Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận hệ thống thông tin quản trị DỊCH VỤ BẢO HIỂM NGÂN HÀNG LLOYDS ÁP DỤNG RAD LLOYDS BANK INSURANCE SERVICES APPLIES RAD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.05 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
BÁO CÁO BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
HỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN TRỊ
ĐỀ TÀI: LLOYDS BANK INSURANCE SERVICES
APPLIES RAD
(DỊCH VỤ BẢO HIỂM NGÂN HÀNG LLOYDS ÁP DỤNG RAD)
GVHD : Nguyễn Hoàng Minh
Lớp : 25TC-T19
Nhóm sinh viên : Nhóm 9
1. Phạm Thị Ngọc Bích 030125090102
2. Nguyễn Thị Kim Châu 030125090111
3. Vũ Đức Quang 030125090667
4. Mai Xuân Sơn 030125090708
TP.HCM – 2015
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
LỜI MỞ ĐẦU
Trước đây, các tổ chức kinh doanh cũng đã nhìn nhận được vai trò của hệ thống thông tin
kinh doanh(BIS) trong các hoạt động của tổ chức mình. Tuy nhiên vào những khoảng thời gian đó
thì BIS chỉ nhằm hỗ trợ cho các quy trình nghiệp vụ riêng biệt trong hoạt động của tổ chức. Ngày
nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh thì
tầm quan trọng của BIS càng được khẳng định một cách rõ nét hơn trong các hoạt động của tổ
chức kinh doanh. Nó không chỉ đơn thuần là giúp hỗ trợ các quy trình nghiệp vụ mà còn giúp cho
các tổ chức kinh doanh nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường.
Do đó, các tổ chức kinh doanh cần phải biết xây dựng một BIS như thế nào để giảm thiểu
được chi phí, xử lý công việc nhanh chóng hơn, đáp ứng thời gian quy định, thỏa mãn được sự kỳ
vọng của người dùng cuối cùng và tạo ra sự khác biệt về sản phẩm và dịch vụ,….Để có thể xây
dựng được một BIS phù hợp nhất với yêu cầu mà tổ chức đặt ra như vậy thì cần nắm rõ được
chiến lược kinh doanh của tổ chức để có thể lên một kế hoạch cho dự án hoặc làm việc với người
phát triển hệ thống.
Song song với việc đó thì tổ chức cần phải biết nhìn nhận một cách khách quan về những


điều kiện nội tại đang có để có thể lựa chọn một giải pháp tối ưu nhất cho việc phát triển và quản
trị một hệ thống thông tin kinh doanh. Tổ chức có thể lựa chọn gói giải pháp xây dựng mới hoàn
toàn, tự xây dựng hoặc cũng có thể lựa chọn gói giải pháp mua phần mềm có sẵn hay có thể sử
dụng việc kết hợp triển khai các phương pháp xây dựng BIS.
Tóm lại, trong quá trình khởi tạo và phát triển hệ thống thông tin, bản thân tổ chức phải trả
lời được câu hỏi vì sao phải xây dựng nên hệ thống, bằng cách nào để xây dựng được một hệ
thống thông tin và đặc biệt hơn nữa là hệ thống thông tin kinh doanh này có khả thi đối với tổ
chức không.
Đây cũng chính là lý do mà nhóm 9 chúng tôi chọn đề tài liên quan đến vấn đề khởi tạo,
phát triển hệ thống thông tin kinh doanh cùng với việc đánh giá tính khả thi của dự án với một chủ
2
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
đề thực tế LLOYDS BANK INSURANCE SERVICES APPLIES RAD (DỊCH VỤ BÀO
HIỂM NGÂN HÀNG LLOYDS ÁP DỤNG RAD).
Mặc dù nhóm đã cố gắng nhiều nhưng trong quá trình nghiên cứu và thảo luận do kiến thức
còn hạn hẹp và thời gian hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Nhóm chúng
em rất mong nhận được sự đóng góp của thầy và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
3
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
SDLC: System development life cycle (Chu trình phát triển hệ thống thông tin).
HTTT: Hệ thống thông tin.
MUDI:Mortgage Unemployment Disability Insurance (Bảo hiểm vay mượn thất nghiệp và
thương tật).
CNTT: Công nghệ thông tin.
RAD: Rapid Application Development ( phát triển ứng dụng nhanh).
