Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Từ vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.05 KB, 94 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Từ vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, các từ điển, nhất là từ điển trong các
thời kì trước đây, luôn được coi là nguồn tư liệu đáng tin cậy bậc nhất mà chúng
ta không thể bỏ qua. Chúng ta đã có An Nam Dịch Ngữ, rồi từ điển Việt – Bồ -
La, cùng rất nhiều công trình khác nữa. Trong khoảng những năm 30 xuất hiện
Việt Nam Tự Điển (1931) do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo. Cuốn tự điển này
là một nguồn tư liệu quí báu để nghiên cứu từ vựng tiếng Việt đầu thế kỉ XX.
Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề nghiên cứu từ vựng trong Việt Nam Tự Điển vẫn
chưa được ai quan tâm. Nhận thấy vấn đề diện mạo từ vựng tiếng Việt trong Việt
Nam Tự Điển còn bỏ ngỏ, chúng tôi thực hiện khóa luận này với mong muốn
được đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu từ
vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển nói riêng và nghiên cứu vốn từ vựng
tiếng Việt nói chung.
Theo Giáo sư Hoàng Phê, tính đến năm 1998, chúng ta có tới 708 công
trình bằng/gồm tiếng Việt thực sự là từ điển được công bố. Điều đó chứng tỏ từ
vựng tiếng Việt là mối quan tâm của rất nhiều nhà viết sách.
Cuốn Việt Nam Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo từ 1923,
xuất bản từ 1931 đến 1939 tại nhà xuất bản Trung Bắc Tân Văn - Hà Nội và
được tái bản năm 1954 ở Pháp. Như vậy, tính đến nay, công trình này đã ra đời
được 76 năm, là cuốn tự điển được biên soạn khá công phu, rõ ràng, có hệ thống
sắp xếp theo thứ tự A, B, C của bảng chữ cái. Đồng thời Việt Nam Tự Điển còn
là cuốn tự điển phản ánh một khối lượng lớn các mặt đời sống vật chất và tinh
thần của người Việt thông qua các mục từ và giải nghĩa các mục từ. Cần khẳng
định ngay rằng theo dòng lịch sử, trong số những tự điển do người Việt Nam
biên soạn bằng chữ quốc ngữ theo kiểu tường giải, thì Việt Nam Tự Điển đứng ở
vị trí tiếp theo sau Đại Nam Quốc Âm Tự Vị. Đây cũng là cuốn tự điển lấy “từ”
Website: Email : Tel : 0918.775.368
làm đơn vị giải thích chứ không phải chỉ có “tự” (chữ). Trong công trình này,


các từ khó hiểu đã được giải thích một cách tỉ mỉ và kèm theo những ví dụ (văn
liệu) khá phong phú. Chúng tôi nhận thấy Việt Nam Tự Điển có giá trị như một
mốc quan trọng trong quá trình phát triển của lịch sử tiếng Việt. Vì vậy, việc
nghiên cứu từ vựng trong Việt Nam Tự Điển cần phải được chú ý nhiều hơn nữa
để có được những thông tin khái quát về từ vựng tiếng Việt những năm 30.
2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện khóa luận này, mục đích của chúng tôi là tìm hiểu kĩ hơn về từ
vựng tiếng Việt trong Việt Nam tự điển. Cụ thể là chúng tôi sẽ có những khảo
sát để chỉ ra một cách khái quát diện mạo các thành phần từ vựng trong công
trình tự điển này.
Mặt khác, nghiên cứu vấn đề từ vựng trong Việt nam Tự Điển, chúng tôi
còn mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé công sức của mình vào việc
nghiên cứu lịch sử phát triển của tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở để so
sánh vốn từ vựng tiếng Việt những năm 30 của thế kỉ XX với giai đoạn trước nó
và cả quá trình phát triển của lịch sử tiếng Việt về sau đó. Kết quả này sẽ là một
miêu tả khái quát về một trạng thái từ vựng, giúp tăng thêm được những nhận
biết về các trạng thái liên tục hơn của từ vựng tiếng Việt.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do khả năng và thời gian không cho phép tìm hiểu mọi thành phần từ
vựng có mặt trong Việt Nam Tự Điển, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu từ
vựng tiếng Việt theo cấu trúc của đơn vị từ vựng, theo nguồn gốc và phạm vi sử
dụng. Như vậy, chúng tôi mới chỉ khảo sát và miêu tả được một bộ số bình diện
của từ vựng trong Việt Nam Tự Điển, chứ chưa miêu tả được tất cả các mặt của
nó.
4. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của khóa luận gồm 3
chương sau:
Chương I: Cơ sở lý luận và phương pháp làm việc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương II: Nghiên cứu từ vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển theo

cấu trúc của đơn vị từ vựng
Chương III: Nghiên cứu từ vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển theo
nguồn gốc và phạm vi sử dụng
Phần phụ lục của khoá luận sẽ đưa ra một số thống kê mà chúng tôi thấy
cần thiết.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LÀM VIỆC
Để có cơ sở lí luận cho các phân tích trong khoá luận này, trong chương 1
chúng tôi tập hợp và hệ thống hoá lại một số quan niệm lí thuyết về những vấn
đề liên quan như: từ, phân loại từ, cấu trúc của từ và một số vấn đề về từ điển.
1. Quan niệm về từ và từ tiếng Việt
Cho đến nay, trong ngôn ngữ học cách định nghĩa về từ được đưa ra rất
nhiều. Các định nghĩa ấy, về mặt này hay mặt khác đều đúng, nhưng đều không
đủ và không bao gồm được hết tất cả các đơn vị được coi là từ trong các ngôn
ngữ và ngay cả trong từng ngôn ngữ cũng vậy. Tuy nhiên, để có cơ sở thuận lợi
cho việc nghiên cứu, người ta vẫn thường chấp nhận một khái niệm nào đó về từ
tuy không có sức bao quát toàn thể nhưng cũng chỉ để lọt ra ngoài phạm vi của
nó một khối lượng không nhiều các trường hợp ngoại lệ. Trong khoá luận này,
chúng tôi sử dụng định nghĩa sau đây là định nghĩa được nhiều người chấp nhận,
làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu của mình.
“Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ, được vận dụng độc lập,
tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu” [8]
Ví dụ:
xe, nhà, bàn, ghế, sách, vở…
ăn, ngủ, nói, khóc, cười…
ngoan, hiền, xinh, xấu…
Đối với từ của tiếng Việt, nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt mà chỉ chấp
nhận một cách nhìn để làm việc thì quan niệm về từ đã trình bày ở phần trên là
có thể dùng được. Có thể phát biểu lại như sau:

“Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn
chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời
nói để tạo câu” [8]
Về mặt cấu tạo, từ tiếng Việt cũng được cấu tạo từ hình vị nhưng hình vị
của tiếng Việt tương ứng với tiếng, cái mà ngữ âm học vẫn gọi là âm tiết. Các
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đơn vị gọi là tiếng của tiếng Việt có giá trị tương đương như hình vị trong các
ngôn ngữ khác. Chúng có hai đặc điểm cần thiết của một hình vị:
+ Là đơn vị tối giản (đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa).
+ Có giá trị về mặt ngữ pháp.
Tuy nhiên, giữa tiếng của tiếng Việt và hình vị của nhiều ngôn ngữ thuộc
loại hình khác cũng có những điểm khác nhau khá căn bản như sau:
Trước hết, xét về hình thức chúng ta thấy rằng ở các ngôn ngữ thuộc loại
hình khác, ví dụ như ở nhiều ngôn ngữ Ấn - Âu, hình vị chỉ là đơn vị thuần ngữ
pháp, hoàn toàn không có liên quan gì đến cái đơn vị ngữ âm gọi là âm tiết cả.
Hình vị ở các ngôn ngữ này khi thì có dạng ngữ âm là một âm vị, khi thì có dạng
ngữ âm là một tập hợp bất kì của nhiều âm vị (có thể nhỏ hơn âm tiết; bằng âm
tiết; hoặc lớn hơn âm tiết). Vì vậy, xác định âm tiết và xác định hình vị những
ngôn ngữ này là hai quá trình, đưa đến những kết quả khác nhau.
Ở tiếng Việt, tình hình hoàn toàn ngược lại. Giữa hình vị và âm tiết có
mối tương quan rõ rệt. Giữa âm tiết và hình vị bao giờ cũng có một sự tương
ứng một đối một, sự tương ứng hoàn toàn. Mỗi tiếng trong tiếng Việt đứng về
mặt ngữ âm chính là một âm tiết, đứng về mặt ngữ pháp chính là một hình vị.
Cho nên ở tiếng Việt, phân tích câu nói ra thành âm tiết và phân tích câu nói ra
thành hình vị bao giờ cũng đưa đến một kết quả giống nhau: Đó là chia tách câu
nói ra thành từng tiếng một.
Mặt khác, xét về nội dung, hình vị tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nội
dung được thể hiện. Chí ít nó cũng có giá trị hình thái học (cấu tạo từ). Sự có
mặt hay không có mặt của tiếng trong một ngữ đoạn nào đó bao giờ cũng đưa
đến tác động nhất định về mặt này hay mặt khác.

Ví dụ: đỏ - đo đỏ - đỏ chói - đỏ sẫm…
Đến đây có thể kết luận rằng, tiếng trong tiếng Việt không hoàn toàn là
hình vị bình thường như hình vị của nhiều ngôn ngữ khác. Tiếng là một loại
hình vị đặc biệt: một hình tiết, tức âm tiết có giá trị hình thái học.
2. Về mặt cấu trúc của từ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có nhiều tiêu chí để phân chia chúng thành các tiểu loại khác nhau. Nếu
dựa vào sự đồng nhất và khác biệt về phương thức cấu tạo, các từ trong tiếng
Việt được chia thành 2 loại lớn là: từ đơn và từ phức, trong đó từ phức gồm: từ
ghép, từ láy và từ ngẫu hợp.
2.1. Từ đơn
Là những từ được cấu tạo bằng một tiếng (còn gọi là các từ đơn tiết).
Ví dụ: ăn, ngủ, nhà, cửa, vui, buồn…
2.2. Từ ghép
2.2.1. Định nghĩa
Là những từ được tạo nên bằng cách ghép các tiếng lại mà giữa các tiếng
có quan hệ về nghĩa với nhau.
Ví dụ: bàn ghế, sách vở, xe cộ, đường sá, rau cỏ…
2.2.2. Phân loại
Có thể phân loại từ ghép tiếng Việt dựa vào tính chất của mối quan hệ về
nghĩa giữa các thành tố cấu tạo như sau:
 Từ ghép đẳng lập:
Những từ mà giữa các thành tố cấu tạo có quan hệ bình đẳng với nhau về
nghĩa được gọi là từ ghép đẳng lập.
Ví dụ: ăn ở, đi đứng, bàn ghế, nói cười, chó má, gà qué, tre pheo…
Trong loại từ này có thể có hai khả năng:
+ Các thành tố cấu tạo trong từ đều rõ nghĩa. Khi dùng mỗi thành tố như
vậy để cấu tạo từ thì nghĩa của từ đơn và nghĩa của các thành tố cấu tạo không
trùng nhau.
Ví dụ: ăn = ăn ở = ăn nói = ở = nói…

+ Một thành tố rõ nghĩa tổ hợp với thành tố không rõ nghĩa. Trong hầu hết
các trường hợp, những yếu tố không rõ nghĩa này vốn rõ nghĩa nhưng sau bị bào
mòn dần đi ở các mức độ khác nhau. Bằng con đường tìm tòi từ nguyên và lịch
sử, người ta thường xác định được nghĩa của chúng.
Ví dụ: chợ búa, đường sá, tre pheo, chó má, gà qué, cá mú, áo xống…
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Từ ghép đẳng lập biểu thị ý nghĩa khái quát và tổng hợp. Đây cũng chính
là đặc điểm khác biệt của nó với từ ghép chính phụ.
 Từ ghép chính phụ:
Những từ ghép mà có thành tố này phụ thuộc vào thành tố cấu tạo kia đều
được gọi là từ ghép chính phụ. Thành tố phụ có vai trò phân loại, chuyên biệt
hoá và sắc thái hoá cho thành tố chính.
Ví dụ: đường sắt, xanh lè, đỏ au, trắng phau, xe máy, cá diếc, chim sẻ, dưa
lê, máy bay…
Về hai loại từ ghép này, một số tác giả còn gọi chúng với những tên khác
nhau như: từ ghép hợp nghĩa (là những từ ghép do hai hình vị tạo nên, trong đó
không có hình vị nào là hình vị chỉ loại lớn, không có hình vị nào là hình vị
phân nghĩa) và từ ghép phân nghĩa (là những từ ghép được cấu tạo từ hai hình vị
theo quan hệ chính phụ, trong đó có một hình vị chỉ loại lớn (sự vật, hoạt động,
tính chất) và một hình vị có tác dụng phân hoá loại lớn đó thành những loại nhỏ
hơn cùng loại nhưng độc lập với nhau và độc lập đối với loại lớn.
Mặc dù cách gọi tên có khác nhau nhưng về bản chất là như nhau.
2.3. Từ láy
2.3.1. Định nghĩa
Là những từ được hình thành bằng cách tổ hợp các tiếng lại trên cơ sở của
sự hoà phối ngữ âm (vì thế mà các từ này còn được gọi là lấp láy, từ láy âm).
Ví dụ: thình thịch, bùm bụp, thơ thẩn, xinh xinh, khấp khểnh, rì rào…
Trong loại từ này cần phải lưu ý phân biệt từ láy và dạng láy. Một từ sẽ
được gọi là từ láy khi các yếu tố cấu tạo nên chúng có thành phần ngữ âm được
lặp lại, nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp) vừa có biến đổi (còn gọi là đối).

