Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Đồ án tốt nghiệp Thi công cọc khoan nhồi và tường vây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 76 trang )


ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
BỘ MÔN CÔNG NGHỆ VÀ TỔ CHỨC XÂY DỰNG
PHẦN BA:
THI CÔNG (45%)
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : PGS.TS.TRỊNH QUỐC THẮNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN : NGUYỄN VĂN HIẾU
Nhiệm vụ thiết kế:
- Thi công cọc khoan nhồi và tường vây.
- Thi công phần ngầm. (Semi Topdown)
- Thi công phần thân. (sàn ứng lực trước)
- Lập tiến độ thi công công trình.
- Thiết kế tổng mặt bằng.
Các bản vẽ kèm theo :
TC 01: Thi công cọc nhồi và đào đất
TC 02: Thi công phần ngầm
TC 03: Thi công phần ứng lực trước và vách
TC 04: Thi công phần thân
TC 05: Tổng tiến độ
TC 06: Tổng mặt bằng
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 1

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
Giới thiệu đặc điểm thi công công trình:
1. Vị trí :
Công trình được xây dựng trên một khu đất rộng 6713 m2 tọa lạc tại số 191 Bà
Triệu. Trong đó diện tích xây dựng khoảng 4200 m2. Hình dạng khu dất là hình chữ
nhật khá vuông vắn. Công trình được thiết kế với 02 tầng hầm, 21 tầng nổi và 01 tầng


kĩ thuật mái, với tổng chiều cao +88,70m.
- Mặt chính (hướng tây)của toà nhà quay mặt ra phố Bà Triệu.
- Hướng bắc tiếp giáp với phố Mai Hắc Đế.
- Hướng Nam tiếp giáp với phố Thái Phiên.
- Hướng Đông tiếp giáp với một đường dự kiến xây dựng thông từ phố Bùi Thi Xuân
sang phố Thái Phiên.
Công trình nằm ở giữa các ngã tư là tuyến giao thông chính trong nội thành Hà
Nội nên tương đối thuận lợi cho việc thi công.
Địa hình trong thành phố, bằng phẳng.
2. Kết cấu:
Sơ đồ kết cấu là sơ đồ khung giằng kết hợp lõi chịu lực, hệ sàn dự ứng lực trước
bắt đầu từ sàn tầng 2-22, bước cột là có nhiều kích thước 9m, 10m. Sàn tầng hầm 1,
tầng1 là hệ sàn ô cờ.
Móng sử dụng kết hợp cọc khoan nhồi (1,0m; 1,2m), cọc barrette(1,2x2,8m),
tường vây được sử dụng với mục đích chính là chắn đất cho quá trình thi công và kết
hợp làm tường tầng hầm. Cọc dài 49,75 m, tường sâu 15,75 m so với cốt 00.
3. Điều kiện địa chất thuỷ văn:
Mực nước ngầm ở độ sâu –10m so với cốt ±0,00, do đó khi thi công phần móng
không cần có các biện pháp hạ mực nước ngầm trong quá trình thi công. Chỉ chịu ảnh
hưởng của nước mặt.
4. Hệ thống giao thông điện nước:
Giao thông: Cơ bản là thuận lợi do công trình nằm ngay tại mặt đường của các
tuyến phố chính thành phố, rất thuận lợi cho việc di chuyển máy móc, tập kết vật liệu…
trong quá trình thi công. Tuy nhiên do công trình nằm trong khu vực nội thành nên sự
vận chuyển xe, máy phải tuân theo các yêu cầu của thành phố, như các khoảng thời gian
cho sự vận chuyển bê tông, cần trục, máy móc, thiết bị. Các nguồn cung cấp vật liệu
như bê tông, cốt thép, ván khuôn, các phương tiện vận chuyển gần và dễ huy động.
Điện nước: Sử dụng mạng lưới cung cấp của thành phố do cơ sở hạ tầng có sẵn.
Ngoài ra, để đảm bảo cho việc thi công liên tục và độc lập có thể bổ sung thêm 1 giếng
khoan, một trạm phát điện di động nếu như tính toán thấy cần thiết.

5. Máy móc, thiết bị, vật tư
Giả thiết ở đây là có thể trang bị đầy đủ máy móc, thiết bị, kỹ thuật tốt nhất theo
yêu cầu của người thi như các máy đào cọc Barrrette, tường vây, máy khoan cọc nhồi,
máy đào đất, chuyển đất, cần trục, máy đổ bê tông…Các loại máy móc ở đây lựa chọn
chủ yếu dựa trên những yêu cầu về kỹ thuật mà không hoặc ít chú ý đến vấn đề kinh tế
và điều kiện khả năng cung cấp máy móc thiết bị của một công trường hay doanh
nghiệp trong điều kiện thực tế.
Các vật tư, vật liệu chuyên dụng như bentonite, sản phẩm chống thấm, bê tông
trường nở được sử dụng với giả thiết có thể được cung cấp một cách đầy đủ.
6. Các điều kiện khác
Do công trình nằm ở khu vực trung tâm thành phố, sát với khu dân cư và các
trục đường giao thông… nên chú ý trong quá trình sử dụng các phương tiện thi công
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 2

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
giảm thiểu các ô nhiễm về môi trường. Mặt khác cần có biện pháp che chắn, cách ly các
máy móc gây ô nhiễm và kết hợp với an ninh, trật tự, vệ sinh của khu vực và thành
phố. Việc thi công phần ngầm thường có khả năng gây ra các tai nạn cho người thi công
vì vậy cần đặc biệt chú ý tới các biện pháp an toàn lao động.
A. THI CÔNG PHẦN NGẦM:
Nhiệm vụ thi công phần ngầm:
- Thi công cọc khoan nhồi.
+ Các phương án thi công cọc.
+ Tính toán khối lượng: Bêtông, thép, thời gian, nhân công/máy.
+ Công nghệ thi công cọc.
+ Các sự cố thường xảy ra.
+ Biện pháp quản lý chất lượng cọc.
+ Chọn máy.

+ Sơ đồ di chuyển máy
- Thi công tường vây, cọc barrette.
+ Các phương án thi công cọc.
+ Tính toán khối lượng: Bêtông, thép, thời gian, nhân công/máy.
+ Công nghệ thi công cọc.
+ Các sự cố thường xảy ra.
+ Biện pháp quản lý chất lượng cọc.
+ Chọn máy.
+ Sơ đồ di chuyển máy
- Thi công đất:
+ Các phương án đào, lụa chọn.
+ Tính toán khối lượng: Đất
+ Sơ đồ di chuyển máy.
+ Biện pháp đào, sự cố.
- Thi công các kết cấu hầm móng:
+ Thi công hầm 1
+ Thi công hầm 2
I. Sơ lược phương pháp thi công phần ngầm:
Các phương án thi công phần ngầm:
1. Theo phương pháp truyền thống:
Phương pháp này là phương pháp làm hầm nhà theo kiểu từ dưới lên. Đào đất đến cốt
đáy móng thi công từ móng trở lên đến cốt 0.00.
2. Phương pháp Top- Down:
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 3

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
Phương pháp Top-down là phương pháp làm hầm nhà theo kiểu từ trên xuống. Đối với
những nhà sử dụng tường barrette quanh chu vi nhà đồng thời làm tường cho tầng hầm

nhà nên thi công tầng hầm theo kiểu top-down. Nội dung phương pháp như sau:
+ Làm sàn tầng trệt trước khi làm các tầng hầm dưới. Dùng ngay đất đang có
làm coppha cho sàn này nên không phải cây chống. Tại sàn này để một lỗ trống khoảng
2mx4m để vận chuyển những thứ sẽ cần chuyển từ dưới lên và trên xuống.
+ Khi sàn đủ cứng, qua lỗ trống xuống dưới mà moi đất tạo khoảng không gian
cho tầng hầm sát trệt. Lại dùng nền làm coppha cho tầng hầm tiếp theo. Rồi lại moi
tầng dưới nữa cho đến nền cuối cùng thì đổ lớp nền đáy.
+ Cốt thép của sàn và dầm được nối với tường nhờ khoan xuyên tường và lùa
thép sau. Dùng vữa ximăng trộn với Sikagrout bơm sịt vào lỗ khoan đã đặt thép.
3. Phương pháp Semi Top- Down: ( Phương án Chan):
Là thi công kết hợp 2 phương pháp trên.
Do thực tế thi công nhà cao tầng, các gói thầu thường tách riêng thi công phần
ngầm, và phần thân, chính vì vậy áp dụng vào điều kiện công trường có 2 tầng hầm ta
sử dụng phương pháp đào truyền thống cho tầng hầm 1 kể cả tường vây và làm TOP
DOWN tầng hầm 2 để đẩy nhanh tiến độ, làm song song từ tầng hầm 1 đến cốt 0,00 và
móng đến sàn tầng hầm 1.
Vật liệu:
Bê tông cho cọc là bê tông thương phẩm. Nhà thầu dự kiến sử dụng các nhà máy
bêtông : Việt - úc, Vĩnh tuy, Sunway làm nhà thầu phụ cung cấp bê tông cho công
trình.
- Trước khi thi công phải trình cấp phối cho tư vấn, Bê tông được dùng là bê tông
mác 300, thời gian từ lúc trộn tới lúc đổ không được vượt quá 3 giờ.
- Bê tông phải có độ dính kết và linh động cao để khi đổ bằng ống đổ sẽ cho sản
phẩm bê tông cọc tốt.
- Độ sụt của bê tông 1,8 ± 2 ( cm )
- Tỷ lệ xi măng dùng cho một khối bê tông theo cấp phối đã trình.
- Tỷ lệ nước- xi măng không vượt quá 0,6
- Phụ gia dùng cho bê tông phải được bên tư vấn chấp nhận,
- Cốt liệu dùng cho bê tông phải theo tiêu chuẩn TCVN 1772
- Mẫu bê tông phải được đổ và thử theo tiêu chuẩn TCVN 4453