4
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
BÀI DỊCH CASE STUDY 7.3

DỊCH VỤ BẢO HIỂM NGÂN HÀNG LLOYDS ÁP DỤNG RAD
Khi những nhân viên thị trường nhận ra một cơ hội kinh doanh thì người đó thường là dân
IT, người phải có suy nghĩ và hành động nhanh hơn những người khác. Hệ thống phải được đưa ra
sao cho đáp ứng được thời gian quy định; ngay trong lần làm việc đầu tiên; và nó phải đáp ứng
được mong đợi của người sử dụng. Nếu không thì cơ hội có thể bị mất mãi mãi.
Đó cũng là tình hình mà nhóm chuyên gia máy tính của dịch vụ bảo hiểm tại Ngân hàng
Lloyds phải đối mặt khi có một sản phẩm mới được gọi là MUDI( Bảo hiểm vay mượn thất
nghiệp và thương tật) ra đời; sản phẩm mới này đòi hỏi cần phải có một hệ thống báo giá qua điện
thoại hoạt động một cách hoàn chỉnh vào ngày 2 tháng 10.
Khi nó được thực hiện thì vào giữa tháng 8 David Jacklin- nhà quản lý phát triển CNTT,
LBIS- đã được thông báo về sự cần thiết cho các ứng dụng mới. Đó là một khoảnh khắc mà ông
nhớ rất rõ. “Tôi phải đối mặt với sự tiến thoái lưỡng nan khi không có nguồn tài nguyên có sẵn
trong đội của tôi và thời gian giới hạn là cố định”, ông nhớ lại.
Tuy nhiên, mặc dù đây là phản ứng ban đầu và đi ngược những bất hòa không mong muốn,
sự vận hành bất chấp thời gian đã chiến thắng. Mục tiêu của các nhà môi giới bảo hiểm đã đạt
được với sự giúp đỡ của một công ty phần mềm làm việc nhiệt tình và cẩn thận, một công cụ phát
triển môi trường và một cách tiếp cận nhanh được gọi là RAD (phát triển ứng dụng nhanh). Trong
thực tế, phát triển hoàn thiện đã chỉ ra là chỉ mất 5 tuần cho toàn bộ sự phát triển này.
Lý do cho mức độ khẩn cấp tại trụ sở LBIS trong Haywards Health là chính phủ đã đưa ra
một quyết định để sửa đổi các quy tắc liên quan đến các khoản thanh toán thế chấp mua nhà ra
khỏi quỹ an sinh xã hội trong trường hợp chủ sở hữu nhà đang dư thừa. Và quyết định này có tên
là West Sussex. Điều này đã mở ra một cách thức bảo hiểm mới mà công ty đã xác định để khai
thác.
LBIS, một công ty con của ngân hàng Lloyds và Abbey Life, là một công ty môi giới độc
lập kinh doanh về bảo hiểm cuộc sống, lương hưu và bảo hiểm chung. Doanh thu hàng năm là 100
triệu bảng Anh và có đến 800 người được tuyển dụng tại Haywards Health và sáu văn phòng các
5
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
khu vực. Một tỷ lệ đáng kể trong kinh doanh của công ty được tạo ra thông qua một đơn vị kinh
doanh được gọi là ngân hàng bảo hiểm trực tiếp Lloyds (LBID).

Về bản chất, LBIS giống như một tổ chức tiếp thị từ xa qua điện thoại, có trụ sở ở
Bournemouth. Khoảng 70% kinh doanh của nó thông qua các chi nhánh của ngân hàng Lloyds,
nơi mà người tư vấn sẽ tiến hành hỏi thông tin chi tiết và đưa LBID một bảng trích dẫn chi tiết .
30% còn lại là từ những người trả lời trực tiếp thư quảng cáo và gọi điện thoại trực tiếp.
Thực ra, một phiên bản đơn giản hơn của MUDI đã được dùng cho các chi nhánh ngân
hàng. Tuy nhiên lại không có bất cứ một cơ sở vật chất nào cho việc bảo lãnh phát hành một cách
chính xác và bất cứ ai sử dụng đến điều khoản này đều phải trả 6.50 bảng Anh cho 100 bảng Anh
tiền bảo hiểm (ví dụ tiền nhà trả hàng tháng là 300 bảng Anh thì phí bảo hiểm sẽ là 19.50 bảng
Anh). Hệ thống mới kết hợp với một màn hình sẽ thay thế cho những mẫu đơn giấy đơn giản để
thực hiện một cách linh hoạt việc định giá phí bảo hiểm phù hợp với ưu cầu của người sử dụng
trong khoảng từ 4.40 bảng Anh đến 9.40 bảng Anh trên 100 bảng Anh tiền bảo hiểm.