Ví dụ: xinh xắn, nhỏ nhắn, duyên dáng…điệp ở phần âm đầu, đối ở phần
vần.
Vì thế, nếu chỉ có điệp mà không có đối (ví dụ: nhà nhà, ngành ngành,
người người…) thì ta có dạng láy của từ chứ không phải là từ láy.
2.3.2. Phân loại
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kết hợp tiêu chí về số lượng tiếng với cách láy, từ láy trong tiếng Việt có
thể phân loại như sau:
Từ láy gồm hai tiếng (láy đôi)
Từ láy gồm ba tiếng (láy ba)
Và từ láy gồm bốn tiếng (láy tư)
Trong đó loại đầu tiên chiếm chủ yếu.
 Từ láy đôi:
Có các dạng cấu tạo như sau
+ Láy hoàn toàn:
Mặc dù gọi là từ láy hoàn toàn nhưng thực ra bộ mặt ngữ âm của hai
thành tố (hai tiếng) không hoàn toàn trùng khít nhau, chỉ có điều phần đối của
chúng rất nhỏ khiến người ta vẫn nhận ra được hình dạng của yếu tố gốc trong
yếu tố được gọi là yếu tố láy. Các từ láy hoàn toàn có thể chia thành ba lớp nhỏ
hơn:
- Lớp những từ láy hoàn toàn, chỉ đối nhau ở trọng âm (một trong hai yếu
tố được nói nhấn mạnh hoặc kéo dài).
Ví dụ: rượi rượi, rầm rầm, sượng sượng, lăm lăm, lù lù, tàng tàng, thụp
thụp, thuôn thuôn, uôm uôm, xoét xoét, xom xom, xõng xõng…
- Lớp từ láy hoàn toàn, đối nhau ở thanh điệu. Nguyên tắc đối thanh điệu
là: thanh bằng đối với thanh trắc trong mỗi nhóm cùng âm vực; bằng đứng
trước, trắc đứng sau.
Ví dụ: hơ hớ, ngay ngáy, xoi xói, xon xón, tia tía, ri rỉ, re rẻ, ren rén, vành
vạnh, hơn hớn, càu cạu, thoang thoảng…
- Lớp từ láy hoàn toàn, đối ở phần vần nhờ sự chuyển đổi âm cuối theo

quy luật dị hoá:
m – p ng - c
n – t nh – ch
Ví dụ:
phưng phức, phăng phắc…
anh ách, chênh chếch, rinh rích…
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cầm cập, lôm lốp…
+ Láy bộ phận:
Là những từ chỉ điệp ở phần âm đầu hoặc điệp ở phần vần. Láy bộ phận
được chia thành hai lớp:
- Điệp âm đầu, đối ở phần vần:
Ví dụ: tha thiết, thơ thẩn, tròn trịa, mong manh, mềm mại, tinh tế, nhộn
nhịp, nhồm nhoàm, nhức nhối, xôn xao, xuề xoà, xộc xệch…
Trong lớp từ này, có những từ xét về mặt lịch sử vốn không phải là từ láy,
nhưng vì quan hệ về ý nghĩa giữa các yếu tố của chúng mất dần đi làm cho quan
hệ ngữ âm ngẫu nhiên giữa các yếu tố đó nổi lên hàng đầu, và hiện giờ người
Việt nhất loạt coi chúng là từ láy. Ví dụ: chùa chiền, tuổi tác…nghĩa của những
từ như vậy được tổ chức theo kiểu của các từ tre pheo, chó má, xe cộ, đường sá,
gà qué…
Ngoài ra còn có hiện tượng đối ứng ở âm chính, hiện tượng này khá đều
đặn ở một số nhóm từ.
Ví dụ:
ô - ê: ngô nghê, hổn hển, xồ xề…
o – e: ho he, nhỏ nhẻ, vo ve…
i – a: hỉ hả, xí xoá…
u - ă: tung tăng, vùng vằng…
ô - a: bỗ bã, mộc mạc…
ê - a: khề khà, xuề xoà…
- Điệp ở phần vần, đối ở âm đầu.

Ví dụ: mượng tượng, lưng chừng, bâng khuâng, ngang tàng, quyến luyến,
tanh bành, tẩn mẩn, tâng hẩng, tèm nhèm, tênh hênh, toác hoác, toen hoẻn, thình
lình, xớ rớ…
 Từ láy ba và láy bốn tiếng:
Được cấu tạo thông qua cơ chế cấu tạo từ láy hai tiếng.
Từ láy ba tiếng dựa trên cơ chế láy hoàn toàn.
Từ láy bốn tiếng dựa trên cơ chế láy bộ phận là chủ yếu.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ví dụ: khít khìn khịt, dửng dừng dưng, trơ trờ trợ…hơt hơ hớt hải, đủng đà
đủng đỉnh, lững tha lững thững, vội vội vàng vàng…
+ Cấu tạo từ láy ba tiếng:
Từ láy ba là láy toàn bộ kèm theo sự biến thanh và biến vần.
Ví dụ:
nhũn – nhũn nhùn nhùn
trơ - trơ trờ trờ
khít – khít khìn khịt
Nhiều khi chúng ta có thể gặp những “cặp bài trùng” giữa từ láy hai tiếng
và láy ba tiếng như:
Sát sạt – sát sàn sạt
Trụi lủi – trụi thui lủi
khét lẹt – khét lèn lẹt
dửng dưng – dửng dừng dưng
cỏn con – cỏn còn con
tẻo teo – tẻo tèo teo
tí ti – tí tì ti
cuống cuồng – cuống cuồng cuồng
nhẽo nhèo – nhẽo nhèo nhèo
+ Cấu tạo từ láy bốn tiếng:
- “Nhân đôi” từ láy hai tiếng nhưng biến vần của tiếng thứ hai thành “e, a,
ơ, à” cho phù hợp, hài hoà về âm vực giữa các vần, các thanh:

