề xuất và những xung đột ông khai thác thường xoay
quanh nhiều tình tiết phức tạp, không đơn giản một chiều. Về lí luận phê bình, có hai tác phẩm “Mấy vấn
đề văn học” (1956), “Công việc của người viết tiểu thuyết” (1964), trong đó ông kết hợp vốn hiểu biết văn

hoá rộng và kinh nghiệm của người sáng tác với những khái quát lí luận. Nhiều bài tiểu luận có giá trị lí
luận và vận dụng thực tiễn. Về thơ, cũng có những đóng góp quan trọng. Các tập “Người chiến sĩ”
(1958), “Bài thơ Hắc Hải” (1958), “Dòng sông trong xanh” (1974) và tuyển thơ “Tia nắng” đã xác định vị
trí cao của Nguyễn Đình Thi trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ ông gần với lời nói và mạch cảm nghĩ
tự nhiên. Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996) về cụm tác phẩm “Xung kích”, “Vào lửa”, “Mặt trận trên cao”,
“Vỡ bờ”, “Hoa và Ngần”.
NGUYỄN MINH CHÂU :
(1930 - 89), nhà văn Việt Nam. Quê: xã Quỳnh Hải,
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1950, nhập ngũ,
tham gia hoạt động ở vùng địch hậu Sông Hồng. Từ 1954,
viết văn và công tác tại tạp chí “Văn nghệ quân đội”. Trong
Kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu vào chiến
trường Trị - Thiên - Huế nhiều đợt, cùng sống chiến đấu
và tích luỹ vốn sống chuẩn bị cơ sở cho những tác phẩm
xuất sắc về chiến tranh. Các tập truyện ngắn: “Cửa sông”
(1967), “Những vùng trời khác nhau” (1970), “Người đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành” (1984), “Bến quê” (1985),
“Chiếc thuyền ngoài xa” (1988), “Cỏ lau” (xuất bản sau khi
Nguyễn Minh Châu qua đời, 1989). Tiểu thuyết: “Dấu chân
người lính” (1972), “Miền cháy” (1977), “Những người đi
từ trong rừng ra” (1982). Ngoài sáng tác, Nguyễn Minh
Châu còn viết lí luận phê bình, phần lớn các bài viết được
tập hợp trong cuốn “Trang giấy trước đèn” (1994).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×