Nhưng đầu tiên thì hệ thống mới phải được xây dựng. Đã có sự tồn tại của một số chương
trình ứng dụng khác được sử dụng tại Bournermouth – BIQS (Building Insurance Quotations
Service). Nhưng ứng dụng này lại chạy trên DOS cho nên gần như là chắc chắn hệ thống
Windows không thể cài thêm vào một cách đơn thuần.
Jacklin và nhóm của anh ta đã tìm kiếm một bộ công cụ phát triển và khái niệm về RAD
trong khoảng thời gian sớm hơn những ngày đầu hè. Họ đã thực sự bị cuốn hút bởi các chuyên gia
về RAD, các chuyên gia của công ty phần mềm MDA và công ty phần mềm cơ sở Croydon vào
cuối tháng 7.
Đột nhiên, với những yêu cầu kinh doanh mạnh mẽ trước mắt đã dẫn đến nhu cầu về RAD
là cấp bách. Jacklin nói “chúng ta không thể chần chừ để quay lại MDA. Họ biết rất rõ những điều
họ đang nói và chúng ta đang ở trong một tình trạng cấp bách cần có một hệ thống”.
Một trong những điểm thu hút chính của RAD là có thể cung cấp một phiên bản có khả
năng làm việc trong một thời gian ngắn, việc kiểm tra sẽ được kết hợp với chu kì phát triển, tính
linh hoạt của đặc điểm, chi tiết kỹ thuật, và khả năng người sử dụng có thể tham gia vào toàn bộ
quá trình.
6
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
Trong vài ngày, Jacklin và đồng nghiệp của anh ta đã đồng ý nhau về việc MDA sử dụng
phương pháp RAD. Công ty phần mềm đã nhấn mạnh sự cần thiết của một môi trường phát triển

thích hợp của LBIS và đề xuất cho những nhà phát triển doanh nghiệp sử dụng công cụ phát triển
kinh doanh. Bộ công cụ đa năng, linh hoạt này của Symantec đã có tất cả các tính năng tiên tiến
của một hệ thống thế hệ phát triển thứ hai của khách hàng /máy chủ, và đây chính xác là những gì
mà nhóm LBIS đang tìm kiếm.
Những hệ thống như vậy là những cơ sở dữ liệu có khả năng phát triển, mở rộng ra và theo
Jacklin thì điều quan trọng hơn cả chính là vì hệ thống hoạt động dựa trên những nguyên tắc kinh
doanh cho nên khi những nhu cầu trong kinh doanh thay đổi thì hệ thống cũng sẽ có những biến
động trong tương lai. MDA đánh giá các công cụ được cung cấp trên thị trường khách hàng/ máy
chủ rằng nhà phát triển doanh nghiệp đã cung cấp một bộ công cụ tốt nhất của các cơ sở thế hệ
thứ hai.
Bước tiếp theo đó là sự trình bày về bộ công cụ Symantec tại MDA, "Bản thử nghiệm đã
thuyết phục chúng tôi. Chúng tôi đã tìm kiếm những công cụ phát triển khác nhưng chúng dường
như không đáp ứng đủ cho nhu cầu của chúng tôi. Và mặc dù MDA đã chưa bao giờ xây dựng
một dự án nào với Công cụ phát triển hoạt động kinh doanh nhưng họ đã thực sự hăng hái thực
hiện điều đó". Dựa vào bản thử nghiệm này và sự đồng tình về phạm vi dự án, công việc đã bắt
đầu từ 24 tháng 8.
Yêu cầu chủ chốt ở đây là hệ thống tương tác chủ yếu với người sử dụng có thể cho phép
nhân viên bán hàng qua điện thoại tại 30 màn hình tham chiếu được những chi tiết của khách hàng
và tạo được ngay lập tức một bảng kê khai báo giá MUDI. Hệ thống sẽ hoạt động chủ yếu ở
Windows 3.1 và dựa trên cơ sở GUI-giao diện giữa người và máy bằng đồ họa, ứng dụng PC
LAN cổ điển một cách cơ bản. Nó có thể vận hành trên một máy chủ sử dụng Novell.
Tuy nhiên, nhiệm vụ đầu tiên của MDA đó là phân tích hệ thống. Tại giai đoạn khởi đầu,
LIBS đã không trình bày tất cả yêu cầu của họ ngay cả đối với bản thiết kế biểu mẫu trên màn
hình. Vì vậy MDA đã sử dụng công nghệ RAD để tìm ra những yêu cầu có thể, và đã sử dụng 3
ngày tại LIBD ở Bournemouth để lần đầu tiên đưa ra bản phát thảo biểu mẫu trên màn hình sử
dụng công cụ phát triển hệ thống kinh doanh (Enterprise Developer). Đồng thời công ty phần
7
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
mêm còn phải làm giảm bớt sự lo ngại của nhóm người sử dụng có ít kinh nghiệm với windows
về hệ thống vận hành bằng chuột.