lơ mơ - lơ ma lơ mơ
vớ vẩn – vớ va vớ vẩn
hì hục – hì hà hì hục
hấp tấp – hấp ta hấp tấp
hớt hải – hớt hơ hớt hải
vất vưởng – vất va vất vưởng
lủng củng – lủng cà lủng củng
đủng đỉnh - đủng đà đủng đỉnh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- “Nhân đôi” từ láy hai tiếng nhưng biến đổi sao cho hai tiếng đầu có
thanh điệu thuộc âm vực cao, hai tiếng sau mang thanh điệu âm vực thấp:
bồi hồi – bổi hổi bồi hồi
- “Nhân đôi” từng tiếng của từ láy hai tiếng:
hùng hổ – hùng hùng hổ hổ
vội vàng – vội vội vàng vàng
- Thực hiện cách thứ ba vừa nêu, nhưng biến âm đầu của tiếng thứ nhất và
thứ ba thành “l”
nhồm nhoàm – lồm nhồm loàm nhoàm
thơ thẩn – lơ thơ lẩn thẩn
- Từ một từ gốc có thể cấu tạo từ láy bốn tiếng chứ không phải chỉ có một.
bắng nhắng – bắng nha bắng nhắng
bắng nhắng bặng nhặng
2.4. Từ ngẫu hợp
Ngoài ra, trong tiếng Việt còn có một lớp từ mà giữa các thành tố cấu tạo
của chúng không có quan hệ gì về ngữ âm hoặc ngữ nghĩa. Chúng được gọi là
các từ ngẫu hợp (các tiếng tổ hợp với nhau một cách ngẫu nhiên). Ví dụ: bồ
hóng, bồ hòn, bồ kết, bồ câu, cà cuống, cà kê…
Về lớp từ này, đã có nhiều tranh luận. Một vài tác giả đã xếp nó vào từ
đơn và cho rằng để chúng trong từ đơn chẳng những không ảnh hưởng đến
nguyên tắc phân loại mà còn phù hợp với đặc điểm hoạt động hiện nay của

chúng.
Tuy nhiên, cũng có một số tác giả xếp lớp từ này là một bộ phận của từ
phức [8]. Trong phạm vi khoá luận này, chúng tôi cũng đồng ý với ý kiến thứ
hai: xếp lớp từ ngẫu hợp thuộc từ phức. Lớp từ này có thể bao gồm:
+ Những từ gốc thuần Việt: bồ câu, bồ hòn, bồ nông, bồ hóng…
+ Những từ vay mượn gốc Hán (hoặc phiên âm qua âm Hán – Việt) thông
qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ (trong số này có những từ mà từng thành
tố của chúng trước đây vốn rõ nghĩa nhưng nay không được người Việt nhận
thức nữa).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ví dụ: mâu thuẫn, hy sinh, trường hợp, mì chính…
+ Những từ vay mượn gốc Ấn - Âu qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ
như: axít, míttinh, sơmi, mùi xoa, xà phòng, cao su, ca cao…cũng có thể được
xếp vào đây.
Trong phạm vi tư liệu mà chúng tôi nghiên cứu (Việt Nam Tự Điển),
chúng tôi chỉ khảo từ ngẫu hợp dưới góc độ là những từ gốc thuần Việt như: mồ
hôi, mồ côi, cà kê, cà cuống, cà sa, bồ kết…
Từ những điều trên, có thể đưa ra một sơ đồ phân loại các từ trong tiếng
Việt như sau:
3. Về mặt nguồn gốc của từ
Về mặt nguồn gốc, có hai bộ phận lớn của từ vựng tiếng Việt cần được
lưu ý là các từ Hán – Việt và từ gốc Ấn - Âu. Đó là hai lớp từ vay mượn lớn nhất
của tiếng Việt.
3.1. Từ Hán Việt và từ ngữ gốc Hán
Đẳng lập
Chính phụ
Từ tiếng Việt
Từ đơn
Từ phức
Từ ghép

Từ láy Từ ngẫu hợp
Láy 2
Láy 3 Láy 4
Láy hoàn toàn
Láy bộ phận
Láy âm đầu
Láy vần
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong quá trình phát triển của mỗi ngôn ngữ, sự tiếp xúc và vay mượn từ
vựng của nó đối với các ngôn ngữ khác để làm giàu cho mình là một quy luật tất
yếu. Tiếng Việt cũng không phải là một ngoại lệ. Trong lịch sử hình thành và
phát triển, tiếng Việt đã có một cuộc tiếp xúc ngôn ngữ - văn hóa vừa lâu dài về
thời gian, vừa gần gũi về không gian...để lại dấu ấn rất sâu đậm là sự xuất hiện
của lớp từ ngữ gốc Hán tồn tại, phát triển và giao thoa với lớp từ ngữ thuần Việt.
Có thể chia quá trình này ra làm hai giai đoạn lớn: Giai đoạn từ đầu Công
nguyên đến đời Đường (thế kỉ VIII đến thế kỉ X), và giai đoạn hai, từ thế kỉ X
trở về sau. Giai đoạn đầu là giai đoạn tiếp xúc một cách tự nhiên giữa tiếng Việt
và tiếng Hán của đạo quân xâm lược. Giai đoạn hai là giai đoạn tiếp xúc một
cách có ý thức của tiếng Việt đối với tiếng Hán. “Chính vào lúc sự tiếp xúc ngôn
ngữ không bị ràng buộc bởi yêu cầu chính trị theo quan hệ phụ thuộc, nó lại đi
sâu vào ngôn ngữ. Sự vay mượn lúc này đã đóng góp vai trò của chính ngôn ngữ
đi vay, không phải là sự cưỡng ép” (Phan Ngọc, 1981). Kết quả là hai giai đoạn
tiếp xúc trên đã đem lại cho từ vựng tiếng Việt hai nguồn gốc từ gốc Hán mà từ
trước tới nay ta vẫn gọi là từ Hán cổ và từ Hán Việt với một khối lượng khổng
lồ, mà theo số nghiên cứu thì chiếm tới 70% tổng số các đơn vị từ vựng trong
tiếng Việt .
+ Từ Hán cổ: là những từ ngữ gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt trong
giai đoạn một. Ví dụ trong Việt Nam Tự Điển có các từ như: chúa (âm cổ của
chủ), chén (âm cổ của trản), chém (âm cổ của trảm), quen (âm cổ của quán), vua
(âm cổ của vương) . . .

