Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Hoàn thiện hoạt động tín dụng của các NHTM trong quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.98 KB, 110 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
NHTM không chỉ là kênh dẫn vốn quan trọng nhất cho nền kinh tế mà
còn giữ vai trò tiên phong trong việc định hướng những hoạt động của các
doanh nghiệp. Hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và NHTM nói
riêng đã tạo điều kiện và là động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng vững
mạnh. Trong đó, hoạt động tín dụng được coi là một trong những hoạt động
hàng đầu, tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, góp phần không nhỏ cho
sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của đất nước như: kiềm chế lạm
phát, thúc đẩy tăng trưởng GDP với tốc độ cao và ngày càng ổn định, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa… Đồng thời
trong những năm qua, chất lượng hoạt động tín dụng, hiệu quả hoạt động tín
dụng của các NHTM cũng không ngừng được nâng cao, hạn chế rủi ro tín
dụng. Có được kết quả đó là do các NHTM đã liên tục đổi mới hoạt động tín
dụng, thực hiện nhiều giải pháp hoàn thiện quy trình quản lý nội bộ về hoạt
động tín dụng, nâng cao năng lực quản trị điều hành hoạt động tín dụng và
khả năng quản trị rủi ro tín dụng, cùng với việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trong hoạt động tín dụng.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đã và đang đặt ra những
sức ép rất lớn lên các NHTM Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nước ta ngày
càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.Trong tiến trình tái cấu trúc
hệ thống tài chính – đặc biệt là tái cấu trúc hệ thống các NHTM, hoạt động tín
dụng của các NHTM đang gặp không ít khó khăn và đang đặt ra một số vấn
đề cần nghiên cứu giải quyết, đặc biệt là cần tìm ra giải pháp để tiếp tục mở
rộng về quy mô và nâng cao chất lượng tín dụng.
Từ trước đến nay đã có nhiều đề tài và công trình nghiên cứu về tín
dụng, tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể và có tính cập nhật về
hoạt động tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM Việt Nam
1
trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Từ thực tế đó nhóm nghiên
cứu đã chọn đề tài: “HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA


CÁC NHTM TRONG QUÁ TRÌNH TÁI CẤU TRÚC HỆ THỐNG
NHTM VIỆT NAM” để nghiên cứu là xuất phát từ yêu cầu cấp bách đó đang
đặt ra trong thực tiễn nước ta hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu của công trình
- Tập hợp các cơ sở lý luận về NHTM và hoạt động tín dụng của NHTM
ở nước ta hiện nay cũng như một số nước trên thế giới.
- Phân tích rõ thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
- Xác định những thành tựu, những hạn chế và nguyên nhân hạn chế của
hoạt động tín dụng tại các NHTM; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp đối với
hoạt động tín dụng của NHTM trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam và tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong thời gian sắp tới.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung vào nghiên cứu hoạt động tín
dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
- Phạm vi nghiên cứu
 Hoạt động tín dụng, tập trung vào hoạt động cho vay, của các NHTM ở
nước ta hiện nay, nghiên cứu điển hình ở ba NHTM là NHTMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam (BIDV), NHTMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB),
NHTMCP Quân Đội (MB).
 Thực trạng được tập trung nghiên cứu là giai đoạn 2010 - 2012
4. Phương pháp nghiên cứu
Công trình sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật tự nhiên,
biện chứng duy vật lịch sử trong nghiên cứu, từ đó mà cho phép việc nghiên
cứu có thể đứng trên quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển, đồng
thời vận dụng các nguyên lý của phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và
trong vận động. Nhờ vậy, việc nghiên cứu có thể xác định, phân loại những
2
mối liên hệ giữa hoạt động tín dụng với hoạt động ngân hàng, hoạt động tín
dụng với hoạt động chủ yếu là cho vay, xem xét tổng quát về hoạt động tín

dụng ở một số NHTM điển hình ở Việt Nam trong các hình thức vận động,
giúp đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan và phù hợp với thực tế hơn.
Ngoài ra, công trình còn sử dụng các phương pháp khác như phương
pháp so sánh, phân tích, định tính, định lượng. Công trình còn sử dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, phương pháp quy nạp, các
phương pháp điều tra và khảo sát điển hình, tổng hợp và phân tích, phương
pháp toán, với sự trợ giúp của kỹ thuật vi tính và tham khảo các công trình
nghiên cứu khác có liên quan để làm nội dung nghiên cứu của đề tài sâu sắc
hơn.
5. Kết cấu của công trình
Công trình ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các bảng
biểu, đồ thị, danh mục các từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo; nội dung
chính được kết cấu thành 3 chương, trong đó:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về NHTM và hoạt động tín dụng của
NHTM
- Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM trong quá
trình tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động tín dụng của các NHTM
trong quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển
của kinh tế hàng hoá. Trong đó, ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn
nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Nó được coi là
sản phẩm của nền sản xuất hàng hoá, là một bộ phận không thể tách rời và tồn
tại như một tất yếu trong nền kinh tế hiện đại.