Để bắt đầu dự án, việc sử dụng cơ sở dữ liệu Watcom đã được thừa nhận. Tuy nhiên, qua
những cuộc thảo luận với LIBS và do những nguyên nhân từ chiến lược và điều hành nên việc sử
dụng Oracle được lựa chọn ưu tiên.
MDA đã phải cung cấp một cơ sở dữ liệu sẵn sàng trong chu trình phát triển nghiêm ngặt.
Khả năng để thích ứng với các trường hợp mới và cung cấp hệ thống đúng thời hạn là chỉ báo cho
việc sử dụng phương pháp RAD hiệu quả ( Trong thực tế, có những vấn đề tương thích nhỏ đã
biến mất khi LBIS nâng cấp để Enterprise Developer 2,5 vào đầu tháng mười một.)
Hệ thống đã được chuyển giao trong tuần trước tháng 9 cho lần thử nghiệm cuối cùng ở tư
thế sẵn sàng đi vào hoạt động sau thứ Hai tới. Bởi sau đó, đội ngũ kỹ thuật của LBIS đã điều
chỉnh để những người bán hàng qua điện thoại có thể nhận từ MUDI, tùy thuộc vào nhu cầu của
người gọi, với một thao tác phím đơn giản Alt/Tab.
Vào ngày chính thức đưa vào sử dụng, nhóm tiếp thị qua điện thoại đã xử lý 200 giao dịch
với khách hàng mà không gặp phải bất cứ sự cản trở khó khăn nào.J acklin, MDA và Symantec có
quyền để cảm thấy hài lòng với chính bản thân họ. Một doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ IT và sự hỗ
trợ đó phải được thực hiện đúng lúc.
Ngày nay, những người sử dụng đã được trang bị điện thoại cầm tay để nhập các chi tiết cá
nhân ảnh hưởng đến việc xếp loại như giới tính, mã… và nghề nghiệp trên màn hình GUI. Sự
trích dẫn sau đó xuất hiện trên màn hình tương tự. Trên màn hình sẽ hỗ trợ thêm 5 phần khác là
tình trạng, ý kiến, thư in ấn, đánh giá và tìm kiếm khách hàng hiện tại.
Jacklin đã vui vẻ kết luận: “Đây là một công ty phần mềm đã cho chúng tôi những gì chúng
tôi cần. Họ đã luôn tin tưởng rằng họ có thể làm một điều gì đó với Enterprise Developer trong
vòng một khoảng thời gianquy định. Không có sự chậm trễ nào mặc dù đó là ứng dụng đầu tiên
của Symantec và đã có sự thay đổi cơ sở dữ liệu trong quá trình tiến hành. Tôi nghĩ rằng điều đó
ũng đã nói lên được vài điều về Enterprise Developer. Và chúng tôi đã thành công cho một ngày
trọng đại.
8
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
“ Chúng tôi thích RAD và chúng tôi sẽ sử dụng nó một lần nữa. Trên thị trường , trong
những tổ chức theo mô hình LBIS, chúng tôi luôn có nhu cầu để phản ứng những thay đổi của
doanh nghiệp một cách nhanh chóng, và tôi cho rằng trong vòng 18 tháng chúng tôi phải cần một

hệ thống để quản lý tất cả 6 sản phẩm bảo hiềm của chúng tôi”.
Ông ấy nói thêm, “ Hệ thống đã cho phép LBIS khởi động một sản phẩm có tính cạnh tranh
cao hơn những cái khác và chúng tôi bán nhiều hơn cái mà chúng tôi thực hiện. Nó có thể đúng
thời điểm hoặc chúng ta bỏ lỡ cơ hội. Từ quan điểm công nghệ kỹ thuật, nó buộc chúng tôi phải đi
đến Windows, cái mà đã luôn là ý định cuối cùng của chúng tôi. Tất cả điều này, và hệ thống sẽ
hoàn vốn lại được trước khi Giáng sinh !
Câu hỏi :
1) Tại sao và bằng cách nào công ty đã lựa chọn phương pháp tiếp cận RAD sử dụng
cho dự án ?
2) Bạn có thể xác định những khuyết điểm của phương pháp RAD từ bài nghiên cứu?
3) Bạn nghĩ gì khi Lloyds có thể tin rằng trong tương lai dự án RAD sẽ thành công ?