+ Từ Hán Việt: là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt giai đoạn hai,
mà người Việt đọc âm chuẩn (Trường An) của chúng theo hệ thống ngữ âm của
mình. Ví dụ, trong Việt Nam Tự Điển có các từ như: giang, giảo, liên, hà, hỏa,
hòa, hoàn, sơn....
Ngoài hai nguồn gốc là từ Hán cổ và từ Hán Việt, còn có hai loại khác
cùng được xếp vào lớp từ gốc Hán là từ Hán Việt Việt hóa và từ gốc Hán du
nhập vào tiếng Việt thông qua con đường khẩu ngữ của những người nói phương
ngữ tiếng Hán. Trong đó từ Hán Việt Việt hóa là những từ ngữ gốc Hán đã được
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cải tổ về mặt ngữ âm tới hai lần. Cách đọc thứ hai làm mờ hẳn nguồn gốc Hán
của chúng và đưa chúng vào vị trí sâu hơn trong tiếng Việt. Tuy nhiên do điều
kiện và thời gian không cho phép và kiến thức của người viết còn hạn chế, trong
khóa luận này chúng tôi không thể thống kê, miêu tả, phân tích hết được tất cả
các từ gốc Hán mà chỉ dừng lại ở phạm vi từ Hán Việt. Như vậy, từ Hán cổ, Từ
Hán Việt Việt hóa, và từ gốc Hán du nhập thông qua con đường khẩu ngữ không
nằm trong phạm vi quan tâm của chúng tôi trong khóa luận này.
3.2. Từ Ấn Âu
Cuối thế kỉ XX thực dân Pháp hoàn thành việc xâm chiếm nước ta, biến
nước ta thành một thuộc địa của chúng. Từ đó trở đi Việt Nam đã chịu ảnh
hưởng của văn hóa Pháp ngày càng nhiều về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội…địa vị của tiếng Pháp rất được đề cao.
Như vậy, bộ phận từ Ấn - Âu vào Việt Nam từ khi nước ta bị thực dân
Pháp xâm lược và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ họ (giữa thế kỉ XIX). Vừa bằng
con đường khẩu ngữ vừa qua con đường chính thức trong giáo dục nhà trường
và giao tiếp hành chính, hàng loạt các từ gốc Pháp đã du nhập vào tiếng Việt.
Mặt khác, một số từ gốc Anh, rồi gần đây một số từ nguồn gốc Nga cũng đã
được tiếp thu như : mít tinh, ten nít, bốc, bồi, cao bồi, tiu, xì ke, côm xô môn, men
sê vích, Xô Viết ...
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng ở Đà Nẵng. Năm 1862, chúng chiếm
ba tỉnh miền Đông Nam Bộ. Năm 1867, Pháp chiếm trọn Nam Bộ. Ngay khi còn

chưa chiếm xong Nam Bộ, thực dân Pháp đã xuất bản tờ công báo bằng tiếng
Việt đầu tiên tại Sài Gòn là Gia Định báo (năm 1865) với ý đồ vừa coi đây là
công cụ của chế độ thuộc địa, vừa góp phần đẩy lùi vị thế của tiếng Hán ở Việt
Nam, dọn đường cho tiếng Pháp chuẩn bị dành địa vị độc tôn, thay thế tiếng
Hán.
Năm 1884, do thái độ khiếp nhược của triều đình nhà Nguyễn, với hòa
ước Giáp Thân, Pháp đã chính thức lập xong chế độ thuộc địa của chúng ở Việt
Nam. Năm1905, tờ báo đầu tiên vừa viết bằng chữ Quốc ngữ vừa viết bằng chữ
Hán xuất hiện tại Hà Nội, là tờ Đại Việt Tân báo .
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, cho đến năm 1905, có nhiều tờ báo bằng tiếng Việt đã ra đời, có
kèm tiếng Pháp và tiếng Hán. Chữ Quốc ngữ và tiếng Việt lúc này vấp phải hai
trở ngại ngăn cản sự phát triển thống nhất, đó là âm mưu “chia để trị” và chính
sách “ nô dịch văn hóa” của thực dân Pháp. Thực tế nhà cầm quyền Pháp ở Việt
Nam đã dùng tiếng Pháp, chữ Pháp trong văn kiện, giấy tờ của bộ máy cai trị,
tăng cường việc dạy tiếng Pháp trong nhà trường, hạn chế vai trò của tiếng Hán
và chữ Hán.
Nhìn chung, các từ gốc Ấn - Âu (chủ yếu là gốc Pháp) đã thâm nhập vào
khá nhiều mặt của đời sống xã hội. Từ đời sống thường ngày (bao gồm tên gọi
một số mốn ăn, thuốc men, quần áo, đồ đạc, dụng cụ...) cho đến các lĩnh vực văn
hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, y tế... đều có chúng tham gia. Ví dụ trong
Việt Nam Tự Điển có các từ như sau: A men, bom, bồi, bơm, bơ, Da tô, den,
đầm, ga, lò xo, lít, mét...
3.3. Từ Địa Phương
Tiếng Việt là một ngôn ngữ có tính thống nhất trong sự đa dạng. Thể hiện
một phần đặc tính này là sự tồn tại của bộ phận từ địa phương bên cạnh lớp từ
vựng chung phổ biến toàn dân.
Theo đó, từ địa phương là những từ chỉ có ở một phương ngữ nào đó của
ngôn ngữ dân tộc và chỉ phổ biến trong phạm vi lãnh thổ của địa phương đó mà
thôi. Ví dụ, trong Việt Nam Tự Điển có các từ như: Ăn sỉ, bài chài, bán mắc,

bặn, ben, bóng, bủ, chằn, chừ, ghe, đọi, tê, tề, trốc, vọp bẻ, vô...
Như vậy, nghiên cứu từ địa không thể tách rời với hoàn cảnh văn hóa xã
hội. Trong sách “Tiếng Việt trên các miền đất nước”, Giáo sư Hoàng Thị Châu có
đề cập một cách biện chứng đến sự tương quan cần yếu cần nắm rõ giữa bối
cảnh xã hội và bối cảnh ngôn ngữ, coi đó như một “cái chìa khóa không thể thay
đổi” để lí giải các hiện tượng ngôn ngữ, hoặc ngược lại như sau: “...Nếu như các
ngôn ngữ là biểu tượng trong không gian của lịch sử đã diễn ra trong thời gian,
thì các phương ngữ, thổ ngữ cũng đồng thời là sự biểu hiện quá trình phát triển
lịch sử của dân tộc trong thời gian đã ảnh xạ lên bề mặt của đất nước” (trang
219).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Cụm từ cố định
Cụm từ cố định là đơn vị do một số từ hợp lại, tồn tại với tư cách một đơn
vị có sẵn như từ, có thành tố cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định như từ.
Cụm từ cố định được gọi là đơn vị tương đương với từ. Chúng tương
đương với nhau về tư cách của những đơn vị được làm sẵn trong ngôn ngữ; và
tương đương với nhau về chức năng định danh, chức năng tham gia tạo câu.
Cụm từ cố định tiếng Việt được phân thành ba loại:
+Thành ngữ
+ Quán ngữ
+ Ngữ cố định định danh.