Theo quan điểm của Peter S.Rose: “Ngân hàng thương mại là loại hình
tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dich vụ tài chính da dạng nhất-
đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế.”
Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam 2010:
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.”
“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của
Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”
1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại
Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam 2010:
Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một
hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
4
a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng
chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo
nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn
trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán,
bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện

thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu,
ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho
khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
1.2. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm và nguyên tắc tín dụng của NHTM
1.2.1.1. Khái niệm và bản chất tín dụng của NHTM
Trong cuốn “Nghiệp vụ ngân hàng thương mại” TS Hồ Diệu đã đưa ra
khái niệm tín dụng như sau:
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ latinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm).
Thuật ngữ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, tùy từng bối cảnh cụ
thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín
dụng có thể được hiểu theo các nghĩa sau:
+ Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết
kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp
chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
5
+ Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài
sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Phổ biến là giao dịch giữa ngân
hàng và các định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện
dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau
một thời hạn nhất định người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi.
Mục đích của đề tài nghiên cứu này xem xét tín dụng như là một tổ
chức cơ bản của ngân hàng, vì vậy trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt
động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho
vay (ngân hàng và các định chế tài chính) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán.

Từ khái niệm trên, bản chất tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ
sở hoàn trả và có đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai
hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê ( bất động sản và động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển
giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay
sẽ trả đúng hạn.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay
nối cách khác là người đi vay phải trả thêm lãi ngoài vốn gốc.
Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn
hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương, trong
đó:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát
6
Tuy nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên
trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát,
ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam
kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan
hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ…. thực chất là lệnh
phiếu (promissorry note), trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện
cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.2.1.2. Nguyên tắc tín dụng của NHTM
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên
tắc nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được
cụ thể hóa trong các quy định của Ngân hàng Nhà nước và của các Ngân hàng
thương mại.
Một là, khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi với thời gian xác
định: các khoản tín dụng của ngân hàng có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi
của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách

nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu
người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết. Đây là điều kiện để ngân
hàng tồn tại và phát triển.
Hai là, khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng như theo mục đích
được thỏa thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và
các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt
động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có mục đích và
phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng
đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài
trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng.
Ba là, ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hoặc dự án có hiệu quả.
Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất.
7
Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng
thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của
ngân hàng phải gắn liền với hình thành tài sản của người vay. Trong trường
hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi người vay phải có tài sản đảm bảo
khi vay.
1.2.2. Các hình thức cấp tín dụng của NHTM
Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng của ngân hàng, tín dụng ngân hàng
bao gồm các hình thức sau:
1.2.2.1. Cho vay
Cho vay là một trong những hình thức của nghiệp vụ tín dụng, là hoạt
động mang lại lợi nhuận lớn nhất cho mỗi ngân hàng. Cho vay có thể hiểu
đơn giản là việc ngân hàng chuyển giao một khoản tiền nhất định cho bên vay
(khách hàng) để sử dụng trong một khoảng thời gian xác định với cam kết sẽ
hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã thỏa thuận.
Theo hình thức cấp tiền vay, cho vay bao gồm các phương thức sau:
• Thấu chi: ngân hàng cho phép người vay được chi vượt trội trên số dư
tiền gửi thanh toán của mình tới một giới hạn nhất định (hạn mức thấu chi) và

trong một khoảng thời gian xác định. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn,
phần lớn không có tài sản đảm bảo, thường sử dụng với khách hàng có độ tín
nhiệm cao, kỳ thu nhập ngắn và đều đặn.
• Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến với
các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để
được cấp hạn mức thấu chi. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách
biệt, tiền cho vay dựa trên tài sản đảm bảo.
• Cho vay theo hạn mức: ngân hàng cấp cho khách hàng một hạn mức tín
dụng, là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả
kỳ hoặc cuối kỳ, được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu
cầu vay vốn của khách hàng.
8
• Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hóa. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận về phương thức vay, hạn mức
tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ.
• Cho vay trả góp: ngân hàng và khách hàng thỏa thuận về số lãi vốn vay
và cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa
thuận, thường áp dụng đối với khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản
cố định và hàng hóa lâu bền.
• Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ: ngân hàng cho
phép khách hàng sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để
thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt qua thẻ tại các máy rút
tiền tự động hoặc các điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng.
• Cho vay hợp vốn: ngân hàng cúng các tổ chức tín dụng khác cho vay
đối với cùng một dự án hoặc một phương án vay vốn của khách hàng. Hình
thức này áp dụng đối với trường hợp nhu cầu vay vốn vượt quá khả nawg cho
vay của ngân hàng hoặc trường hợp ngân hàng cần thấy phải chia sẻ rủi ro
hoặc các trường hợp cần hợp vốn khác theo yêu cầu của khách hàng.
1.2.2.2. Chiết khấu, tái chiết khấu
Chiết khấu là việc ngân hàng mua giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán

của khách hàng.
Tái chiết khấu là việc ngân hàng mua lại giấy tờ có giá chưa đến hạn
thanh toán và đã được chiết khấu theo phương thức mua hẳn.
1.2.2.3. Cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên
cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Nhiều ngân hàng
tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị máy móc cần thiết,
đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, thông qua hợp đồng thuê mua. Trong đó,
ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hành
9
hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho
thuê của ngân hàng có nhiều đặc điểm giống như cho vay và được xếp vào tín
dụng trung và dài hạn.
1.2.2.4. Bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của ngân hàng (bên bảo
lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.
Khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng thì ngân hàng được
hưởng một khoản phí gọi là phí bảo lãnh, mức phí này tuỳ thuộc vào mức độ
rủi ro của từng hợp đồng bảo lãnh.
1.2.2.5. Bao thanh toán
Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của ngân hàng cho bên bán
hàng, cung ứng dịch vụ thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh
từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng và bên
mua hàng thoả thuận trong hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Các phương thức của bao thanh toán:
• Bao thanh toán từng lần