TÓM TẮT CASE STUDY 7.3
Trong một tổ chức kinh doanh, để nắm bắt và thực hiện thành công một cơ hội kinh doanh
tùy thuộc vào cách xử lý những thông tin của bộ phận IT. Đây cũng là tình huống mà công ty
chuyên cung cấp các dịch vụ bảo hiểm ngân hàng Lloyds đã gặp phải khi họ muốn tung ra một
sản phẩm mới MUDI để đáp ứng nhu cầu thực tế và cũng do chính phủ Anh đã có động thái trong
việc quyết định thay đổi chính sách thanh toán các khoản thế chấp mua nhà ra khỏi an sinh xã hội
trong trường hợp những người sở hữu nhà dư thừa.Nhưng MUDI yêu cầu phải có hệ thống bán
9
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
hàng qua điện thoại từ xa. Để có thể đạt được mục tiêu đề ra trong sự giới hạn về nguồn lực và
một giới hạn nhất định về thời gian công ty đã đi tìm kiếm và xây dựng nên hệ thống thông tin
kinh doanh(BIS).
Trong quá trình tìm kiếm hệ thống thông tin phù hợp cho công ty thì bản thân công ty cũng
đã từng dùng một phiên bản đơn giản hơn cho các chi nhánh của ngân hàng nhưng nếu sử dụng
phiên bản này thì lại tốn kém về mặt chi phí trong quá trình giao dịch giữa khách hàng và công
ty.Không có một khách hàng nào muốn bỏ ra một khoản lớn 6.50 bảng Anh để trả cho 100 bảng
Anh tiền bảo chứng. Đồng thời, phiên bản này cũng không có một cơ sở vật chất nào cho sự bảo
đảm phát hành.
Không chỉ có thế, công ty cũng đã từng sử dụng một chương trình ứng dụng BIQS. Nhưng

ứng dụng này lại chạy trên DOS cho nên hệ thống Windows không thể thêm vào một cách đơn
thuần.
David Jacklin-nhà quản lý phát triển CNTT, LBIS cùng với nhóm đồng nghiệp của anh đã
thực sự bị cuốn hút bởi các chuyên gia về RAD,các chuyên gia của công ty phần mềm MDA và
công ty phần mềm cơ sở Croydon vào cuối tháng 7. Cho nên họ đã tìm kiếm về một bộ công cụ và
khái niệm về RAD. Với việc sử dụng Bộ công cụ đa năng Symantec, Công cụ phát triển hoạt động
kinh doanh (Enterprise Development) cùng với việc sử dụng cơ sở dữ liệu Oracle thì RAD ra đời.
Vào ngày chính thức đưa vào sử dụng, nhóm tiếp thị qua điện thoại đã xử lý 200 giao dịch
với khách hàng mà không gặp phải bất cứ sự cản trở khó khăn nào. Jacklin đã vui vẻ và kết luận
rằng không có một sự chậm trễ nào trong quá trình tiến hành, ông và nhóm cộng sự của ông rất
thích RAD, RAD chính là một sản phẩm tạo nên lợi thế cạnh tranh cho công ty, và nếu có thể thì
ông vẫn cứ dùng RAD. Ông tin tưởng rằng nếu công ty sử dụng RAD để hoạt động thì chắc chắn
sẽ hoàn vốn được trước Giáng sinh.
1. Cơ sở lý thuyết
1.1Hệ thống thông tin
1.1.1Tổng quan về hệ thống thông tin
10
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
Tốc độ phát triển nhanh chóng của môi trường kinh doanh hiện nay đã làm cho HTTT là
thành phần quan trọng giúp cho các doanh nghiệp duy trì đích ngắm để đạt được mục tiêu trong
kinh doanh.Công nghệ thông tin đã trở thành một tố chất không thể thiếu trong nhiều mũi đột phá
chiến lược mà các doanh nghiệp phải nắm bắt ngay từ đầu để đáp ứng được thách thức của sự thay
đổi. Chúng bao gồm việc nối mạng máy tính, nối mạng các công ty thành viên, toàn cầu hóa, tổ
chức lại quá trình kinh doanh, và sử dụng công nghệ thông tin cho lợi thế cạnh tranh. Đó là một
vài lý do chính tại sao ngày nay các doanh nghiệp cần phải có HTTT. HTTT thực hiện ba vai trò
quan trọng trong bất kỳ một tổ chức nào. Ba vai trò đó là :
- Hỗ trợ nghiệp vụ kinh doanh.
- Hỗ trợ việc ra quyết định của nhà quản lý.