Thành ngữ:
+ Định nghĩa:
Là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa. Nghĩa của chúng có
tính hình tượng hoặc/ và gợi cảm. Bên cạnh nội dung trí tuệ, các thành ngữ bao
giờ cũng kèm theo các sắc thái bình giá, cảm xúc nhất định, hoặc là kính trọng,
tán thành; hoặc là chê bai khinh rẻ; hoặc là ái ngại xót thương…
Ví dụ:
nuôi ong tay áo

thắt lưng buộc bụng
chó cắn áo rách
méo miệng đòi ăn xôi vò
hồn xiêu phách lạc
ba cọc ba đồng
+ Phân loại:
Dựa vào cơ chế cấu tạo (cả nội dung lẫn hình thức) có thể chia thành ngữ
tiếng Việt thành hai loại:
- Thành ngữ so sánh: bao gồm những thành ngữ có cấu trúc là một cấu
trúc so sánh.
Ví dụ: Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao câu.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(ca dao)
hay: mềm như bún, rách như tổ đỉa, đen như quạ, tham như mõ, nợ như
chúa chổm, chua như giấm, như đỉa phải vôi…
- Thành ngữ miêu tả ẩn dụ: là thành ngữ được xây dựng trên cơ sở miêu tả
một sự kiện, một hiện tượng bằng cụm từ, nhưng biểu hiện ý nghĩa một cách ẩn
dụ
Ví dụ: ngã vào võng đào, cõng rắn cắn gà nhà, nuôi ong tay áo, mẹ tròn
con vuông…
Căn cứ vào nội dung, kết hợp với cấu trúc có thể phân loại thành ngữ
miêu tả ẩn dụ thành các loại nhỏ:
 Thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu một sự kiện. Ví dụ: ngã vào võng đào,
nước đổ đầu vịt, hàng thịt nguýt hàng cá, vải thưa che mắt thánh…
 Thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện tương đồng. Ví dụ: ăn trên
ngồi trốc, mẹ tròn con vuông, ba đầu sáu tay…
 Thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện tương phản. Ví dụ: miệng nam
mô bụng một bồ dao găm, miệng thơn thớt dạ ớt ngâm, mặt sứa gan lim, xấu máu
đòi ăn của độc…


Quán ngữ:
+ Định nghĩa:
Quán ngữ là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ
thuộc các phong cách khác nhau. Chức năng của chúng là đưa đẩy, rào đón, để
nhấn mạnh hoặc để liên kết trong diễn từ.
Ví dụ: của đáng tội, nói tóm lại, nói cách khác, nói khí vô phép, nói bỏ
ngoài tai, đáng chú ý là, chẳng nước non gì, nghĩa là…
Quán ngữ chiếm vị trí trung gian giữa cụm từ tự do và các kiểu cụm từ cố
định.
+ Phân loại:
Dựa vào phạm vi và tính chất phong cách, có thể chia quán ngữ thành các
loại sau:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Quán ngữ hay dùng trong phong cách hội thoại, khẩu ngữ. Ví dụ: khí vô
phép, khổ một nỗi là, đùng một cái, nói dại ra, cắn rơm cắn cỏ, bỏ quá cho, của
đáng tội…
- Quán ngữ hay dùng trong phong cách viết (khoa học, chính luận). Ví dụ:
có thể kết luận rằng, đồng thời, rút cục là, như trên đã nói, sự thực là, vấn đề là,
ngược lại, nói tóm lại, kết quả là…

Ngữ cố định định danh:
Là những đơn vị ổn định về cấu trúc và ý nghĩa hơn các quán ngữ rất
nhiều, nhưng lại chưa có được ý nghĩa mang tính hình tượng như thành ngữ.
Ví dụ: lông mày lá liễu, tóc rễ tre, kỉ luật thép, con gái rượu, mũi dọc dừa,
mắt bồ câu, mắt ốc nhồi, tuần trăng mật, toạc móng heo…
Ngữ cố định định danh là những cụm từ cố định, định danh, gọi tên sự
vật. Trong mỗi cụm từ như vậy thường có một thành tố chính và một vài thành
tố phụ miêu tả sự vật được nêu ở thành tố chính. Nó miêu tả chủ yếu bằng con
đường so sánh nhưng không hề có từ so sánh. Thành tố chính thường bao giờ

cũng là thành tố gọi tên.
5. Một số vấn đề về từ điển và cấu trúc của Việt Nam Tự Điển
5.1. Một số vấn đề về từ điển
Từ điển là loại sách tra cứu tập hợp các đơn vị ngôn ngữ (thường là các
đơn vị từ vựng), cung cấp những thông tin, kiến thức và những giải thích cần
thiết đối với những đơn vị đó đồng thời sắp xếp chúng theo một thứ tự nhất định
để dễ tra tìm.
Từ điển là phương tiện để miêu tả ngôn ngữ và phục vụ chuẩn hoá ngôn
ngữ. Nó giúp cho việc dạy và học tiếng (bản ngữ hoặc ngoại ngữ), đồng thời nó
phục vụ cho sử dụng ngôn ngữ (giao tiếp bản ngữ, giao tiếp liên ngôn ngữ nhờ
các từ điển hội thoại, từ điển song ngữ, từ điển tường giải…) và nghiên cứu về
từ vựng của ngôn ngữ.
Từ điển cho hình ảnh gần đúng và đáng tin cậy về từ vựng chứ chưa phải
toàn bộ từ vựng. Như vậy, nghiên cứu Việt Nam Tự Điển sẽ cho chúng ta thấy
Website: Email : Tel : 0918.775.368
diện mạo gần đúng chứ không phản ánh hết được khối lượng từ vựng tiếng Việt
giai đoạn đầu thế kỉ XX.
Từ vựng gồm có các đơn vị từ vựng. Mỗi một đơn vị từ vựng có thể là từ
hay cụm từ cố định. Như vậy, mỗi một đơn vị từ vựng sẽ là một từ hoặc ngữ.
Khi xem xét vốn từ vựng chúng ta có thể gọi các đơn vị từ vựng là các từ ngữ thì
cũng có thể chấp nhận được. Mỗi đơn vị từ vựng thường được đưa vào từ điển
dưới dạng một mục từ và gọi là một mục từ.
5.2. Cấu trúc từ điển
Cấu trúc từ điển được xem xét từ hai bình diện là: Cấu trúc vĩ mô và cấu
trúc vi mô.
5.2.1. Cấu trúc vĩ mô của từ điển
Cấu trúc vĩ mô là cơ cấu, cách thức tổ chức bảng từ của từ điển. Đó là cấu
trúc tổng thể của bảng từ phản ánh qua cách thức thu thập, sắp xếp, tổ chức các
từ ngữ theo những trật tự xác định.
Một cấu trúc vĩ mô hợp lý phải thể hiện được tính nhất quán về hình thức