- Thép dùng cho cọc phải phù hợp theo thiết kế và TCVN 1651
Thép dùng cho cọc tuân thủ theo chỉ dẫn thiết kế, phù hợp với TCXD của nhà nước
Việt nam.
Mối nối lồng thép phải theo yêu cầu thiết kế hoặc theo TCXD 206: 1998.
Thép được vận chuyển tới công trường bằng phương tiện vận chuyển chuyên dụng,
có đủ hồ sơ pháp lý và chấp hành đầy đủ thủ tục lấy mẫu kiểm tra.
Thép ở công trường được bảo quản cẩn thận, che chắn, kê đệm tránh các ảnh hưởng
xấu tác động từ bên ngoài.
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 4

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
Tất cả các vật liệu phải có hồ sơ kỹ thuật của nhà máy, chứng chỉ thí nghiệm của
đơn vị có tư cách pháp nhân.
II. Thi công cọc khoan nhồi:
1. Các phương pháp thi công cọc khoan nhồi :
Trên thế giới có rất nhiều thiết bị và công nghệ thi công cọc khoan nhồi nhưng có
2 nguyên lí được sử dụng trong tất cả các phương pháp thi công là :
- Cọc khoan nhồi có sử dụng ống vách
- Cọc khoan nhồi không dùng ống vách
1.1. Cọc khoan nhồi có sử dụng ống vách :
Loại này thường được sử dụng khi thi công những cọc nằm kề sát với công trình
có sẵn hoặc do những điều kiện địa chất dặc biệt.
- Ưu điểm: thuận lợi cho thi công vì không phải lo việc sập thành hố khoan, công trình
ít bị bẩn vì không phải sử dụng dung dịch Bentonite, chất lượng cọc rất cao.
- Nhược điểm: của phương pháp này là máy thi công lớn, cồng kềnh, khi máy làm việc
thì gây rung và tiếng ồn lớn và rất khó thi công đối với những cọc có độ dài trên 30m.
1.2. Cọc khoan nhồi không dùng ống vách:
Đây là công nghệ khoan rất phổ biến.

- Ưu điểm: của phương pháp này là thi công nhanh, đảm bảo vệ sinh môi trường và ít
ảnh hưởng đến các công trình xung quanh.
Phương pháp này thích hợp với loại đất sét mềm, nửa cứng nửa mềm, đất cát mịn,
cát thô hoặc có lẫn sỏi cỡ hạt từ 20-100mm.
Có 2 phương pháp dùng cọc khoan nhồi không sử dụng ống vách:
1.2.1 Phương pháp khoan thổi rửa (phản tuần hoàn):
Máy đào sử dụng guồng xoắn để phá đất, dung dịch Bentonite được bơm xuống
hố để giữ vách hố đào. Mùn khoan và dung dịch được máy bơm và máy nén khí đẩy từ
đáy hố khoan lên đưa vào bể lắng để lọc tách dung dịch Bentonite tái sử dụng.
Công việc đặt cốt thép và đổ bê tông tiến hành bình thường.
- Ưu điểm : Phương pháp này có giá thiết bị rẻ, thi công đơn giản, giá thành hạ
- Nhược điểm : Tốc độ khoan chậm, chất lượng và độ tin cậy chưa cao.
1.2.2. Phương pháp khoan gầu :
Theo công nghệ khoan này, gầu khoan thường có dạng thùng xoay cắt đất và đưa
ra ngoài. Cần gầu khoan có dạng Ăng-ten, thường là 3 đoạn truyền được chuyển động
xoay từ máy đào xuống gầu nhờ hệ thống rãnh.
Vách hố khoan được giữ ổn đình nhờ dung dịch Bentonite. Qúa trình tạo lỗ được
thực hiện trong dung dịch Bentonite. Trong quá trình khoan có thể thay các gầu khác
nhau để phù hợp với nền đất đào và để khắc phục các dị tật trong lòng đất.
- Ưu điểm : Thi công nhanh, việc kiểm tra chất lượng dễ dàng thuận tiện, đảm bảo vệ
sinh môi trường và ít ảnh hưởng đến các công trình lân cận.
- Nhược điểm : Phải sử dụng các thiết bị chuyên dụng giá đắt, giá thành cọc cao.
Phương pháp này đòi hỏi quy trình công nghệ rất chặt chẽ, cán bộ kỹ thuật và
công nhân phải thành thạo, có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Do phương pháp này khoan nhanh hơn và chất lượng đảm bảo hơn các phương
pháp khác, nên hiện nay các công trình lớn ở Việt Nam chủ yếu sử dụng phương pháp
này bằng các thiết bị của Đức (Bauer), Italia (Soil-Mec) và của Nhật (Hitachi).
 Vì vậy ta chọn phương pháp khoan gầu để thi công.
2.Tính toán khối lượng thi công:
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48

Trang 5

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
2.1. Tính khối lượng thi công cọc nhồi, barrette và tường Barrette:
Chiều dài cọc đổ đến cao trình đổ bê tông: (L)
- Cao trình mặt đất tự nhiên: -0,75 m
- Cao trình mặt sàn tầng hầm 2: -6,55 m
- Cao trình đáy đài: -9,05 m
- Cao trình đáy cọc: -49 m (từ mặt đất tự nhiên)
- Đoạn cọc ngàm vào đài: 0,2 m
- Đoạn bê tông cọc phá bỏ: 1,2 m
 L = 49 + 0,75 – 9,05 + 0,2 + 1,2 = 42,1 m.
Chiều cao tường vây: L= 15.75m
Chu vi tường vây: C = 102+78+37
×
2+2
×
17 = 288 m
Tên Cọc ĐK cọc DT
Chiều
sâu
SL
KL
bêtông
Hàm
lợng
KL cốt
thép
m m2 m cái m3 % T

Cọc D1 1,2x1,2 1,131 42,1 123 5857 0,67 308
Cọc D2 1,0x1,0 0,785 42,1 65 2148 0,67 113
Cọc B1 1.2x2.8 3.36 42,1 62 8770 0,67 461
Tường
vây
0,6x292 175,2 15,5 1 2759 0,67 139
Tổng 19534 Tổng 1021
2.2.Tính số nhân công:
Ta tính số người thi công sao cho việc thi công cọc đảm bảo cho 1 máy đào 2 cọc
trong 1 ngày
Việc tổ chức thi công 3 ca một ngày mỗi tổ đội công nhân làm 1 ngày 2 ca, nghĩa là
cần 1,5 tổ công nhân trên ngày. Vì vậy ta cần phải có 2 tổ đội để luân chuyển. Số
nhân công trong một tổ đội thi công cọc gồm:
Ba thợ lái máy(máy đào hố cọc, máy cẩu phục vụ, máy xúc), 4 thợ lái xe ben chở
đất. Khi thi công cần hai tổ đội công nhân lành nghề. Đội công nhân thứ nhất chuyên
đổ bê tông 6 người, đội thứ 2 chuyên gia công cốt thép trong xưởng 6 người. Tổng số
công nhân trong một tổ là 19 người.
Ngoài ra công trường cần có ít nhất 1 cán bộ chỉ huy, một phó chỉ huy, một kế
toán, một thử kho, ba kỹ sư giám sát thay phiên nhau làm việc. Một thợ cấp điện, một
thợ nước, hai bảo vệ, một cấp dưỡng. Cần 1 kỹ sư và một tổ đội công nhân khoảng 4
ngưòi chuyên phụ trách về trộn và cấp dung dịch bentonite. Tổng số cán bộ là 17
người.
Như vậy tổng số công nhân thi công trong 1 ngày là 2x19+17=55 người.
2.3. Tính thời gian thi công cọc nhồi, barrette:
- Lắp gầu đào và di chuyển máy: 45 phút.
- Đào tạo lỗ: Chiều dài lỗ đào 49 m, tốc độ đào trung bình 8m/h thì thời gian đào có
kể đến hệ số điều kiện làm việc là:
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 6


ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
phht 41592,6
5,8
49
2,1 ≈=×=
- Chờ lắng sau khoan 45 phút
- Hạ lồng cốt thép: 20 phút.
- Lắp hạ khớp nối tường vây: 20 phút.
- Lắp ống đổ bê tông: 45 đến 60 phút/1 ống. Với 2 ống đổ cần 120 phút.
- Xử lý cặn lắng :
+ Chờ cặn lắng: 20 phút
+ Xử lý lọc cặn : 30 phút
- Thời gian đổ bêtông: tốc độ đổ bê tông trung bình có tính đến thời gian đổ cộng
thêm thời gian tháo dần ống đổ bê tông, thời gian luân chuyển giữa hai phễu đổ và
thời gian chờ xe đổ bê tông thương phẩm di chuyển vào và ra vị trí đổ bê tông cọc.
Thời gian này là 10 phút cho 1 xe bê tông 6m3 . Tổng thời gian đổ bê tông cọc là
10x75/6 = 130 phút.
+ Lấp đất hố cọc: 20 phút.
- Vậy tổng thời gian thi công 1 cọc barrette là:
T = 45 + 418 + 20 + 45 + 120 + 50 + 130 + 20 = 848 phút ≈ 14,1 giờ
- Vậy tổng thời gian thi công 1 cọc nhồi là:
T = 45 + 418 + 20 + 45 + 60 + 50 + 90 + 20 = 748 phút ≈ 12,5 giờ
- Thời gian thi công tường vây:
Do ta thi công tấm panel 600x3600, nghĩa là 2 lần đào. Ta tính toán được
T= 45 + 1,2
×
16/8,5 + 20+45+20+60+50+30+20= 425 phút = 7h
Do trong quá trình thi công còn có thêm nhiều công việc phát sinh:
-Do thi công trong thành phố nên chỉ có thể đổ bê tông vào buổi tối.