- Hỗ trợ cho lợi thế cạnh tranh chiến lược.
1.1.2 Chu trình phát triển HTTT (System development life cycle – SDLC)

Chu trình phát triển HTTT là quá trình tính từ khi một HTTT được sinh (tạo) ra cho đến
khi chết đi hay nói cách khác là từ lúc hình thành đáp ứng yêu cầu, vận hành, bảo dưỡng cho đến
khi loại bỏ không dùng nữa. Chu trình phát triển HTTT là phương pháp luận cho sự phát triển,
duy trì và thay thế HTTT. Nó được phân chia thành 5 giai đoạn cơ bản sau (biểu diễn mỗi giai
đoạn có thể khác nhau tuỳ theo từng người) và mỗi giai đoạn cần phải được hoàn thành trước khi
tiến hành giai đoạn tiếp theo
11
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
1.2 Các mô hình phát triển HTTT
Để triển khai một dự án, doanh nghiệp có rất nhiều cách thức lựa chọn phần mềm. Một
doanh nghiệp có thể tự xây dựng phần mềm ứng dụng cho riêng doanh nghiệp, có thể mua sắm,
hoặc sử dụng các phần mềm có mã nguồn mở. Nếu doanh nghiệp chọn hình thức tự xây dựng các
phần mềm mã nguồn mở thì doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong số các phương pháp sau.
1.2.1Mô hình thác nước truyền thống (Waterfall)
Mô hình thác nước truyền thống là một dạng thể hiện của chu trình phát triển hệ thống
trong đó các giai đoạn được thực hiện theo thứ tự định trước với việc kiểm tra cuối mỗi giai đoạn
trước khi giai đoạn kế tiếp được bắt đầu. Mục đích của mô hình thác nước truyền thống trong việc
xây dựng hệ thống là nhằm chia quá trình phát triển thành một loạt các giai đoạn có liên quan với
nhau một cách có tổ chức để có thể được quản lý một cách khoa học. Ngoài ra còn do đặc thù của
phát triển hệ thống là một số công việc cần phải hoàn thành trước khi những việc khác có thể bắt
đầu.
12
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
Quy trình thực hiện
Mô hình thác nước có thể minh hoạ như hình bên dưới. Các giai đoạn được tiến hành tuần
tự và mỗi giai đoạn bắt đầu sau khi giai đoạn trước kết thúc. Mỗi giai đoạn đều có liên kết quay
ngược lại giai đoạn trước đó để sửa chữa những sai sót trong giai đoạn trước.
Đánh giá mô hình thác nước
Ưu điểm:
Quy trình triển khai có cấu trúc hết sức chặt chẽ từ mô tả yêu cầu đối với hệ thống, thiết kế,

phát triển, kiểm định hệ thống và cuối cùng là vận hành hệ thống. Hệ thống các bước triển khai rõ
ràng, cụ thể với việc phân công nhiệm vụ rất rõ ràng cho các chuyên gia công nghệ thông tin và
người sử dụng; đề ra cụ thể các mốc hoàn thành các nhiệm vụ, các nguyên tắc cần tuân thủ, các
yêu cầu chi tiết về kết quả sẽ đạt được. Do đó, đội dự án có thể xây dựng được một hệ thống thông
tin hoàn chỉnh đúng thời gian với chi phí không vượt quá ngân sách.
13
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
Nhược điểm
Khoảng cách hiểu biết giữa người phát triển và người sử dụng. Người sử dụng có xu hướng
biết ít về công nghệ, trong khi người phát triển có hiểu biết hạn chế về nghiệp vụ và quy trình ra
quyết định nằm đằng sau những yêu cầu xây dựng phần mềm.
Xu hướng cô lập giữa người phát triển và người sử dụng.Các nhà phát triển hệ thống sẽ bị
cô lập với người sử dụng thông qua rào cản về mặt thuật ngữ. Vấn đề thuật ngữ chuyên môn có
thể làm chậm tiến trình phát triển trong một số dự án. Bên cạnh đó là xu hướng cô lập về mặt vật
lý do đội ngũ phát triển thường làm việc trong phòng riêng của mình và hoàn toàn tách biệt với
người sử dụng.
Chất lượng sản phẩm được đo bởi đặc tả phần mềm nhiều khi không sát với yêu cầu người
dùng và hỗ trợ ra quyết định kém. Do đó cần phải chú trọng đến việc so sánh hệ thống với các yêu
cầu thực tế chứ không phải so sánh với các đặc tả vì đặc tả chỉ là sự ánh xạ các yêu cầu thực tế tại
một thời điểm cụ thể.