• Bao thanh toán theo hạn mức
• Đồng bao thanh toán
1.2.3. Nội dung cơ bản của hoạt động tín dụng trong NHTM
Hoạt động tín dụng trong đó hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản và
truyền thống của ngân hàng, gắn liền với lịch sử ra đời của ngân hàng. Tỷ
trọng của hoạt động tín dụng bao giờ cũng chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ
hoạt động của ngân hàng và cũng là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chính
và chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng cũng là hoạt động
10
mang lại rất nhiều rủi ro cho ngân hàng. Vì vậy, trong hoạt động tín dụng, bất
cứ NHTM nào cũng phải hướng đến hai mục tiêu cơ bản là:
Một là, tăng trưởng bền vững lợi nhuận
Đây là mục tiêu hàng đầu mà hoạt động tín dụng của NHTM phải hướng
tới. Muốn tồn tại trong cơ chế thị trường, tạo lập lợi thế cạnh tranh, NHTM
phải trang trải đủ chi phí và tích lũy lợi nhuận để mở rộng kinh doanh. Đối
với NHTMCP, sức ép về lợi nhuận còn lớn hơn do áp lực từ phía cổ đông, giá
cổ phiếu trên thị trường chứng khoán hay thị trường OTC. Vừa phải làm hài
lòng các cổ đông, vừa phải chịu sức ép từ yêu cầu kinh doanh phải có lãi,
trong khi hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất cho
ngân hàng và cũng là hoạt động có nhiều rủi ro tiềm ẩn, nên các NHTM cần
theo đuổi một chính sách lợi nhuận hợp lý.
Hai là, gắn phát triển thị phần với kiểm soát tín dụng, hạn chế rủi ro
Muốn tồn tại trong nền kinh tế thị trường phải cạnh trạnh, tức là phải
tích cực mở rộng đầu tư và phát triển thị phần trong hoạt động tín dụng.
Nhưng mở rộng vốn đầu tư mà không kiểm soát được thì sẽ không thu hồi
được vốn đầu tư, dẫn tới thua lỗ và xa hơn là phá sản. Rủi ro trong hoạt động
tín dụng chính là rủi ro cơ bản bao trùm dẫn đến sự đổ bể của nhiều NHTM.
Thực hiện thành công mục tiêu thứ hai là cơ sở để hoàn thành mục tiêu
thứ nhất; mục tiêu thứ nhất là định hướng thực hiện mục tiêu thứ hai. Không
những thế, hai mục tiêu này còn có tính mâu thuẫn nhau. Một NHTM đề cao

mục tiêu lợi nhuận sẽ áp dụng cho vay có lãi suất cao, theo đuổi các dự án đầu
tư mạo hiểm; như vậy thường kéo theo độ an toàn thấp và ngược lại.
Hoạt động tín dụng của NHTM phải gắn với mục tiêu phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước, của từng địa phương. Một khoản tín dụng phát ra phải
được bảo đảm nhằm vào mục tiêu phát triển kinh tế, đáp ứng chiến lược phát
triển lâu dài cũng như các mục tiêu phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
11
Nhìn chung, hoạt động tín dụng của NHTM thường bao gồm các nội
dung cơ bản sau:
1.2.3.1. Chính sách khách hàng và lĩnh vực đầu tư tín dụng
Khách hàng nhận tín dụng của ngân hàng rất đa dạng, từ các doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước, cá nhân người tiêu dùng,
các ngân hàng, các công ty tài chính…
Xác định được đối tượng khách hàng chính là một nội dung cơ bản
trong hoạt động tín dụng. Thông qua việc tìm hiểu đối tượng khách hàng, khả
năng của khách hàng đối với sự an toàn và hiệu quả của khoản tín dụng,
NHTM mới có cơ sở để xác định nhu cầu về vốn, điều kiện vay, thời hạn vay,
khả năng sinh lời, đảm bảo tiền vay, rủi ro tín dụng đối trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng.
Các ngân hàng phải thành công trong việc làm cho những khoản tín dụng
phải được hoàn trả đầy đủ, đúng hạn (cả gốc và lãi), nghĩa là phải giảm thiểu
được rủi ro tín dụng và đem lại lợi nhuận cao.
Tuy nhiên, trên thị trường tín dụng, những người đi vay có khả năng vỡ
nợ lớn lại là những người sẵn sàng chấp nhận mọi điều kiện của khoản vay;
nói cách khác, những khách hàng với những dự án có rủi ro càng cao, càng
thu được nhiều lợi nhuận nếu dự án thành công, là những người hăm hở nhất
để vay được tiền. Họ là những người ít được mong đợi cho vay nhất, bởi vì
khả năng không hoàn trả được nợ vay là rất lớn. Trong tình huống như vậy,
người cho vay hay chính là ngân hàng sẽ trở thành đối tượng chịu rủi ro đạo
đức. Khi khách hàng đã nhận được khoản vay, họ có thể mạo hiểm đầu tư vào