-Thời gian chuyển ca, nghỉ giữa giờ
-Hỏng máy…
==>Tuy nhiên do sau khi đào cọc thứ nhất xong thì ta di chuyển máy đào tiến hành
đào cọc thứ 2 luôn, như thế có thể tận dụng được máy đào. và thời gian giữa 2 máy
cách nhau khoảng 10 tiếng. Vì vậy có thể thi công đổ được 2 cọc 1 ngày.
Vậy:
- số lượng cọc khoan nhồi 1,0x1,0 và 1,2x1,2 là: 123+65=188 cọc
Sử dụng 2 máy khoan nhồi, 2cọc/máy/ngày: ==> T=188/2/2= 47 ngày.
- số lượng cọc barrette 1,2x2,8 là: 62 cọc
Sử dụng 2 máy đào nhồi, 2cọc/máy/ngày: ==> T=31 ngày.
-Số lượng tường vây là: 60 tấm.
Sử dụng 2 máy đào nhồi, 2cọc/máy/ngày: ==> T=30 ngày.
2.4. Tính toán cho dung dịch bentonite:
Quy trình cung cấp betonite yêu cầu có các bộ phận sau:
+ Kho chứa betonite
+ Máy trộn hoặc phễu trộn betonite
+ Bể chứa dung dịch betonite mới
+ Trạm xử lý bùn khoan
* Tính thể tích bể chứa dung dịch betonite
- Thể tích dung dịch bentonite phải đảm bảo cung cấp đầy đủ cho quá trình đào và
quá trình thổi rửa hố đào. Có thể tính thể tích này theo công thức sau:
Vtt = n
×
V1
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 7

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
Trong đó:

+ Vtt : thể tích dung dịch betonite cần cung cấp, m3
+ n : hệ số tăng thể tích dung dịch betonite , n = 1,3
+ V1 : thể tích hình học của tất cả các panen hoặc cọc cần đào trong một chu kì
(1 ngày), m3. Lấy cho thể tích lớn nhất của mỗi loại
Dự tính một ngày đào cọc barrette 1 cọc và cọc khoan nhồi có đường kính 1,2m 2 cọc,
1 tường vây thì:
V1tv = 43 m
3
( Tấm panel 0,6x5,5x13m )
V1cn = 47 m
3
Vlcb = 144 m
3
 Vtt = 1,3
×
144 = 187,4 m
3

Để cung cấp và dự trữ bentonite cho quá trình đào ta sử dụng các bể chứa bằng
thép dạng công-ten-nơ có kích thước: dài x rộng = 6
×
2m, cao 2m
 thể tích một bể chứa là 6
×
2
×
2 = 24 m
3

 cần sử dụng số bể chứa là : 187,4/12 = 15,6 ≈ 16 bể

NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 8

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
2.5. Khối lượng đất đào:
Tên Cọc ĐK cọc DT
Chiều
sâu
SL
KL
Đất đào
Xe trở
đất 5m
3
m m2 m cái m3 chuyến
Cọc D1 1,2x1,2 1,131 49 1 55,4 11,1
Cọc D2 1,0x1,0 0,785 49 1 38,5 7,7
Cọc B1 1,2x2,8 3,36 49 1 165 33
Tường vây 0,6x284 6 12,25 1 74 14,7
3. Quy trình công nghệ thi công Cọc khoan nhồi :
3.1. Định vị tim cọc:
Vị trí tim cọc phải được xác định đúng theo bản vẽ thiết kế.
Để xác định tim cọc sẽ dùng một máy toàn đạc hoặc giao hội của hai máy kính vĩ
để xác định vị trí tim cọc.
Trước khi khoan, mỗi tim cọc sẽ được gửi vào các vị trí A, A1, B1 như trên hình vẽ
được đánh dấu bằng 4 cọc thép. Mục đích của việc dùng các điểm gửi này là để
định vị tim cọc khi hạ ống vách. Các điểm này phải được bảo vệ và duy trì đến khi
hạ và kiểm tra xong ống vách.
Hình vẽ:

Tim cọc A A1

2m
1.5m 1.5m
2m
sơ đồ định vị tim cọc
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 9

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
3.2. Dung dịch khoan Bentonit:
- Dung dịch bentonit phải đảm bảo đủ khối lượng cho công tác thi công và đạt yêu cầu
sau (đây là yêu cầu cho dung dịch bentonit trước khi thi công) :
ph > 7
Dung trọng : 1,02- 1,15 t/m
Độ nhớt : 29- 50 giây
Hàm lượng bentonit trong dung dịch : 2- 6% (theo trọng lượng)
Hàm lượng cát : < 6% .
Trên công trường, Bentonit được trộn bằng máy trộn có vận tốc cao và dung dịch
bentonite được chứa trong các thùng chứa. Dung dịch Bentonit thu hồi để dùng lại sẽ
được làm sạch bằng máy lọc cát, nếu thí nghiệm các chỉ tiêu không đạt thì sẽ trộn bổ
xung Bentonit, Sô đa để điều chỉnh các chỉ tiêu vật lý. Trong quá trình thi công khoan
cọc dung dịch Bentonit sẽ được kiểm tra thường xuyên.
Bentonit đưa vào sử dụng phải có chứng chỉ chất lượng (tên nhà sản xuất, đặc tính
kỹ thuật)
3.3. Hạ ống vách:
ống vách được dùng để bảo vệ thành phía trên của hố khoan không bị sập lở. Ông
vách có kích thước đường kính lớn hơn đường kính theo lý thuyết của cọc là 10cm. Độ
dày của ống vách ít nhất là 10mm.

Để hạ ống vách ,đầu tiên khoan lỗ đúng vị trí tim cọc với đường kính lớn hơn đường
kính lý thuyết của cọc ít nhất là 10 cm tới độ sâu tương đương chiều dài của ống vách.
Sau đó hạ ống vách và đầu trên của ống vách cao phải cao hơn mặt đất ít nhất là 20 cm
để tránh cho bùn đất chẩy vào hố trong quá trình thi công và dễ dàng cho việc thi công
đổ bê tông cọc. Ông vách phải được định vị, chèn giữ rất ổn định tránh biến dạng, dịch
chuyển trong quá trình khoan đất, hạ lồng thép và đổ bêtông.
Các phương pháp hạ ống vách:
- Phương pháp rung: Là sử dụng loại búa rung thông thường, để đạt độ sâu khoảng 6
mét phải mất khoảng 10 phút, do quá trình rung dài ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực lân
cận nên để khắc phục hiện tượng trên, trước khi hạ ống vách, người ta đào sẵn một hố
sâu từ 2,5 đến 3 m tại vị trí hạ cọc với mục đích bóc bỏ lớp cứng trên mặt đất giảm thời
gian của búa rung xuống còn khoảng 2-3 phút.
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 10

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
- Phương pháp ép: Là sử dụng máy ép để ép ống vách xuống độ sâu cần thiết. Phương
pháp này chịu được rung động nhưng thiết bị cồng kềnh, thi công phức tạp và năng suất
thấp Sử dụng chính máy khoan để hạ ống vách: Đây là phương pháp phổ biến hiện
nay. Người ta lắp vào gầu khoan thêm một đai sắt để mở rộng hố đào khoan đến hết độ
sâu của ống vách thì dùng cần cẩu hoặc máy đào đưa ống vách vào vị trí và hạ xuống
cao trình cần thiết, dùng cần gõ nhẹ lên ống vách để điều chỉnh độ thẳng đứng. Sau khi
đặt ống vách xong phải chèn chặt bằng đất sét và nêm để ống vách không dịch chuyển
được trong quá trình khoan.
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 11

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU

3.4. Khoan tạo lỗ cọc:
Nhà thầu sử dụng máy khoan tạo lỗ, nhãn hiệu ED - 5500. Đây là máy khoan thuỷ
lực của Nhật Bản , có thể tự khoan và đổ bê tông tới độ sâu- 51m. Máy nặng 45 tấn nên
đường di chuyển của máy trong quá trình thao tác cần đảm bảo tốt, tránh sụt lún, hỏng
hóc máy. Các máy móc luôn được bảo dưỡng và kiểm tra theo lịch công tác nhằm đảm
bảo máy luôn luôn hoạt động tốt.
Khi tiến hành khoan, máy khoan sẽ được định vị vào đúng vị trí và được kiểm tra
thăng bằng, cần khoan được kiểm tra độ thẳng đứng bằng máy kinh vĩ hoặc quả dọi.
Việc kiểm tra này sẽ được thực hiện trong suốt quá trình khoan. Trong quá trình khoan,
việc mô tả các lớp đất sẽ được ghi chép lại. Nếu thấy lớp đất cuối cùng mà mũi cọc cắm
vào khác với lớp đất được miêu tả trong tài liệu khảo sát địa chất thì phải thông báo
ngay cho tư vấn giám sát và chiều sâu cọc sẽ do thiết kế quyết định.
Trong suốt quá trình khoan phải duy trì mức Polymer ít nhất cao hơn mực nước
ngầm1.5 m ngay cả trong quá trình đổ bê tông.
Trong trường hợp đang khoan mực Polymer giảm xuống đột ngột phải báo cho
giám sát và các bên liên quan biết để kịp thời sử lý.
Trong quá trình thi công sẽ áp dụng các biện pháp thích hợp để dung dịch Polymer
không chảy tràn lan ra công trường, như thùng chứa, hố thu, bơm, ống dẫn kín Polymer
thải đi không dùng lại sẽ được sử lý bằng Al2(SO4)3 trước khi đưa ngay ra khỏi công
trường để không làm ảnh hưởng tới môi trường.
Để đảm bảo cọc có khả năng chịu được sức chịu tải theo yêu cầu, trước khi đổ bê
tông đáy cọc phải được làm sạch khỏi các chất lắng đọng như bùn đất, cát lắng.
3.5. Làm sạch đáy hố khoan:
Việc làm sạch đáy hố khoan có thể gồm một hoặc cả hai giai đoạn.
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 12

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
Làm sạch bằng gầu vét.