Mất nhiều công sức, thời gian phát triển trong khi môi trường kinh doanh thay đổi nhanh
chóng.Trong khi đó người dùng lại không có được cái mà họ thực sự cần.
1.2.2Mô hình phát triển ứng dụng nhanh RAD:
Mộ hình phát triển ứng dụng nhanh (RAD) là một quy trình phát triển phần mềm gia tăng,
tăng dần từng bước với việc tập trung xây dựng các ứng dụng trong một khoảng thời gian rất ngắn
(được thiết kế và phát triển trong khoảng 60-90 ngày). Để có thể thực hiện mô hình này thì cần có
một số yếu tố cốt lõi bao gồm: prototyping, phát triển lặp, time-boxing, các nhóm, phương pháp
quản lý và các công cụ RAD
●Prototyping: xây dựng một phiên bản của sản phẩm hoàn tất đưa cho người sử dụng xem
xét và phản hồi ý kiến, đề xuất chỉnh sửa

●Phát triển lặp: tạo ra các phiên bản chức năng của hệ thống trong chu kỳ phát triển ngắn,
mỗi phiên bản được khách hàng xem xét lại cho phù hợp với yêu cầu của phiên bản tiếp theo. Quá
trình này được lặp đi lặp lại tới khi tất cả các chức năng được phát triển.
14
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
●Time-boxing: là quá trình đưa ra các tính năng của phiên bản ứng dụng trong tương lai
để hoàn thành các phiên bản hiện tại trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể
●Các nhóm: phương pháp RAD được thực hiện bởi nhiều nhóm nhỏ gồm những người
nhiều kinh nghiệm, linh hoạt và có thể thực hiện được nhiều vai trò.
●Phương pháp quản lý: phải đảm bảo công việc được thực hiện với thời gian nghiêm
ngặt, lựa chọn được những thành viên thích hợp cho các nhóm.
●Các công cụ: RAD được thiết kế để tận dụng lợi thế của các công nghệ mới nhất (tích
hợp dữ liệu, công cụ mô hình hóa dữ liệu, mã hóa…)
Quy trình thực hiện: gồm các bước chính: lập kế hoạch, người sử dụng thiết kế, xây
dựng, triển khai
Giai đoạn Mô tả công việc
Lập kế hoạch
Đội ngũ lập kế hoạch và khách hàng tập trung để đề ra các yêu
cầu và thiết lập phạm vi dự án. Đội ngũ lập kế hoạch sẽ xác định các
chức năng kinh doanh chính, lên sơ đồ hành động xác định tương tác
giữa các quá trình và phần tử dữ liệu.
Người sử
dụng thiết kế
Nhóm phân tích sẽ gặp gỡ những người sử dụng cuối cùng, thảo
luận và đưa ra các yêu cầu cụ thể hơn, phát triển mô hình dữ liệu, tiến
hành kế hoạch kiểm tra và bố trí các bộ phận thiết yếu của hệ thống.
15
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
Xây dựng
Các nhóm thiết kế phát triển ứng dụng trong các chu kỳ lặp của

sự phát triển, kiểm nghiệm, các yêu cầu cải tiến cho đến khi ứng dụng
hoàn chỉnh. Yêu cầu là giữ cho quá trình lặp theo đúng tiến độ và các
tính năng phải giảm xuống để đảm bảo được thời gian. Khi nhóm xây
dựng đưa ra mẫu thử nghiệm ban đầu, các nhóm thiết kế sẽ đánh giá việc
áp dụng, các khách hàng đánh giá các ứng dụng và xác định các yêu cầu
cho việc lặp tiếp theo. Trong chu kỳ lặp cuối cùng, nhóm thiết kế sẽ cập
nhật tài liệu hướng dẫn cho người sử dụng, xác định các bước cần thiết
để thực hiện ứng dụng.
Triển khai
Tích hợp hệ thống mới vào kinh doanh. Nhóm phát triển chuẩn bị
dữ liệu và thực hiện các giao diện đến các hệ thống khác. Nhóm thiết kế
giúp người sử dụng chuyển từ những thủ tục cũ sang thủ tục mới phù
hợp với hệ thống mới, chỉ cho họ cách vận hành hệ thống mới, làm thế
nào để khắc phục những rắc rối trong việc triển khai, xác định và theo
dõi khả năng cải tiến của hệ thống
2. Khái quát về công ty
2.1 Ngân hàng Lloyds
Trong thế kỷ 17, London có một tầm chiến lược quan trọng, là một trung tâm thương mại
lớn của thế giới. Điều đó đã dẫn đến một nhu cầu ngày càng tăng cho việc bảo hiểm các tàu và
bảo hiểm hàng hóa nơi đây.