các dự án có rủi ro cao với kỳ vọng thu được lợi nhuận nhiều hơn nếu thành
công. Rủi ro càng cao khiến khoản vay càng khó thu hồi.
Để kinh doanh an toàn và có lãi, ngân hàng phải xây dựng một chính
sách khách hàng hợp lý, tức là phải biết sàng lọc các khoản cho vay từ thông
tin cậy của các khách hàng tiềm năng, đánh giá rủi ro khách hàng bằng hệ
12
thống tính điểm tín dụng, giám sát hoạt động của người đi vay. Ngoài ra, việc
xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng trong chính sách khách hàng
không những giúp ngân hàng giảm thiểu chi phí thu thập thông tin, giám sát,
sàng lọc thông tin dễ dàng mà còn giúp cho ngân hàng hạn chế được những
rủi ro bất ngờ ngoài dự tính.
Việc phân loại rõ chất lượng khách hàng là cơ sở quan trọng để xác
định lĩnh vực đầu tư tín dụng của NHTM. Đó cũng chính là cơ sở để xác định
cơ cấu, đầu tư tín dụng của ngân hàng.
1.3.2.2. Điều kiện cấp tín dụng
Hoạt động cấp tín dụng phải thể hiện được các nguyên tắc phù hợp với
bản chất tín dụng, đó là: sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng; hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa
thuận trong hợp đồng tín dụng.
Theo quyết định số 1627/2011/QĐ – NHNN về việc ban hành quy chế
cho vay của TCTD đối với khách hàng, TCTD xem xét và quyết định cho vay
khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu
trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật:
- Đối với khách hàng vay là tổ chức và cá nhân Việt Nam:
 Tổ chức phải có năng lực pháp luật dân sự;
 Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự;
 Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự;

 Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự;
 Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật
và năng lực hành vi dân sự;
13
- Đối với khách hàng vay là tổ chức và cá nhân nước ngoài phải có năng
lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của
nước mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp
luật nước ngoài đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia
quy định.
Thứ hai, có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
Thứ ba, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Thứ tư, dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và
có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù
hợp với quy định của pháp luật.
Thứ năm, thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.3.2.3. Giới hạn tín dụng
NHTM không thể tài trợ toàn bộ nhu cầu vay vốn thực hiện dự án của
khách hàng nhằm hạn chế rủi ro. Pháp luật thường quy định các giới hạn để
hoạt động cho vay được thực hiện một cách an toàn hơn. Các quy định thường
là: mức cho vay tối đa đối với một khách hàng vay vốn; mức cho vay tối đa
so với giá trị tài sản thế chấp; mức cho vay tối đa đối với nhóm khách hàng
hạn chế tín dụng; tỷ lệ tối đa sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn, cho vay
trung, dài hạn.
Ngoài các giới hạn do luật định, mỗi NHTM lại có quy định riêng về
quy mô và các giới hạn. Thường thì các NHTM sẽ thể hiện qua mức cho vay
tối đa đối với một dự án vay vốn, quyền phán quyết cho vay tối đa của giám

đốc khu vực hoặc chi nhánh; mức cho vay tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm
tiền vay; quy mô cho vay tối đa đối với từng khách hàng, từng ngành nghề.
14
Quy mô tối đa mà các NHTM đặt ra phải vừa đảm bảo tính sinh lời vừa
phải đưa ra được mức rủi ro có thể chấp nhận của từng khoản vay. Quy mô và
giới hạn tín dụng của NHTM còn được xác định dựa trên tỷ lệ của dư nợ tín
dụng trên tổng tài sản có của ngân hàng. Ngoài ra, tổng dư nợ tín dụng phải
đảm bảo có tỷ lệ hợp lý giữa các khoản vay ngắn hạn và đầu tư trung, dài hạn.
Tỷ lệ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô vốn tự có, cơ cấu các khoản
nguồn vốn huy động được, tính ổn định của khách hàng vay và của nền kinh
tế, khả năng tài chính của khách hàng vay, cũng như chính sách tiền tệ của
NHNN.
Như vậy, trong hoạt động cho vay, NHTM phải đặt ra giới hạn tín dụng
sao cho vừa đáp ứng được khả năng sinh lời, vừa có thể bảo đảm được tính an
toàn trong hoạt động ngân hàng.
1.3.2.4. Lãi suất và phí vay vốn
Lãi suất cho vay được hình thành theo cơ chế thị trường dựa trên quan
hệ cung cầu vốn trên thị trường và theo nguyên tắc trang trải chi phí huy động
vốn, chi phí quản lư, chi phí tiền lương, bù đắp rủi ro và lợi nhuận hợp lý.
Tùy theo kỳ hạn, các loại tiền và các loại khách hàng mà ngân hàng lại có các
mức lãi suất cho vay khác nhau. Các khoản vay có độ rủi ro cao và chi phí
quản lý cao thì có mức lãi suất cho vay theo thỏa thuận cao và ngược lại. Đối
với khách hàng vay lớn, có uy tín, có tài sản bảo đảm tiền vay, ngân hàng có
thể cho vay với mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất cho vay bình quân chung.
Ngược lại, khách hàng vay nhỏ lẻ, uy tín thấp, không có tài sản bảo đảm tiền
vay phải vay với mức lãi suất cho vay cao hơn mức lãi suất cho vay bình
quân. Cho vay theo kỳ hạn trả nợ gốc và lãi theo tháng sẽ được ưu tiên về lãi
suất hơn cho vay theo kỳ hạn trả nợ gốc và lãi theo quý, theo năm…
Phí vay vốn hay phí tín dụng là một khoản phí khách hàng phải trả cho
ngân hàng để có được cam kết tín dụng. Phí vay vốn có thể là phí bảo lãnh,