của các từ ngữ, đảm bảo cân đối về lượng giữa các lớp từ và các kiểu từ, các từ
loại. Nó phải loại bỏ được những từ ngữ đã quá cũ, không còn giá trị sử dụng
trong trạng thái ngôn ngữ hiện tại, đồng thời phải thu thập kịp thời, không bỏ sót
những từ ngữ mới để đảm bảo tính cập nhật của từ điển, đáp ứng nhu cầu tra
cứu, sử dụng ngôn ngữ đương đại.
Cấu trúc vĩ mô của từ điển phản ánh khá trung thực diện mạo của từ vựng
một ngôn ngữ vào thời kì mà nó được biên soạn.
Cấu trúc vĩ mô của Việt Nam Tự Điển:
Cấu trúc vĩ mô của Việt Nam Tự Điển khá toàn diện, bao gồm đầy đủ:
+ Các từ loại: danh từ, động từ, tính từ…ví dụ: mèo, chó, bát, đũa, ăn,
ngủ, nằm, xanh, đỏ, đẹp, trẻ trung…
+ Các thành phần từ vựng theo các phong cách khác nhau: nói, viết, khẩu
ngữ, địa phương…ví dụ:ha, há, hả, ăn sỉ, bầm, bu, dừ, dử, nhòm, dòm, dốt,…
+ Các kiểu cấu trúc: đơn, phức, cụm từ…ví dụ: nói, nhìn, nằm, lung linh,
xum xuê, hỏm hòm hom, sạch sành sanh…
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Việt Nam Tự Điển có cấu trúc vĩ mô khá cân đối, gồm đầy đủ các thành
phần từ vựng xét về mặt cấu trúc như: từ đơn, từ ghép, từ láy và các thành phần
xét theo phạm vi sử dụng, nguồn gốc như: từ địa phương, từ Hán – Việt, từ Ấn -
Âu. Tuy vậy, từ vay mượn, từ địa phương, tiếng lóng còn ít được đưa vào. Đặc
biệt, một bộ phận thuật ngữ không được các nhà biên soạn chú ý đưa vào giải
thích.
5.2.2. Cấu trúc vi mô của từ điển
Cấu trúc vi mô là tập hợp toàn bộ những thông tin về từ ngữ đứng làm
đầu mục từ, được sắp xếp tổ chức thành một cơ cấu có tính hệ thống để thuyết
minh, giải thích cho từ đầu mục.
Cấu trúc vi mô của Việt Nam Tự Điển:
Cấu trúc vi mô của Việt Nam Tự Điển là cấu trúc hai bậc:
 Bậc 1: gồm các từ đầu mục.
 Bậc 2: là các từ ngữ có chứa thành tố đứng làm đầu mục.

Ví dụ:
CẬP (Bậc 1)
Cập (Bậc 2)
Cập cách
Cập đệ
Cập kê
Cập kiến
Cập kỳ
Cập môn
Cập thì
Cụ thể hơn, có thể dẫn lại mục từ “CẬP” trên đây để minh hoạ như sau:
Cập: kịp, theo tới nơi
Cập cách: đúng hạn, đúng lối, đúng mực. Người ấy tuổi đã cập cách ra
ứng cử.
Cập đệ: thi đỗ, chỉ nói riêng về đại khoa từ tam giác trở lên. Đệ nhất giáp
tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (tức là trạng nguyên).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cập kê: đến tuổi cài trâm. Theo tục cổ bên Tàu, con gái 15 tuổi thì cho cài
trâm. Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê (K).
Cập kiến: còn được trông thấy. Nói riêng về cha mẹ còn sống mà trông
thấy con cái làm nên. Bố mẹ già cập kiến con cái thành danh.
Cập kỳ: tới hẹn. Thuế khoá cập kỳ.
Cập môn: được đến cửa. Nói riêng về học trò thụ nghiệp thầy. Học trò xin
đến cập môn thầy.
Cập thì: kịp thời. Học quí cập thì (sự học phải cần từ lúc còn bé thì mới
vừa thì).
Như vậy, các thông tin được cung cấp trong cấu trúc vi mô của Việt Nam
Tự Điển chỉ bao gồm các thông tin:
+ Thông tin về ngữ nghĩa
+ Thông tin về cách dùng

+ Thông tin về phạm vi sử dụng
mà không có các thông tin về:
+ Từ loại
+ Ngữ âm
Lý do của cách tổ chức và cung cấp thông tin trong cấu trúc vi mô của
Việt Nam Tự Điển như vậy là ở chỗ: Việt Nam Tự Điển là tự điển chứ không
làm theo kiểu từ điển. Tự điển lấy “tự” (chữ) làm trung tâm, trong khi đó, đối
tượng nghiên cứu chính của Từ điển lại là “từ”.
Tuy nhiên, khoá luận này không bàn sâu về lý luận từ điển nên chúng tôi
chỉ dừng lại ở đây.
6. Phương pháp làm việc
Để thực hiện khoá luận này, chúng tôi áp dụng các thao tác, thủ tục làm
việc thông thường đã tiếp thu được trong nhà trường như: thống kê, mô tả, so
sánh, đối chiếu và phân tích nhằm:
+Tìm ra những tương quan về lượng giữa các lớp/ nhóm từ trong Việt
Nam Tự Điển.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Mô tả, phân tích tình hình, đặc điểm của các lớp từ để từ đó rút ra các
nhận định cần thiết.
+ Đối chiếu, so sánh với “Từ điển tiếng Việt” xuất bản năm 1994 để tìm
kiếm thêm những thông tin cần thiết.
Về mặt tư liệu nghiên cứu, chúng tôi chấp nhận và miêu tả khách quan
các tư liệu thực tiễn được ghi nhận trong Việt Nam Tự Điển. Không đi vào bình
luận những vấn đề lý thuyết về từ và từ điển học, chúng tôi coi mỗi mục từ được
đưa vào Việt Nam Tự Điển là một đơn vị từ vựng để quan sát, thống kê, tập hợp
và miêu tả, phân tích.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT TRONG “VIỆT NAM TỰ ĐIỂN”