Khi đã khoan tới độ sâu yêu cầu, sẽ chờ một khoảng thời gian nhất định (ít nhất là
một giờ hoặc theo tiêu chuẩn TCVN 206), để cho tất cả các chất lắng động lắng hết.
Sau đó dùng gầu vét chuyên dùng có đáy bằng để làm sạch hố khoan.
Làm sạch bằng thổi khí.
Sau khi làm sạch bằng gầu vét và hạ lồng thép, nếu kiểm tra thấy độ sạch của đáy hố
khoan đạt yêu cầu thì tiến hành làm sạch giai đoạn hai. Để làm sạch giai đoạn hai, sẽ
hạ một ống thép có đường kính 92 mm xuống tận đáy hố khoan, một vòi ra ở độ sâu 60
cm cao hơn đầu dưới của ống thép sẽ được nối với máy nén khí có công suất 5m3 /
phút. Đầu trên của ống thép được nối với máy lọc cát bằng ống dẫn dung dịch ( như
trên hình vẽ ). Polymer sẽ được bơm trực tiếp từ đáy hố khoan lên qua máy lọc cát và
chứa vào thùng để làm tươi lại. Quá trình này được thực hiện cho tới khi toàn bộ dung
dịch trong hố khoan sẽ được thay bằng dung dịch sạch.
3.6. Hạ lồng thép:
Lồng thép được gia công theo đúng bản vẽ thiết kế. Các thanh thép chủ được nối
với móc treo bằng nối hàn. Các lồng thép được nối với nhau bằng mối buộc hoặc hàn
tuỳ theo thiết kế được duyệt và phải dựa theo tiêu chuẩn.
Lồng thép được treo vào miệng ống vách bằng các thanh thép, các thanh này được
hàn vào ống vách để chống đẩy nổi lồng. Lồng thép được treo đầy đủ các vật kê để đảm
bảo lớp phủ bê tông bảo vệ đạt đúng theo thiết kế.
Khi hạ lồng thép phải chú ý cho lồng thép thẳng đứng tránh cắm vào thành làm sụt
lở, các lồng thép được nối với nhau phải đủ chắc tránh làm cho lồng bị tụt rơi.
ống siêu âm được hàn vào cốt thép cọcvà thi công đồng thời cùng quá trình thi
công, hạ lồng thép.
3.7. Đổ bê tông:
Khi đảm bảo đáy hố khoan đã sạch, bắt đầu hạ ống đổ bê tông. ống đổ bê có đường
kính trong là 250 cm và đường kính ngoài là 275 cm. Các đoạn ống đổ được nối với
nhau, giữa các ống có đặt gioăng cao su nhằm làm cho ống kín nước.
Khi bắt đầu đổ bê tông, ống đổ được hạ cách đáy hố khoan nhiều nhất là 20 cm.
Để đảm bảo lớp bê tông ban đầu không bị nhiễm bẩn dung dịch khoan, một lớp
ngăn cách bằng bọt xốp sẽ được cho vào trong ống.

Quá trình đổ bê tông phải diễn ra liên tục, phải đảm bảo ống đổ bê tông sạch, kín
nước. Trong suốt quá trình đổ bê tông dung dịch khoan thu hồi phải được bơm sạch
không để chảy tràn lan ra mặt bằng. ống đổ bê tông luôn phải được đảm bảo cắm trong
bê tông ít nhất là 1,5 m.
Trước mỗi lần cắt ống đổ bê tông và sau khi đổ mỗi xe bê tông đều tiến hành do
kiểm tra độ dâng của bê tông nhằm đảm bảo ống đổ luôn cắm trong bê tông và phát
hiện trường hợp hố khoan bị sụt lở hoặc thu hẹp .
3.8. Hạ cột chống tạm :
Cột chống tạm được gia công và chuẩn bị trước cùng với thời điểm gia công
lồng cốt thép. Bao gồm những chi tiết sau:
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 13

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
1. Cột chống bằng thép hình chữ I, kích thước I350, được gia cố bằng các thép
bản
2. Lồng thép định vị cột chống: mục đích nhằm đưa cột chống xuống đúng vị trí
và giữ cho cột chống thẳng đứng khi bê tông chưa đông cứng xong.
Cột được đưa xuống khi vừa đổ bê tông xong khi bê tông còn chưa kịp ninh kết,
bằng cần cẩu. Khi bê tông đã đủ cứng, sau 1-2 giờ thì rút lồng thép lên và rút cả ống
vách lên. Chú ý phải tính đến việc sụt của cao trình bê tông do lượng bê tông cọc chèn
vào khoảng rỗng khi rút ống vách lên. Sau khi rút ống vách xong phải đổ cát đen hoặc
cát sỏi sạn hoặc bê tông gạch vỡ lấp hố cọc lại. Nhìn chung không nên sử dụng lại đất
đã đào lên để lấp hố do đất này thường lẫn bùn, nước nhiều nên không đảm bảo điều
kiện vệ sinh và độ ổn định cho lỗ cọc có thể gây tai nạn lao động cho người công nhân
trong quá trình thi công.
Cột chống tạm phải cắm vào cọc tính từ cốt đập đầu cọc trở xuống ít nhất là 1m,
đảm bảo điều kiện cọc được neo cứng vào trong bê tông.
3.9. Rút ống vách:

Sau khi đổ bê tông cọc xong, ống vách sẽ được rút lên. Khi rút ống vách, vận tốc
rút phải từ từ để bê tông có đủ thời gian choán hết khoảng không phía sau ống vách mà
không bị trộn lẫn với bùn cát
4. Các khuyết tật có thể, và biện pháp kiểm tra :
4.1. Các nguyên nhân chủ yếu gây ra khuyết tật cho cọc
Ta xem xét những nguyên nhân gây hư hỏng liên quan tới các giai đoạn chủ yếu
khi thi công cọc như: đào tạo lỗ và đổ bê tông
Công đoạn đào tạo lỗ:
- Kỹ thuật, thiết bị khoan hoặc loại cọc ấn định kém thích hợp với đất nền
- Sự mất dung dịch khoan bất ngờ (khi gặp hang Các tơ hoặc thạch cao) hoặc sự
trồi lên đột ngột của đất bị sụt lở vào lỗ khoan.
- Quản lý kém trong khi đào hào do sử dụng loại dung dịch không thích hợp
hoặc kiểm tra không tốt
- Sự nghiêng lệch bấp bênh hoặc hệ thống thăng bằng định vị của máy khi gặp
phải đá mồ côi hoặc lớp đá nghiêng. Những sai lệch này phụ thuộc vào hiệu quả và vào
sự kiểm soát của thiết bị dẫn hướng.
- Làm sạch lỗ khoan không đầy đủ
Công đoạn đổ bê tông cọc
- Thiết bị đổ không thích hợp hoặc tình trạng làm việc xấu
- Chỉ đạo quá trình đổ bê tông kém: rút ống đổ, nối ống đổ
- Sự cấp liệu không đều
- Sử dụng bê tông có thành phần không thích hợp
Các dạng khuyết tật chủ yếu thường gặp gồm có:
STT Dạng khuyết tật Nguyên nhân
1 Tiết diện thu nhỏ và ngay dưới đó
tiết diện cọc được mở rộng
Sập vách trong quá trình khoan
2 Cọc bị đứt đoạn Ma sát giữa bê tông và ống chống
quá lớn, công nghệ đổ bê tông và rút
ống chống không thích hợp

3 Mùn khoan tích tụ dưới mũi cọc Làm sạch hố khoan chưa triệt để
4 Bê tông rời Bê tông có độ sụt quá thấp
5 Bê tông không lọt ra ngoài phạm vi Mật độ cốt thép quá cao
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 14

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
lồng cốt thép
6 Cọc bị chuyển vị ngang cục bộ Rút ống chống không đều
4.2. Kiểm tra chất lượng cọc:
4.2.1. Kiểm tra trước khi thi công:
- Cần lập phương án thi công tỷ mỷ, trong đó ấn định chỉ tiêu kỹ thuật phải đạt
và các bước cần kiểm tra cũng như sự chuẩn bị công cụ kiểm tra. Những công cụ kiểm
tra đã được cơ quan kiểm định đã kiểm và đang còn thời hạn sử dụng. Nhất thiết phải
để thường trực những dụng cụ kiểm tra chất lượng này kề với nơi thi công và luôn luôn
trong tình trạng sãn sàng phục vụ. Phương án thi công này phải được tư vấn giám sát
chất lượng thoả thuận và kỹ sư đại diện chủ đầu tư là chủ nhiệm dự án đồng ý.
- Cần có tài liệu địa chất công trình do bên khoan thăm dò đã cung cấp cho thiết
kế để ngay tại nơi thi công sẽ dùng đối chiếu với thực tế khoan, nếu sai khác lớn cần có
biện pháp sử lý.
- Kiểm tra tình trạng vận hành của máy thi công, dây cáp, dây cẩu, bộ phận
truyền lực, thiết bị hãm, các phụ tùng máy khoan như bắp chuột, gàu, răng gàu, các máy
phụ trợ phục vụ khâu bùn khoan, khâu lọc cát như máy bơm khuấy bùn, máy tách cát,
sàng cát.
- Kiểm tra lưới định vị công trình và từng cọc. Kiểm tra các mốc khống chế nằm
trong và ngoài công trình, kể cả các mốc khống chế nằm ngoài công trường. Những
máy đo đạc phải được kiểm định và thời hạn được sử dụng đang còn hiệu lực. Người
tiến hành các công tác về xác định các đặc trưng hình học của công trình phải là người
đươc phép hành nghề và có chứng chỉ.