phí cam kết, phí quản lý. Phí tín dụng được ngân hàng xây dựng dựa trên chi
15
phí huy động vốn trong trường hợp cam kết tài trợ và cam kết tín dụng dự
phòng; dựa trên rủi ro nếu cam kết là cam kết bảo lãnh tín dụng; dựa trên các
chi phí khác như phí xác nhận, phí quản lý tài sản bảo đảm, phí cơ cấu lại thời
hạn trả nợ… Đối với trường hợp khi khách hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ,
ngân hàng phải trả tiền cho việc huy động các nguồn vốn thiếu hụt mà lẽ ra
ngân hàng đã có được do người vay trả nợ để tài trợ cho các dự án đã cam kết
và trích một phần dự phòng rủi ro tín dụng do khách hàng không trả nợ đúng
hạn.
Lãi suất và phí vay vốn là một nội dung quan trọng trong quản lý hoạt
động cho vay của NHTM.
1.3.2.5. Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt
đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Thời hạn cho vay được chia thành 3 loại: ngắn, trung và dài hạn.
 Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng. Đối tượng
cho vay ngắn hạn là các doanh nghiệp cần bù đắp sự thiếu hụt vốn lao động
và các cá nhân có nhu cầu chi tiêu ngắn hạn.
 Cho vay trung hạn thường có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng. Cho
vay trung hạn chủ yếu phục vụ mua sắm tài sản cổ định, đổi mới thiết bị, công
nghệ, mở rộng sản xuất - kinh doanh, đầu tư mới các dự án vừa và nhỏ có thời
gian thu hồi vốn nhanh.
 Cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 60 tháng trở
lên. Cho vay dài hạn chủ yếu dành cho các đối tượng để xây dựng nhà ở, các
trang thiết bị, vận tải có quy mô lớn, thành lập các doanh nghiệp mới, thực
hiện các dự án có quy mô lớn với thời gian thu hồi vốn lâu, trồng các loại cây
lâu năm…
16

Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được
thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời
gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho tổ chức tín
dụng.
Các phương án lựa chọn đối với kỳ hạn trả nợ bao gồm:
- Các kỳ hạn trả nợ đều nhau theo tháng, quý, năm…
- Các kỳ hạn trả nợ có tính thời vụ
- Kỳ hạn trả nợ chỉ có một lần vào lúc kết thúc thời hạn vay
Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ có liên quan mật thiết với nhau. Tùy
theo loại khách hàng khác nhau, thời hạn cho vay khác nhau, thời hạn cho vay
khác nhau mà ngân hàng xác định kỳ hạn trả nợ khác nhau. Ngược lại, tùy
theo khách hàng khác nhau, với khả năng thanh toán ở các kỳ hạn khác nhau
mà ngân hàng chấp nhận cho vay với thời hạn khác nhau.
1.3.2.6. Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng là một nội dung rất
phức tạp trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Thông qua việc xây dựng hệ
thống phân loại nợ, ngân hàng có thể giám sát các khoản vay, nợ của khách
hàng tín dụng, từ đó thiết lập hệ thống dự phòng nhằm hạn chế chế rủi ro
trong quá trình cho vay.
Theo chuẩn mực quốc tế IAS – 39, nợ của khách hàng tín dụng được
phân thành 5 nhóm: nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn): các khoản nợ được TCTD
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn; nhóm 2 (nợ
cần chú ý): các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi nợ đầy
đủ cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ;
nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): các khoản nợ được TCTD đánh giá là không có
khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn, có khả năng tổn thất một
phần gốc và lãi; nhóm 4 (nợ nghi ngờ): các khoản nợ được các TCTD đánh
17
giá là có khả năng tổn thất cao; nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn): các khoản
nợ được TCTD đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.