THEO CẤU TRÚC CỦA ĐƠN VỊ TỪ VỰNG
Trên cơ sở của những quan niệm lý thuyết đã hình thành trong chương 1,
chúng tôi đã kiểm kê được toàn bộ các đơn vị từ vựng được đưa vào Việt Nam
Tự Điển và thu được kết quả cụ thể như sau:
Bảng số lượng các đơn vị từ vựng xét theo cấu trúc
Kiểu đơn vị từ vựng Số lượng Tỉ lệ (%)
Từ đơn 9213 35,55
Từ ghép 14.427 55,68
Từ láy 2136 8,24
Từ ngẫu hợp 32 0,12
Cụm cố định 11 0,05
Cụm tự do 93 0,36
Tổng số 25.912 100%
Bảng này cho thấy:
Vốn từ ngữ được đưa vào Việt Nam Tự Điển là 25.912 đơn vị, trong đó từ
đơn tiết là 9.213 từ, chiếm 35,55%, phần còn lại là từ đa tiết (từ ghép, từ láy, từ
ngẫu hợp và cụm từ, kể cả cụm từ cố định và cụm từ tự do).
Điều đặc biệt muốn nói là Việt Nam Tự Điển thu thập hơn 90 đơn vị từ
điển là những cụm từ tự do. Con số này tuy không lớn, nhưng thể hiện khá rõ
quan điểm của những người biên soạn. Các nhà biên soạn Việt Nam Tự Điển
dường như không câu nệ hoàn toàn vào đơn vị từ hay cụm từ cố định mà rất chú
ý đến tính quen dùng, hay dùng của cụm từ; đồng thời cũng rất chú ý đến việc
hướng dẫn sử dụng ngôn ngữ, giáo dục về từ ngữ, giúp cho việc dạy và học
tiếng mẹ đẻ.
Số lượng đơn vị mục từ được đưa vào tự điển 25.912 là quá ít so với khả
năng vốn có của tiếng Việt lúc đó. Lý do có lẽ là bởi các nhà biên soạn quá chú
ý đến từ ngữ thuộc phong cách viết, được ghi nhận trong các tác phẩm và nguồn
văn liệu nên từ ngữ khẩu ngữ, từ ngữ dùng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhân dân ít được đưa vào.Từ ngữ địa phương, tiếng lóng, từ nghề nghiệp theo

thống kê của chúng tôi cũng rất ít xuất hiện.
Điều đặc biệt nữa là trong Việt Nam Tự Điển đã xuất hiện một lượng đáng
kể các từ ngữ chuyên môn, thuật ngữ khoa học. Có lẽ đây chính là những dấu
hiệu chuẩn bị cho công trình “Danh từ khoa học” của học giả Hoàng Xuân Hãn
ra đời liền sau Việt Nam Tự Điển mấy năm (1944).
1. Từ đơn
Từ đơn là từ được cấu tạo chỉ bằng một tiếng. Trong tổng số 25.912 đơn
vị từ ngữ thì số lượng từ đơn là 9.213 từ chiếm 35,55%, tức là hơn 1/3 tổng số.
Điều này không có gì lạ, vì tiếng Việt vốn có nét đặc trưng là chỉ số (Hình vị
tương quan với từ) thường rất gần với 1; tức là về căn bản, từ tiếng Việt là đơn
tiết; còn những đơn vị mà chúng tôi theo quan niệm thông thường, gọi là “từ
ghép” thì thực ra còn có rất nhiều vấn đề cần phải bàn thêm về tư cách “từ’ của
chúng. Tuy nhiên, đó không phải là nhiệm vụ thảo luận của khoá luận này.
2. Từ ghép
Với số lượng 14.427 đơn vị, từ ghép (trong đó tất cả đều là song tiết)
chiếm 55,68% tổng số từ, ngữ trong Việt Nam Tự Điển. Sở dĩ từ ghép chiếm tỉ
lệ cao trong vốn từ ngữ của người Việt là bởi người Việt vốn ưa lối nói cân đối,
hài hoà, nhịp nhàng về âm điệu. Ngay ở bậc cụm từ ta cũng thấy số lượng cụm
từ có số tiếng chẵn (4 tiếng) chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn cụm từ có ba tiếng.
Trong “Từ điển tiếng Việt” năm 1994 có 19.366 đơn vị song tiết vừa có
quan hệ đẳng lập vừa có quan hệ chính phụ, xấp xỉ 50% từ, ngữ các loại của từ
điển này. Như vậy là số lượng từ ghép có tăng lên. Điều này có thể lí giải được
là do quá trình sản sinh để đáp ứng nhu cầu định danh của tiếng Việt. Các từ
ghép gọi tên các sự vật, hiện tượng trong cuộc sống của con người ngày càng
tăng lên cùng với sự phát triển, khám phá của xã hội loài người về mọi mặt của
đời sống.
Theo thống kê của chúng tôi thì tỉ lệ từ đơn/ghép trong Việt Nam Tự Điển
là 63,9% tức là từ đơn bằng 63,9% số từ ghép.
3. Từ láy
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Trong các ngôn ngữ đơn lập kiểu như tiếng Việt, từ láy có một vị trí rất
quan trọng trong việc tạo ra tiết tấu, ngữ điệu của câu. Một câu văn xuôi nếu sử
dụng nhiều từ láy đọc lên ta thấy ngay có sự nhịp nhàng, uyển chuyển. Một câu
thơ chứa nhiều từ láy thường là câu thơ nghiêng về chất trữ tình, lấy nội tâm,
tâm lý làm đối tượng miêu tả.
Vo vo sợi giắt đầu hồi
Lang thang sợi rải khắp nơi trong vườn
(Phạm Đình Ân – Tóc mẹ)
Hoa hồng không tặng ai mua
Sao bằng hoa cải lưa thưa nắng vàng
(Nguyễn Đức Mậu – Một chút Nguyễn Bính)
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
(Hồ Xuân Hương)
Đồ tế nhuyễn của riêng tây
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Số lượng từ láy thống kê được trong Việt Nam Tự Điển là 2.136 từ, chiếm
8,24% tổng vốn từ, trong đó từ láy hoàn toàn có 924 từ, chiếm 43,3% tổng số từ
láy; còn lại là láy bộ phận.
Trong số hơn hai nghìn từ láy vừa nói, chúng tôi chỉ kiểm được có 3 từ
láy ba, chiếm 0,1% vốn từ vựng của Việt Nam Tự Điển, và 12 từ láy tư, chiếm
0,6%. Các từ láy đôi chiếm gần như tuyệt đối trong vốn từ láy tiếng Việt thu
thập trong Việt Nam Tự Điển: 99,3% số từ láy.
Kết quả này có thể được trình bày bằng một bảng như sau:
Láy đôi
Láy ba Láy bốn
Láy hoàn toàn Láy bộ phận
924 1.197 3 12
Tiếp theo đây, chúng tôi sẽ trình bày danh sách các từ láy ba và láy bốn
trong Việt Nam Tự Điển:

Danh sách các từ láy ba và láy tư trong Việt Nam Tự Điển
1. Hỏm hòm hom

×