4.2.2. Kiểm tra trong khi thi công:
Trong quá trình thi công cần kiểm tra chặt chẽ từng công đoạn đã yêu cầu kiểm
tra:
- Kiểm tra chất lượng kích thước hình học. Những số liệu cần được khẳng định:
vị trí từng cọc theo hai trục vuông góc do bản vẽ thi công xác định. Việc kiểm tra dựa
vào hệ thống trục gốc trong và ngoài công trường. Kiểm tra các cao trình: mặt đất thiên
nhiên quanh cọc, cao trình mặt trên ống vách. Độ thẳng đứng của ống vách hoặc độ
nghiêng cần thiết nếu được thiết kế cũng cần kiểm tra. Biện pháp kiểm tra độ thẳng
đứng hay độ nghiêng này đã giải trình và được kỹ sư đại diện chủ đầu tư duyệt. Người
kiểm tra phải có chứng chỉ hành nghề đo đạc.
- Kiểm tra các đặc trưng của địa chất công trình và thuỷ văn. Cứ khoan được 2
mét cần kiểm tra loại đất ở vị trí thực địa có đúng khớp với báo cáo địa chất của bên
khảo sát đã lập trước đây không . Cần ghi chép theo thực tế và nhận xét những điều
khác nhau, trình bên kỹ sư đại diện chủ đầu tư để cùng thiết kế quyết định những điều
chỉnh nếu cần thiết. Đã có công trình ngay tại Hà nội vào cuối năm 1994, khi quyết
định ngừng khoan để làm tiếp các khâu sau không đối chiếu với mặt cắt địa chất cũng
như người quyết định không am tường về địa chất nên đã phải bỏ hai cọc đã được đổ bê
tông không đảm bảo độ sâu và kết quả ép tĩnh thử tải chỉ đạt 150% tải tính toán cọc đã
hỏng.
- Kiểm tra dung dịch khoan trước khi cấp dung dịch vào hố khoan, khi khoan đủ
độ sâu và khi xục rửa làm sạch hố khoan xong.
- Kiểm tra cốt thép trước khi thả xuống hố khoan. Các chỉ tiêu phải kiểm tra là
đường kính thanh, độ dài thanh chủ, khoảng cách giữa các thanh, độ sạch dầu mỡ.
- Kiểm tra đáy hố khoan: Chiều sâu hố khoan được đo hai lần, ngay sau khi vừa
đạt độ sâu thiết kế và sau khi để lắng và vét lại. Sau khi thả cốt thép và thả ống trémie,
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 15

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU

trước lúc đổ bê tông nên kiểm tra để xác định lớp cặn lắng. Nếu cần có thể lấy thép lên,
lấy ống trémie lên để vét tiếp cho đạt độ sạch đáy hố. Để đáy hố không sạch sẽ gây ra
độ lún dư quá mức cho phép.
- Kiểm tra các khâu của bê tông trước khi đổ vào hố. Các chỉ tiêu kiểm tra là
chất lượng vật liệu thành phần của bê tông bao gồm cốt liệu, xi măng, nước, chất phụ
gia, cấp phối. Đến công trường tiếp tục kiểm tra độ sụt Abram's, đúc mẫu để kiểm tra số
hiệu, sơ bộ đánh giá thời gian sơ ninh.
- Các khâu cần kiểm tra khác như nguồn cấp điện năng khi thi công, kiểm tra sự
liên lạc trong quá trình cung ứng bê tông, kiểm tra độ thông của máng , mương đón
dung dịch trào từ hố khi đổ bê tông
4.3. Các phương pháp kiểm tra chất lượng cọc nhồi sau khi thi công xong:
Kiểm tra chất lượng sau khi thi công nhằm khẳng định lại sức chịu tải đã tính
toán phù hợp với dự báo khi thiết kế. Kiểm tra chất lượng cọc sau khi thi công là cách
làm thụ động nhưng cần thiết. Có thể kiểm tra lại không chỉ chất lượng chịu tải của nền
mà còn cả chất lượng bê tông của bản thân cọc nữa.
4.3.1. Phương pháp nén tĩnh OSTERBERG:
Do sức chịu tải của cọc Barrette rất lớn nên không thể dùng thí nghiệm nén tĩnh
như thông thường mà phải dùng thí nghiệm đặc biệt gọi là thí nghiệm OSTERBERG
(do kỹ sư người Mý osterberg phát minh). Hộp OSTERBERG là một kích thuỷ lực lớn
(đường kính 40-87cm) được hàn giữa 2 tấm thép dày 5cm (với cọc nhỏ có thể dùng 1
kích, cọc lớn dùng 2 hoặc nhiều kích để gắn giữa hai tấm thép trên). Hộp được đặt ở
mũi cọc hoặc gần mũi cọc, sẽ hướng các đường dẫn áp lực và các thanh dẫn chuyển vị
(được đặt trong ống bảo vệ) chạy từ trên mặt đất xuống hộp. Các đường dẫn và đường
ống được gắn trong lồng thép, còn hệ hộp OSTERBERG và tấm thép được hàn vào
lồng thép.
Sau đó, lồng thép và các thiết bị trên được hạ xuống hố và đổ bê tông như bình
thường. Khi bê tông cọc đủ cường độ, người ta tăng áp lực cho kích làm việc theo cả
hai phương. Lực đẩy lên kiểm tra sức chịu tải ứng với mặt bên cọc tính từ vị trí hộp lên
mặt đất, lực đẩy xuống kiểm tra sức chịu tải tại tiết diện mũi cọc và đoạn mặt bên cọc
tính từ vị trí hộptrở xuống. Trên mặt đất ta không thấy các khối đối trọng cồng kềnh

như trong phương pháp nén tĩnh thông thường mà chỉ thấy máy bơm áp lực , các đồng
hồ đo nối với dây dẫn và máy tính.
Thí nghiệm bị phá hoại khi cọc bị đẩy lên (đạt ma sát bên giới hạn) hoặc đất bị
lún xuống (đạt sức chống mũi tới hạn). Tải thí nghiệm có thể đạt từ 60T-18000T. Việc
thử tải sẽ tiến hành với tải trọng gấp đôi sức chịu tải thiết kế của cọc. Thời gian thí
nghiệm nhanh thì khoảng 24giờ, nếu yêu cầu chậm thì tối đa cũng chỉ 60 giờ. Sau khi
kiểm tra sức chịu tải của cọc xong, ta có thể bơm vữa CK xuống lấp hệ kích cho cọc
được liên tục.
- ưu điểm:
Đây là phương pháp mới thí nghiệm ở hiện trường và cho ra kết quả rất đáng tin cậy,
khắc phục được nhược điểm của phương pháp nén tĩnh cọc.
- Nhược điểm:
Giá thành cho hộp kích là lớn.
Chưa phổ biến ở Việt Nam.
4.3.2. Phương pháp đo sóng ứng suất:
+ Bộ thiết bị gồm có :
- Búa gây chấn động có trọng lượng khoảng 2kg.
- Đầu đo gia tốc đầu cọc.
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 16

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
- Các bộ phận ghi và phân tích kết quả .
+ Điều kiện áp dụng :
- Tiếp điểm giữa búa gõ và đầu cọc phải đảm bảo tiếp xúc tốt.
- Đầu đo gia tốc vào thân cọc phải thỏa mãn tiêu chuẩn kĩ thuật đo .
Trong điều kiện kĩ thuật chuẩn bị tốt , một ngày một người thao tác vận hành máy có
thể đo được tối đa 350 cọc. Số lượng cọc kiểm tra không nhỏ hơn 50% tổng số cọc .
+Ưu điểm :

Phát hiện các khuyết tật trong phạm vi cho phép nhanh , giá thành chi phí hạ .
Thi công kiểm tra chất lượng nhanh trong bất kì điều kiện nào .
Có thể cho phép kiểm tra được 100% số cọc
+Nhược điểm :
Chỉ phản ánh chính xác tính nguyên vẹn của cọc trong phạm vi chiều dài cọc không
quá 30b (b: cạnh ngắn của cọc ).
4.3.3. Phương pháp khoan lấy mẫu:
Khoan mẫu bàng thiết bị khoan lấy các mẫu bê tông đường kính 50-150mm từ
các độ sâu khác nhau. Quan sát mẫu tại hiện trường đánh giá sơ bộ chất lượng thi công
cọc.
+Ưu điểm: Chất lượng bê tông cọc được xác định một cách trực tiếp.
+Nhược điểm: Số lượng mẫu khoan nhiều làm ảnh hưởng đến sự làm việc liên tục của
cọc, giá thành cao, thí nghiệm mất nhiều thời gian.
4.3.4. Kiểm tra bằng phương pháp siêu âm:
Phương pháp thử là dạng kỹ thuật đánh giá kết cấu không phá huỷ mẫu thử
( Non-destructive evaluation, NDE ). Khi thử không làm hư hỏng kết cấu, không làm
thay đổi bất kỳ tính chất cơ học nào của mẫu. Phương pháp được Châu Âu và Hoa kỳ
sử dụng khá phổ biến. Cách thử thông dụng là quét siêu âm theo tiết diện ngang thân
cọc. Tuỳ đường kính cọc lớn hay nhỏ mà bố trí các lỗ dọc theo thân cọc trước khi đổ bê
tông. Lỗ dọc này có đường kính trong xấp xỉ 60 mm vỏ lỗ là ống nhựa hay ống thép. Có
khi người ta khoan tạo lỗ như phương pháp kiểm tra theo khoan lỗ nói trên, nêu không
để lỗ trước.
Đầu thu phát có hai kiểu: kiểu đầu thu riêng và đầu phát riêng, kiểu đầu thu và
phát gắn liền nhau.
Nếu đường kính cọc là 600 mm thì chỉ cần bố trí hai lỗ dọc theo thân cọc đối
xứng qua tâm cọc và nằm sát cốt đai. Nếu đường kính 800 mm nên bố trí 3 lỗ. Đường
kính 1000 mm, bố trí 4 lỗ Khi thử, thả đầu phát siêu âm xuống một lỗ và đầu thu ở lỗ
khác. Đường quét để kiểm tra chất lượng sẽ là đường nối giữa đầu phát và đầu thu.
Quá trình thả đầu phát và đầu thu cần đảm bảo hai đầu này xuống cùng một tốc độ và
luôn luôn nằm ở cùng độ sâu so với mặt trên của cọc.