Việc phân loại nhóm nợ được dựa trên hai yếu tố định lượng và định
tính. Yếu tố định lượng để làm căn cứ phân loại nhóm nợ là nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ, nợ quá hạn. Yếu tố định tính gồm rất nhiều tiêu chí để làm căn cứ
xem xét, bao gồm quá khứ (lịch sử), hiện tại, tương lai (triển vọng) của khách
hàng. Do đó, muốn phân loại chính xác nhóm nợ phải căn cứ nhiều vào các
chỉ tiêu định tính. Nhưng cơ sở để xác định các yếu tố định tính rất phức tạp
và có tính nhạy cảm cao, gây khó khăn cho các TCTD trong việc lượng hóa
để có cơ sở phân loại nợ chính xác. Muốn vậy, các TCTD phải có hệ thống
chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nội bộ để khắc phục khó khăn
này.
Nhìn chung, các tiêu thức để làm căn cứ xếp hạng tín dụng nội bộ giữa
các ngân hàng không có sự khác biệt nhau nhiều và thường được phân thành
10 hạng theo thứ tự độ tin cậy của ngân hàng đối với khách hàng giảm dần là:
AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C, D. Theo thông lệ quốc tế, khách
hàng được xếp vào các hạng AAA, AA, A được phân vào nợ nhóm 1; khách
hàng xếp hạng BBB, BB, B được phân vào nợ nhóm 2; khách hàng xếp hạng
CCC, CC được phân vào nợ nhóm 3; khách hàng xếp hạng C được phân vào
nợ nhóm 4; khách hàng xếp hạng D được phân vào nợ nhóm 5.
1.3.2.7. Chính sách bảo đảm tiền vay
Hoạt động cho vay của ngân hàng luôn gắn liền với nguy cơ rủi ro
không thu hồi được nợ, vì vậy mà ngân hàng phải đưa ra các biện pháp bảo
đảm hạn chế rủi ro, tăng độ an toàn của các khoản cho vay. Chính sách bảo
đảm tiền vay được hình thành trên cơ sở như vậy với hai nội dung cơ bản là
chính sách áp dụng bảo đảm tiền vay đối với nhóm, loại khách hàng vay và
chính sách xem xét nhận các loại tài sản bảo đảm.
18
Các ngân hàng cho vay dựa trên việc đánh giá uy tín của khách hàng
thông qua hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nội bộ của
mỗi ngân hàng. Trường hợp khách hàng là khách hàng truyền thống, có uy
tín, có kết quả xếp hạng từ A trở lên, được ngân hàng xem xét cho vay không

áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản. Trường hợp độ tin cậy của
người vay không cao, ngân hàng áp dụng các phương án cho vay có bảo đảm
bằng tài sản.
Pháp luật đều có quy định về các giao dịch bảo đảm trong hoạt động
cho vay. Tuy nhiên, ngân hàng không lựa chọn tất cả danh mục thuộc quy
định chung của luật bảo đảm tiền vay mà chỉ nhận các tài sản có sẵn thị
trường tiêu thụ như đất, tài sản gắn liền với đất, trái phiếu chính phủ, cổ phiếu
của các doanh nghiệp uy tín làm bảo đảm tiền vay. Nguyên do là mức độ
thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của ngân hàng. Mức độ thanh
khoản thấp hay nói cách khác là tài sản khó bán thường khó được ngân hàng
chấp nhận. Mức độ thanh khoản trung bình có thể chấp nhận được nhưng phải
tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý.
Trong việc xây dựng chính sách bảo đảm tiền vay còn phải lưu ý đến
các yếu tố ảnh hưởng như thủ tục hành chính, tính hiệu lực của pháp luật,
chính sách của nhà nước đối với các chủ thể kinh tế; những khía cạnh về cung
– cầu, đầu cơ, giá cả thị trường…
1.3.2.8. Chính sách nhận biết và quản lý nợ có vấn đề
Nợ có vấn đề là các khoản tín dụng cấp cho khách hàng không thu hồi
được hoặc có dấu hiệu không thể thu hồi được theo đúng cam kết trong hợp
đồng tín dụng. Nợ có vấn đề, theo nghĩa rộng, bao gồm các khoản nợ đã quá
hạn thanh toán, thanh toán không đúng kỳ hạn (nợ quá hạn thông thường, nợ
khó đòi, nợ chây ỳ, nợ khoanh, nợ tồn đọng) và cả các khoản nợ trong hạn.
Quản lý nợ có vấn đề là quá trình phòng ngừa, kiểm tra, giám sát và đưa ra
19
các biện pháp xử lý đối với những khoản nợ có vấn đề nhằm giảm thiểu mức
độ rủi roc ho hoạt động cho vay.
Quy trình quản lý nợ có vấn đề gồm các bước: nhận biết các dấu hiệu
và nguyên nhân của nợ có vấn đề; kiểm tra hồ sơ các khoản nợ có vấn đề; gặp
gỡ, làm việc với khách hàng; lập kế hoạch hành động; thực hiện kế hoạch;
quản lý, theo dõi việc thực hiện kế hoạch. Ngoài việc xây dựng các chính sách

chung về quản lý, xử lý các nhóm, loại nợ có vấn đề, NHTM thường có kế
hoạch, phương án chi tiết để xử ý từng món nợ có vấn đề cụ thể.
Xây dựng một hệ thống giám sát và quản lý nợ có vấn đề hiệu quả giúp
cho các NHTM dự báo trước và tránh được hoặc có phương án phòng bị phù
hợp trước rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động tín dụng của NHTM
1.2.4.1. Các chỉ tiêu định tính
Thứ nhất, hoạt động tín dụng được coi là có hiệu quả tốt khi ngân hàng
đáp ứng được một cách đầy đủ, kịp thời nhu cầu của khách hàng, bởi không
có một ngân hàng nào tồn tại và phát triển được mà không có khách hàng.
Điều này được thể hiện trước hết ở khối lượng tín dụng mà ngân hàng cung
cấp phải thỏa mãn được yêu cầu, phù hợp với mục đích sử dụng của khách
hàng; ở chính sách lãi suất thích hợp, linh hoạt, thủ tục vay vốn đơn giản,
thuận tiện trên cơ sở đảm bảo những nguyên tắc an toàn vốn. Ngân hàng cung
cấp vốn nhanh chóng kịp thời sẽ giúp các cá nhân, tổ chức tiết kiệm thời gian,
chi phí giao dịch cũng như nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên,
để làm được điều này thì bản thân các NHTM phải năng động hơn trong việc
nâng cao chất lượng tín dụng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên cả về chất
và lượng của khách hàng.
Thứ hai, sau khi đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu của khách hàng,
hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ được coi là có hiệu quả tốt khi ngân
hàng thu về được đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất
20
của các doanh nghiệp cũng như của các ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận,
hoạt động kinh doanh chỉ thực sự được coi là có hiệu quả khi nó vừa thỏa
mãn nhu cầu khách hàng vừa mang lại lợi nhuận cao cho chính bản thân
doanh nghiệp. Hoạt động tín dụng của ngân hàng phải mang lại cho ngân
hàng những khoản thu nhập đủ để trang trải các chi phí cần thiết và đảm bảo
có lãi, hạn chế thấp nguy cơ rủi ro. Việc tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tín
dụng cùng với sự năng động nhạy bén trong kinh doanh của doanh nghiệp và