+Ưu điểm: thí nghiệm nhanh, giá thành thấp, kết quả chính xác hơn các phương pháp
đo sóng âm, chiều sâu không hạn chế.
+Nhược điểm: không siêu âm được vành ngoài cọc nên không biết có bị hở cốt thép
hay không.
4.3.5. Thí nghiệm nén tĩnh
Các cọc thí nghiệm theo phương pháp giữ tải trọng tùng cấp cho đến hai hoặc ba lần
tải trọng thiết kể. Đối trọng có thể là các cọc neo hoặc chất vật nặng đặt trên một hệ
dầm thép nằm bên trên dám chính. Các kích nén cọc được bố trí sao cho lực nén tổng
nằm ở vị trí tâm cọc. Từ 2 đến 4 đồng hồ thiên phân kể loại hành trình 5cm được dùng
để đo chuyển vị đầu cọc. Một máy kinh vĩ được dùng để kiểm tra độ chuyển dịch hệ gá
đồng hồ (nếu có) và chuyển dịch của hệ đối trọng.
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 17

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
Phương pháp này cho đến hiện nay được coi là phương pháp trực quan, dễ nhận
thức và đáng tin cậy nhất.
Có thể chọn một trong hai qui trình nén tĩnh chủ yếu được sử dụng là qui trình
tải trọng không đổi ( Maintained Load, ML ) và qui trình tốc độ dịch chuyển không đổi
( Constant Rate of Penetration, CRP ).
Qui trình nén với tải trọng không đổi (ML) cho ta đánh giá khả năng chịu tải của
cọc và độ lún cuả cọc theo thời gian. Thí nghiệm này đòi hỏi nhiều thời gian, kéo dài
thời gian tới vài ngày.
Qui trình nén với tốc độ dịch chuyển không đổi ( CRP) thường chỉ dùng đánh
giá khả năng chịu tải giới hạn của cọc, thường chỉ cần 3 đến 5 giờ.
Đại bộ phận các công trình thử tải tĩnh dùng cách chất vật nặng làm đối trọng.
Cho đến nay, chỉ có một công trình dùng phương pháp neo để thử tải đó là công trình
Grand Hanoi Lakeview Hotel ở số 28 đường Thanh niên do Công ty Kinsun ( Thái lan)
thuộc tập đoàn B&B thực hiện.

- Ưu điểm :
Cho kết quả thực tế tại hiện trường, phổ biến tại việt nam.
- Nhược điểm:
Những cọc có sức chịu tải lớn thì pp này không khả thi do đối trọng quá lớn.
4.4. Chọn phương pháp thí nghiệm:
Tuy nhiên trong các phương án trên áp dụng vào điều kiện công trình ta sử dụng:
- Dùng phương pháp nén tĩnh (bằng cách chất vật nặng thử tải 200%) thí nghiệm 4 cọc:
2 nhồi 2 barrette do số lượng cọc và điều kiện địa chất rộng.
- Thí nghiệm 10% số cọc theo phương pháp siêu âm, khi thi công đại trà.
5. Chọn máy thi công:
5.1 Gàu khoan:
- Gầu khoan 3 cách hoặc 4 cánh hợp kim cứng có răng bằng: thích hợp với các loại
đất phổ thông như đất bùn, sét, cát, cát cuội… có trị số thực nghiệm N < 50
- Gầu khoan mà lưỡi khoan có gắn sườn, hoặc đầu khoan cánh và đầu khoan đục đá
kiểu bánh xe, đầu khoan RRC
- Gầu khoan ghép giữa đầu khoan cánh và đầu khoan quay, có thể tạo lỗ trong phạm
vi nham thạch mềm.
==> Chọn: Chọn đầu khoan 3 lá có các đường kính 1m; 1,2m thay đổi đầu khoan cho
phù hợp trong quá trình thi công.
5.1 Chọn máy cơ sở :
Ta có thể lựa chọn máy thi công cọc trên cơ sở các phân tích trên là:
Sử dụng máy ED 5500 của Nhật có :
 có các thông số kĩ thuật:
- Chiều dài giá : 19m.
- Đường kính lỗ khoan : ( 600 – 1500 )mm.
- Chiều sâu khoan : 48m.
- Tốc độ quay của máy : (12 – 14 )vòng/phút.
- Mômen quay : (40 – 51 )KN.m.
- Trọng lượng máy : 36,8T.
- áp lực nến đất : 0,077MPa.

 Ưu điểm của máy khoan ED 5500 là:
- Có thể lắp dẫn trên cùng một máy cơ sở bánh xích
- Năng xuất cao nhờ cơ cấu thuỷ lực và bộ quay có tính năng cao.
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 18

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
- Dễ dàng di chuyển đất từ gầu khoan sang thùng chứa xe tải.
- Nguồn năng lượng có thể dùng hạ ống vách.

6. Sơ đồ di chuyển máy:
Thứ tự thi công cọc theo những chú ý sau:
+ Bắt đầu từ chỗ xa điểm máy vào và kết thúc ở gần điểm máy ra (cửa công trường)
+ Đường di chuyển đi theo hình dích dắc, từ trong ra ngoài, đường di chuyển máy
càng ngắn và dễ dàng càng tốt.
+ Khoảng cách giữa 2 cọc nhồi liên tiếp cách nhau 5D
+ Thời gian thi công giữa 2 cọc nằm trong khoảng cách ≤ 5D phải cách nhau ≥
24giờ
III. Thi công tường vây, cọc barrette:
1. Các phương pháp thi công tường vây:
1.1. Phương án tường trong đất
Hiện tại, theo biện pháp thi công, có 2 loại tường trong đất là tường đổ tại chỗ và
tường lắp ghép. Tường vây dạng lắp ghép thường được sử dụng cho những công trình
có khối lượng tường trong đất lớn, có những đoạn tường dài với kết cấu điển hình,
thường sử dụng khi đã có nhà máy bê tông cốt thép đúc sẵn gần đó để tiết kiệm chi phí
đầu tư. Tường lắp ghép thường đòi hỏi phải sử lý chỗ chống thấm trận trọng hơn. Với
công trình này thì việc làm tường vây lắp ghép là không hợp lý bởi ở nước ta, cụ thể là
Hà Nội và xung quanh Hà Nội chưa có nhà máy làm sản xuất những tấm tường vây lắp
ghép, (nhà máy bê tông Xuân Mai cũng chưa sản xuất loại kết cấu này) mặt khác việc

vận chuyển, thi công những khối panen tường lớn trong điều kiện thành phố chật hẹp
như Hà Nội là không khả thi.
Về dạng tường vây đổ tại chỗ. So với dạng lắp ghép ưu điểm của dạng tường này
là thi công dễ dàng trong điều kiện thành phố trật hẹp, hệ thống máy thi công không
phức tạp và tốn kém như ở dạng lắp ghép, khả năng chống thấm cho tường được giải
quyết khá triệt để. Tuy nhiên thời gian thi công chậm, thường gây ô nhiễm môi trường
lớn trong quá trình thi công (lắp cẩu cốt thép, đổ bê tông, thải rửa betonite …) đòi hỏi
phải có những biện pháp khắc phục.
 Lựa chọn: Trên cở sở phân tích như trên phương án dùng tường bê tông đổ tại
chỗ.
1.2. Biện pháp thi công mối nối của tường trong đất đổ tại chỗ
Biện pháp thi công tường trong đất đổ tại chỗ hiện nay chỉ phân biệt nhau chủ
yếu ở công việc sử lý chống thấm cho tường vây ở vị trí liên kết các tấm panen tường.
Trên cở sở này có thể phân ra các dạng thi công mối nối cho tường vây gồm có:
1.2.1. Mối nối dạng ống nối đầu hay hộp nối đầu
Đây là công nghệ được sử dụng khá phổ biến. Nội dung của nó có thể tóm tắt
như sau:
Người ta hạ lồng cốt thép và ống nối đầu bằng thép rỗng xuống cùng một lúc,
đường kính ống nối đầu thường nhỏ hơn độ dày tường 50mm. Độ dày thành ống 19-
20mm, độ dài mỗi đoạn thường 5-10m. Để thuận tiện sau này nhổ ống lên, thành ngoài
ống bắt buộc phải trơn nhẵn, có thể bôi mỡ bò lên thành ống sau đó dùng cần cẩu đặt
ống vào trong hào. Sau khi bắt đầu đổ bê tông được 2 giờ thì quay đi
21/
vòng tròn
hoặc nhấc lên khoảng 10cm. Thường sau khi đổ bê tông 3-5 giờ thì bắt đầu nhổ ống lên,
thời gian nhổ phải căn cứ mác bê tông, thời tiết quyết định đến thời gian sơ ninh của bê
tông. Khi nhổ lên dùng cần cẩu 30T, lúc bắt đầu cứ cách 20-30 phút thì nhổ lên 1 lần,
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 19


ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
mỗi lần nhổ 30-100cm. Công trình khá lớn nên cần chuẩn bị sẵn giá kích 100-200T
phòng khi phải ứng cứu.
Sau khi nhổ ống lên, hình bán nguyệt bê tông mới đổ xong có bám một lớp keo
kết nước xi măng và hỗn hợp dịch sét ổn định nên bắt buộc phải làm sạch lớp này để
tăng khả năng chống thấm. Sau đó dùng hỗn hợp bê tông mác 200 và 300 độ sụt 5-6cm
đổ vào ống rồi rút dần ống lên, dùng biện pháp rung để làm chặt bê tông, ta được mối
nối chắc có dạng như cọc nhồi.
1.2.2. Mối nối bằng hộp nối đầu:
Thi công mối nối bằng hộp nối đầu giống thi công mối nối ống nối đầu. Chỉ khác
là hình dạng hộp nối đầu phức tạp hơn và khi thi công cốt thép ngang trong hai lồng
thép kế tiếp nối chồng với nhau tạo thành mối nối hoàn chỉnh.
1.2.3. Mối nối dạng dùng gioăng chống thấm CWS (Phương án chọn)
ý tưởng của biện pháp này là tạo ra một màng ngăn nước được đặt vào giữa hai
panen tường. Màng ngăn có thể được làm bằng nhiều vật liệu khác nhau như thép, cao
su, chất dẻo… trong đó thông dụng và hiệu quả nhất tại nước ta hiện nay là biện pháp
dùng gioăng chống thấm CWS và bộ gá lắp của hãng Bachy Soletanche cung cấp.
Lắp dựng và tháo dỡ khớp nối CWS: Trước khi luân chuyển dung dịch
bentonite, các khớp nối CWS được lắp dựng tại đầu các đoạn tường đã đào xong. Các
đoạn tường khởi đầu có khớp nối ở 2 đầu, các đoạn tường tiếp chỉ có khớp nối tại một
đầu và các đoạn tường đóng không có khớp nối. Khớp nối CWS gồm các tấm rời được
liên kết với nhau bằng bulông trong quá trình hạ xuống hố đào. Khớp nối được hạ
xuống quá cốt đáy tầng hầm vài mét hoặc vào tầng ít thấm. Một hoặc hai thanh chắn
nước bằng cao su đặc gắn vào khớp nối (hình vẽ). Người ta có thể dùng chính các máy
đào để lắp dựng và tháo dỡ khớp nối CWS. Khi đào hố đào mới bên cạnh khớp CWS
cũng được sứ dụng để dẫn hướng cho gầu đào một cách hữu hiệu. Sau khi tháo khớp
nối, một nửa phần gioăng chống thấm nằm lại trong phần tường đã đổ bê tông, nửa còn
lại sẽ được thi công nằm trong bê tông của panel tường liền kề .
Cấu tạo khái quát của biện pháp này được trình bày như hình vẽ




NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 20
gio¨ng cao su chèng thÊm
cèp pha chÆn ®Çu

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
Ưu điểm :
+ Tháo dỡ tấm chắn dễ dàng không phụ thuộc vào công tác đổ bêtông, giảm bớt căng
thẳng vào cuối giờ đổ bêtông, dễ dàng tổ chức sản xuất.
+ Tạo đường dẫn hướng rất tốt cho gầu đào khi đào đoạn tường bên cạnh.
+ Cho phép lắp gioăng ngăn nước cao su dễ dàng. Có thể tăng hiệu quả chắn nước bằng
tăng số lượng gioăng cao su lên.
+ Phân đoạn panen đào và đổ bê tông trùng nhau nên thuận lợi cho chế tạo lồng thép và
thi công tường
∗ Biện pháp này: có ưu điểm thi công đơn giản hơn, chống thấm tốt nhưng khả năng
chịu lực tại vị trí mối nối lại thấp, nhất là khi có động đất, có sự chuyển dịch ngang của
nền đất thì tại vị trí mối nối không có khả năng chịu lực cắt.
2. Tính toán khối lượng thi công:
Đã tính toán ở phần cọc nhồi.
2.1.Tính toán khối lượng thi công tường dẫn:
Chọn phương án sử dụng tường dẫn thi công toàn khối. Cấu tạo của tường như
đã thể hiện trên hình vẽ. Do cọc barrette nằm trong tường vây nên tường dẫn được dùng
chung cho cả 2
Khối lượng đào đất:
Đào đất thủ công theo hình thang ngược, đáy dưới rộng 1,25m, đáy trên rộng
1,65m, chiều sâu 1.2m .

Chu vi đào: C = 102+78+37
×
2+2
×
17 = 288 m
 Thể tích đất đào: V = 288
×
(1,25+1,65)
×
1,2/2 ≈ 501 m
3
.
Thể tích đào bằng máy : 0,9V = 451 m
3
Thể tích đào bằng thủ công: 0,1V = 50 m
3
2.2.1. Bê tông cho tường dẫn:
Bê tông lót mác 100, dày 100, rộng mỗi bên 300; khối lượng bê tông lót cho 2
nhánh = 288
×
2
×
(0,3
×
0,1) = 17,3 m
3
Bê tông tường dẫn mác 200, dùng máy bơm hoặc thủ công để đổ. chiều cao
tường dẫn lấy trung bình 1,3m, dày 0,2m
+ Diện tích tiết diện tường dẫn cho 1 nhánh: (1,3
×

0,2) = 0,26 m
2
+ Khối lượng bê tông tường dẫn:V=288
×
2
×
0,26 = 152m
3
.
 Tổng cộng: 17,3 + 152 = 169,3m
3
2.2.2. Lắp dựng và tháo dỡ ván khuôn
+ Diện tích ván khuôn = 1,3
×
288
×
2 = 749 m
2
+ Khối lượng nẹp tính bằng 10% tổng diện tích ván khuôn:
Snep = 0,1
×
749 = 74,9 m
2
Bảo dưỡng và tháo ván khuôn:
Ván khuôn không chịu lực nên sau khi đổ bê tông 1 ngày ta có thể tiến hành tháo
ván khuôn ngay và cho máy tới đào đất cọc hay tường Barrette.
2.2.3.Cốt thép cho tường dẫn
- Sử dụng 10φ14 cho 1 bên tường, cốt đai φ6a300
- Khối lượng cốt thép dọc: (10
×

2)
×
288
×
1,2x10
-3
= 6,96(T)
Khối lượng cốt thép đai : 2
×
([288/0,3 +1]
×
(1,2+0,2)
×
2
×
0,283) = 1,544 (T)
 Tổng khối lượng cốt thép: 6,96+1,544 = 8,5 (T)
2.3. Tính toán thời gian thi công và nhân lực
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 21

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
Công việc Đào đất
Ghép ván
khuôn
Đổ bê tông
Tháo ván
khuôn
Thời

gian(ngày)
1 3 2 2
Số người
25 50 20 35
3. Công nghệ thi công tường vây, cọc barrette:
3.1. Định vị và thi công tường dẫn:
Để cho gầu đào hạ xuống 1 cách chính xác thì ta cần phải làm hệ thống tường dẫn
để dẫn hướng cho gầu đào. Bề rộng của tường dẫn phải rộng hơn bề rộng của gầu
khoảng 50 mm. Ta có thể sử dụng bê tông mác thấp cho tường dẫn (#200 hoặc 150).
3.1.1 Nhiệm vụ tường dẫn là:
+ Dẫn hướng cho gầu đào khi đào lỗ.
+ Neo giữ lồng cốt thép tạo, tạo chỗ đi lại cho công nhân trong quá trình nối lồng cốt
thép và đổ bê tông
+ Chịu lực tác động bề mặt, ngăn nước mưa, nước mặt hoặc đất đá nhỏ trên mặt đất lăn
vào trong hố đào
+ Giúp định vị tim cốt cho tường chắn và giữ ổn định cho lớp bề mặt của hố đào.
3.1.2. Trình tự thi công tường dẫn:
+ Xác định vị trí tường dẫn và tường chắn trên mặt bằng, định vị và dẫn ra ngoài trên hệ
thống cọc ngựa và nẹp ngựa.
+ Đào rãnh hào sâu 1,2m, bề rộng 0,65+ 2x0,3 = 1,25 tại đáy rãnh theo thiết kế, đổ bê
tông lót dày 10cm.
+ Trên lớp bê tông lót, định vị chính xác tường dẫn, lắp dựng cốt thép, dùng thành đất
làm nơi chống giữa ván khuôn để đổ bê tông. Trong trường hợp nếu đào thẳng đứng mà
đất không bị sập thành thì tận dụng luôn đất làm ván khuôn cho tường dẫn. Mặt trong
tường dẫn dùng ván khuôn gỗ hoặc thép để tạo bề mặt phẳng, thuận lợi cho quá trình di
chuyển gầu, lồng thép vào hố đào sau này.
+ Đổ bê tông tường dẫn, tháo ván khuôn sau đó 1 ngày
+ Đổ đất đầm chặt phía trong tường dẫn hoặc phải có các thanh chống để giữ ổn định
thành.
3.1. Dung dịch khoan Bentonit:

Cơ bản giống như đã trinh bày ở phần cọc nhồi.
3.2. Đào tường vây:
Phân chia tường thành các tấm panel
- Khi thi công tường trong đất, trước hết phải phân chia tường theo chiều dài thành
nhiều đoạn thi công với một độ dài nào đó để phù hợp với năng lực, tính chất kỹ thuật
máy móc kỹ thuật hiện có.
-Việc lựa chọn độ dài đoạn panel, về mặt lý luận, trừ khi nó nhỏ kích thước độ dài của
máy đào thì không thể thi công được còn mọi độ dài có thể thi công được mà lại càng
dài càng tốt vì như vậy sẽ giảm được mối nối của tường (vì mối nối là khâu yếu nhất
của tường trong đất), từ đó có thể nâng cao khả năng chống thấm và tính hoàn thiện của
tường. Nhưng trên thực tế độ dài đoạn panel lại chịu sự hạn chế của nhiều nhân tố:
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 22