sự giúp đỡ hiệu quả từ phía ngân hàng cho vay sẽ tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp đạt được kết quả kinh doanh như mong muốn, từ đó giúp các doanh
nghiệp thực hiện được các nghĩa vụ đối với ngân hàng đầy đủ và đúng hạn.
Điều này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cả ngân hàng và bản thân doanh
nghiệp.
Thứ ba, hoạt động tín dụng còn phải đóng góp vào sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước. Điều này là hệ quả tất
yếu khi cả ngân hàng và doanh nghiệp đều hoạt động có hiệu quả dựa trên cơ
sở khoản tín dụng đã cấp, từ đấy góp phần ổn định nền tài chính – kinh tế
quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất, giải quyết
công ăn việc làm, tăng thu nhập và nâng cao mức sống cho dân cư.
Nhìn chung, các chỉ tiêu định tính như trên chỉ là căn cứ để đánh giá
hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng một cách khái quát. Tuy nhiên, để
đánh giá một cách chính xác hơn về hoạt động tín dụng của một ngân hàng thì
cần phải đi sâu nghiên cứu, phân tích các chỉ tiêu định lượng.
1.2.4.2. Các chỉ tiêu định lượng
* Dư nợ tín dụng
Dư nợ tín dụng là toàn bộ các khoản mà ngân hàng đầu tư cho khách
hàng là hộ gia đình, cá nhân, các doanh nghiệp SX-KD và các ngành kinh tế
khác hoạt động trong khu vực.
21
Chỉ tiêu này phản ánh qui mô tín dụng đầu tư cho khách hàng trên địa
bàn. Khi đánh giá, phải đánh giá tỷ trọng của nó so với tổng dư nợ, so với các
ngành và khu vực kinh tế khác, so với kế hoạch, so với năm trước.
* Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng
Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng được tính toán như sau:
Tốc độ tăng dư
nợ cho vay
=
Số dư nợ cho vay bình quân 12

tháng năm nay
x 100%
Số dư nợ cho vay bình quân 12
tháng năm trước
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng đáp ứng vốn của ngân hàng và nhu cầu
tiếp nhận phát triển kinh tế. Khi đánh giá phải giá so sánh với tốc độ tăng
trưởng chung, so với tốc độ tăng trưởng tín dụng các ngành kinh tế khác, so
với kế hoạch, so với năm trước và so với đối thủ cạnh tranh trên địa bàn.
* Thị phần dư nợ tín dụng
Thị phần dư nợ
tín dụng
=
DNTD của ngân hàng cần đánh giá
Tổng DNTD trên địa bàn
Chỉ tiêu thị phần dư nợ tín dụng của một NHTM, một chi nhánh NHTM
được xác định bằng tỷ lệ phần trăm dư nợ tín dụng khu vực của ngân hàng đó
trong tổng dư nợ tín dụng đầu tư trên địa bàn của tất cả TCTD.
* Tỷ lệ dư nợ có khả năng sinh lời
Tỷ lệ dự nợ có khả
năng sinh lời
=
Dư nợ cho vay có khả năng sinh lời
bình quân 12 tháng
x 100%
Dư nợ cho vay bình quân 12 tháng
Dư nợ cho vay có khả năng sinh lời là dư nợ đang được thu lãi bình
thường, không tính các khoản nợ không thu được lãi. Đánh giá chỉ tiêu trong
22
mối quan hệ so sánh với tỷ lệ dư nợ tín dụng có khả năng sinh lời chung, so
với khu vực thành thị và các ngành kinh tế khác.

* Tỷ lệ nợ quá hạn (NQH) và nợ xấu
Tỷ lệ nợ quá
hạn
=
Dư nợ quá hạn cuối kỳ
x 100%
Tổng dư nợ cuối kỳ
Theo quy định của NHNN Việt Nam, NQH được định nghĩa: “Khi đến
kỳ hạn trả nợ gốc hoặc lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và không
được điều chỉnh kỳ hạn nợ gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ gốc hoặc
lãi thì TCTD chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn”
Một NHTM có tỷ lệ NQH cao so với mức bình quân chung của các
TCTD khác hoạt động trên cùng địa bàn, điều này đồng nghĩa với quản trị tín
dụng của NHTM đó có vấn đề.
Tỷ lệ nợ xấu =
Tổng số nợ xấu
x 100%
Tổng dư nợ cuối kỳ
Xu thế mới trong đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng những năm gần
đây là xem xét các khoản nợ xấu. Đây là xu hướng đúng, vì nợ xấu phản ánh
đúng nhất chất lượng tín dụng yếu kém.
Theo quy định hiện hành và phù hợp với thông lệ quốc tế, nợ xấu là nợ
thuộc nhóm 3, 4, 5, trong đó:
Nợ nhóm 3: các khoản NQH từ 91 ngày đến 180 ngày; các khoản nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu; các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do
khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Nợ nhóm 4: các khoản NQH từ 181 ngày đến 360 ngày; các khoản nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được
cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
23

Nợ nhóm 5: các khoản NQH trên 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu
lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn
trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; các khoản nợ
khoanh, nợ chờ xử lý.
* Lợi nhuận
Tùy theo các góc độ nghiên cứu mà lợi nhuận thường được chia thành lợi
nhuận gộp, lợi nhuận ròng trước thuế và lợi nhuận sau thuế.
Lợi nhuận gộp = Thu nhập – chi phí về tiền lãi
Trong đó:
- Thu nhập bao gồm: thu nhập từ tiền lãi (thu lãi cho vay và thu lãi tiền
gửi), hoa hồng và phí cam kết, thu nghiệp vụ (bao gồm: phí dịch vụ, thu từ
hoạt động kinh doanh và chứng khoán, thu dịch vụ tư vấn, thu từ các dịch vụ
ngân hàng khác, thu khác), thu nhập bất thường, thu khác.
- Chi phí về tiền lãi bao gồm: chi trả theo lãi suất tiền gửi, trả lãi tiền vay,
chi trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, chi phí dịch vụ, chi phí bất thường, chi
khác.
Lợi nhuận gộp là chỉ tiêu quan trọng, tổng quát phản ánh trình độ quản
lý, quy mô hoạt động của ngân hàng.
Lợi nhuận trước thuế = Lợi nhuận gộp – Chi phí nghiệp vụ
Chi phí nghiệp vụ, hay còn gọi là chi phí quản lý bao gồm: chi phí cho
nhân viên, thuê trụ sở, chi về thông tin, bưu điện, khấu hao, chi phí chung và
quản lý, chi phí khác. Chi nghiệp vụ phản ánh quy mô, cơ cấu các khoản chi
phí quản lý của ngân hàng.
Nếu khoản chi này lớn hơn lợi nhuận gộp thì ngân hàng bị lỗ vốn, cần
phải tiết giảm bớt các khoản chi.
LN sau thuế = LN ròng trước thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp
24
Chỉ tiêu này trong mối quan hệ so sánh với chỉ tiêu lợi nhuận ròng trước

thuế, phản ánh mức độ đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Để đánh giá hiệu quả cuối cùng về mặt lợi nhuận của doanh nghiệp,
người ta thường sử dụng 2 chỉ tiêu: tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) và tỷ
suất lợi nhuận trên vốn (ROE). Tuy nhiên, 2 chỉ tiêu này không có giá trị thực
tiễn lớn khi đánh giá chất lượng quản trị tín dụng tại các chi nhánh trực thuộc
của một NHTM nào đó có tổng tài sản và quy mô rất lớn, vì:
- Đối với chỉ tiêu ROA, vì tổng tài sản của ngân hàng thường rất lớn so
lợi nhuận, nên khi đánh giá khả năng sinh lời của các NHTM ít khi người ta
sử dụng chỉ tiêu ROA.
- Đối với chỉ tiêu ROE, vì là các chi nhánh con hạch toán kế toán phụ
thuộc NHTM nên trên bảng tổng kết tài sản không thể hiện nguồn vốn chủ sở
hữu để có thể đánh giá. Bởi vậy để hỗ trợ cho 2 chỉ tiêu trên, cần đưa ra các
chỉ
* Chênh lệch giữa lãi suất đầu ra, đầu vào lĩnh vực tín dụng
Chênh lệch lãi suất TD = Lãi suất đầu ra bình quân – LS đầu vào BQ
Đánh giá chỉ tiêu này trên cả hai phương diện: chênh lệch lãi suất đầu ra,
đầu vào cơ cấu và thực tế.
Chênh lệch lãi suất bình quân theo cơ cấu là chỉ tiêu phản ánh mức chênh
lệch lãi suất tiềm năng giữa mức lãi suất đã cho vay bình quân trên các giấy
nhận nợ của khách hàng vay với mức lãi suất bình quân của các nguồn vốn
được sử dụng để cho vay, là mức chênh lệch lãi suất tối đa sẽ đạt được khi
thực hiện thu lãi cho vay đạt 100%. Chênh lệch lãi suất đầu ra, đầu vào cơ cấu
càng lớn, khả năng lợi nhuận càng cao. Trong điều kiện hiện nay, mức chênh
lệch lãi suất này khoảng 0,35% là tốt.
Chỉ tiêu chênh lệch lãi suất bình quân theo thực tế phản ánh mức độ đạt
được chênh lệch lãi suất trong thực tế, được tính toán dựa theo số lãi tiền vay
thực thu và lãi tiền gửi, tiền vay thực trả cho nguồn vốn; phản ánh khả năng
25

×