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
+ Điều kiện địa chất: khi lớp đất không ổn định, đề phòng sụt lở thành hố đào, phải rút
ngắn độ dài đoạn hào, nhằm rút ngắn thời gian đào một tấm panel.
+ Tải trọng mặt đất: nếu xung quanh có công trình xây dựng cao to, hoặc tải trọng mặt
đất lớn thì cũng cần giảm chiều dài đoạn đào.
+ Khả năng nâng của cần trục: căn cứ vào khả năng nâng của cần trục để dự tính trọng
lượng và kích thước của lồng cốt thép, từ đó tính ra chiều dài đoạn đào.
+ Khả năng cung cấp bê tông trong một đơn vị thời gian.
+ Dung tích thùng đựng dung dịch bentonite: thông thường dung tích của thùng không
nhỏ hơn hai lần dung tích của mỗi đoạn đào.
+ Vị trí các mối nối: nên tránh những góc quay hoặc chỗ nối tiếp với kết cấu bên trong
nhằm đảm bảo cho tường trong đất có tính chỉnh thể tương đối cao.
3.3. Làm sạch đáy hố khoan:
Cơ bản giống như đã trinh bày ở phần cọc nhồi.
3.4. Hạ lồng thép:

Lồng thép để đảm bảo không bị cong vênh, méo mó khi cẩu lồng thép thì bố trí các
đai thép gia cường. Tại các vị trí có sàn đâm vào tường chán ta phải đặt các tấm xốp
vào tấm panel để tiện lợi khi thi công sàn và giảm bớt khối lượng bê tông cần phá bỏ.
3.5. Hạ tấm bịt đầu (cốp pha để đổ bêtông cho các tấm panel):
Ta dùng cẩu để cẩu tấm cốp pha lên sau đó dựa vào trọng lượng bản thân của cốp
pha để hạ xuống sao cho thật thẳng.
Để chống thấm giữa 2 tấm panel thì cần sử dụng gioăng cao su chống thấm.
3.6. Đổ bê tông:
Tuỳ vào kích thước tấm panel (đổ riêng hoặc cùng lúc 2,3 tấm) thì dùng 1 đến 2
ống đổ. Sau đó cắm thanh I chờ ( như đã trình bay ở trên)
Các bước thi công tường vây (diaphragm walls):
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 23

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
3.8. Hạ cột chống tạm nếu có:
Cơ bản giống như đã trinh bày ở phần cọc nhồi.
3.9. Phá bỏ tường dẫn
Tường dẫn có thể phá bỏ sau khi đổ bê tông tường vây khoảng 1 ngày, tuy nhiên
để thuận tiên nên phá bỏ cùng với thời điểm đào đất xuống cho tầng hầm. Tường dẫn
được đổ bằng bê tông nên có thể phá đi bằng thủ công với các dụng cụ như: xà beng,
búa tạ, máy phá đầu cọc… Phần tường dẫn phía bên trong công trường bắt buộc phải
phá bỏ để có thể đào đất xuống. Phần tường dẫn bên ngoài nên để nguyên để làm chỗ đi
lại cho công trường sạch sẽ và an toàn.
4. Các sự cố thường xảy ra và phương pháp quản lý chất lượng:
Cơ bản giống như đã trinh bày ở phần cọc nhồi.
5. Máy thi công, lựa chọn :
5.1 - Máy đào hào, gầu đào, máy cơ sở
Để đào hào người ta sử dụng các loại máy móc chuyên dụng. Thiết bị đào hào là

thiết bị chủ yếu để thi công tường liên tục trong đất, do điều kiện địa chất biến đổi rất
lớn nên hiện nay vẫn chưa có loại máy nào có thể thích nghi với mọi điều kiện địa chất.
Do đó căn cứ vào từng loại địa chất và hiện trường khác nhau để lựa chọn các loại thiết
bị thi công đào hào thích hợp.
Máy đào hào hiện nay có thể chia làm 3 loại là: kiểu gầu ngoạm, kiểu quay tròn và
kiểu xung kích.
Phân loại
Phương thức thao tác
Loại máy có tính
đại diện
Bộ phận
đào
Thao tác
đào đất
Phương thức
lên xuống
Kiểugầu
ngoạm
Gầu ngoạm kiều
con sò
Kiểucơ giới
Kiểu áp lực
dầu
Dây cáp
Dây cáp
thanh dẫn
Gầu ngoạm cơ
Gầu ngoạm thuỷ
lực MASAGO
Kiểu quay

tròn
Đầu khoan nhiều
trục đứng
Đầu khoan nhiều
trục ngang
Kiểu phản
tuần hoàn
Dây cáp
Khoan nhiều đầu
Khoan bánh răng
Kiểu xung
kích
Đục bằng
búa tạ
Tuần hoàn
thuận
Tuần hoàn
nghịch
Dây cáp
Thanh dẫn
Búa đơn giản
∗ Máy đào kiểu gầu ngoạm:
Máy đào kiểu gầu ngoạm làm theo quy trình sau: cắt vào khối đất bằng răng gầu
 gom đất vào trong thân gầu  đóng miệng gầu kéo lên  mở gầu để nhả đất 
quay lại vị trí đào đất  lặp lại quá trình trên
Nguyên tắc đào đất là dựa trên trọng lượng bản thân của gầu đào, đất đá sẽ bị sẽ
bị vỡ dưới sức nặng của gầu (gầu được thả tự do từ trên xuống, lưỡi gầu khi cắm ngập
vào trong đất, dùng cáp hoặc thuỷ lực để đóng miệng gầu cắt đất và chuyển đất lên
bằng dây cáp.
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48

Trang 24

ĐẠI HỌC XÂY DỰNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP (KHÓA 2003-2008 ) VINCOM 191 BÀ TRIỆU
Căn cứ trên việc điều khiển việc mở và đóng miệng gầu khi cắt và vận chuyển
đất người ta chia ra làm hai loại gầu đào: gầu ngoạm dây cáp (sử dụng lực căng của cáp
để mở và đóng gầu) và gầu ngoạm thủy lực (sử dụng áp lực dầu để mở-đóng miệng
gầu). Gầu ngoạm áp lực dầu nâng cao lực ngoạm đất của gầu, do đó hiệu quả đào đất
cao hơn do với gầu ngoạm thuỷ lực.
Loại gầu này thích hợp với loại đất rời và dính, có độ đặc chắc vừa phải. Không
đào được loại đất cuội sỏi hay nhiều vật cản, đá mồi côi.
∗ Máy đào kiểu quay tròn
Đào đất bằng đầu khoan quay trên cắt vào khối đất, đất đào đi lên theo dịch sét
tuần hoàn chạy lên trên mặt đất. Quan hệ so với mặt đào có hai loại đào thẳng và đào
ngang. Chia theo số lượng đầu khoan có loại một đầu khoan, loại nhiều đầu khoan,
khoan một đầu chủ yếu để khoan lỗ dẫn, khoan nhiều gầu dùng để đào hào.
Khi đào không cần nhấc gầu đào lên khỏi mặt đất nên hạn chế sự mất vệ sinh do
việc đào đất, độ chính xác cao. Loại gầu đào này có thể đào trên tất cả các loại đất, năng
suất đào rất cao.
∗ Máy đào kiểu xung kích:
Máy đào hào kiểu xung kích có nhiều hình dạng đầu khoan, xung kích phá vỡ
nền đất bằng vận động lên xuống hoặc vận động đổi hướng sau đó nhờ dịch sét tuần
hoàn đẩy đất ra ngoài. Loại máy khoan này rất thích hợp với các nền cuội sỏi.
 Lựa chọn máy đào: với nền đất chủ yếu là đất rời và dính, lớp đất chịu lực ở mũi
cọc dạng dăm sỏi cuội với độ sâu ngàm khoảng 3m, yêu cầu thi công về chất lượng và
độ sạch sẽ vừa phải, đồng thời phụ thuộc vào vấn đề kinh tế và năng lực thiết bị thi
công ở Việt Nam hiện nay thì loại gầm ngoạm là thích hợp nhất. Chọn Gầu ngoạm kiểu
con sò, dùng thuỷ lực
5.2. Lưa chọn gầu đào, và máy cớ sở:
5.2.1. Gầu đào:

Các thông số về gầu ngoặm kiểu con sò của hãng Bachy-Soletanche tại Việt
Nam như sau:
Bề dày gầu Kiểu gầu và trọng lượng gầu
(mm) KL KE KF KJ BAG
400 6.5T
500 6.8T 6.5 6.4T
600 7T 6.8T 6.6T
800 7.5T 7.2T
1000 9T 8.5T 12T 16T
1200 11T 10T 12T 16.5T
1500 12T 17T
Chiều dài gầu (m) 2.5 2.2 và 2.4 1.8 2.8 3.6
Hãng MASAGO (Nhật Bản) cung cấp gầu đào thuỷ lực với các thông số kích thước
gầu là : 600-1745; 700-1795; 800-1825 và 1000-1875.
 Lựa chọn gầu đào: Do kích thước bề rộng cọc và tường là 600, chiều dài là 2500
nên ta dùng 1 loại gầu đào thuỷ lực của hãng Bachy-Soletanche như sau:
Tên gầu Chiều rộng Chiều cao gầu Chiều cao gầu Chiều dài Trọng lượng
NGUYỄN VĂN HIẾU MSSV: 9004_48
Trang 25

×