Quán cà phê của Edward Lloyd đã được công nhận để trở thành một nơi để bảo hiểm hàng
hải và đây chính là nơi mà Lloyd đã ra đời như chúng ta biết đến ngày hôm nay.
Từ những khởi đầu trong một căn nhà cà phê năm 1688, Lloyd đã được đi tiên phong trong
bảo hiểm và đã phát triển hơn 300 năm để trở thành thị trường hàng đầu thế giới.
Ngày nay, Lloyd là thị trường bảo hiểm hàng đầu thế giới, nằm trong một tòa nhà hiện đại
đã từng đoạt giải thưởng ở đường Lime thuộc thành phố London.
Thị trường của Lloyds hầu như có mặt khắp các quốc qia, Lloyds đã hoạt động hiệu quả
trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.
16
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]

Cũng giống như những công ty khác thì Lloyds tập hợp những người cần bán một thứ gì đó
( bảo lãnh phát hành, người cung cấp bảo hiểm) với những người cần mua( công ty môi giới- làm
việc cho khách hàng của họ, những người đang tìm kiếm bảo hiểm). Các doanh nghiệp, tổ chức,
công ty bảo hiểm khác và cá nhân từ khắp nơi trên thế giới muốn bảo vệ mình chống lại các rủi ro
có thể ảnh hưởng đến họ thì họ có thể tiếp cận một nhà môi giới và giải thích các nhu cầu cá nhân
của họ.
Các thành viên cung cấp vốn để hỗ trợ cho việc bảo lãnh phát hành của Lloyds bao gồm
một số tập đoàn bảo hiểm và các công ty lớn của thế giới niêm yết trên sàn chứng khoán London,
cũng như các cá nhân và các đối tác.
2.2 LBIS
LBIS là một công ty con của ngân hàng Lloyds và Abbey Life. Đó là một công ty môi giới
độc lập kinh doanh lĩnh vực bảo hiểm cuộc sống, lương hưu và bảo hiểm chung. Doanh thu hàng
năm là 100 triệu bảng Anh và có đến 800 người được tuyển dụng tại Haywards Health và sáu văn
phòng các khu vực. Một tỷ lệ đáng kể trong kinh doanh của công ty được tạo ra thông qua một
đơn vị kinh doanh được gọi là ngân hàng bảo hiểm trực tiếp Lloyds (LBID). Thực sự ra mà nói thì
LBIS giống như một tổ chức tiếp thị từ xa qua điện thoại, có trụ sở ở Bournemouth. Khoảng 70 %
kinh doanh của nó thông qua các chi nhánh của ngân hàng Lloyds ,30 % còn lại là từ những
người trả lời trực tiếp thư quảng cáo và gọi điện thoại trực tiếp.
3. Phân tích
3.1 Vấn đề
Chính phủ đưa ra quyết định West Sussex để sửa đổi các quy tắc liên quan đến các khoản
thanh toán thế chấp bao gồm cả an sinh xã hội trong trường hợp chủ đầu tư đang thực hiện dự
phòng. Điều này mở ra một cửa sổ bảo hiểm mới cần khai thác. Vì thế ngân hàng Lloyds cần
một sản phẩm mới MUDI, và yêu cầu đặt ra là cần một hệ thống báo giá bán hàng qua điện thoại.
Môi trường kinh doanh luôn thay đổi nhanh chóng, trong khi các hệ thống phát triển theo
mô hình thác nước truyền thống có xu hướng cung cấp hệ thống quá trễ, do đó không đáp ứng
được yêu cầu về thời gian của ngân hàng Lloyds. Đồng thời, hệ thống mới cần sự tham gia tích
17
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
cực, trực tiếp của người dùng trong quá trình phát triển và tăng tốc độ phát triển so với mô hình

thác nước truyền thống.
Từ những yêu cầu trên, ngân hàng Lloyds đã tìm được một phần mềm, một công cụ phát
triển môi trường và một cách tiếp cận nhanh theo dõi được gọi là RAD (phát triển ứng dụng
nhanh). Là một phương pháp phát triển hệ thống phần mềm máy tính. Trong đó từng phần của hệ
thống được lập trình và cài đặt chứ không phải chờ toàn bộ hệ thống hoàn thành.
Dự án RAD là phù hợp vì nó có thể tạo ra một kênh phân phối mới cho doanh nghiệp, cắt
giảm chi phí cho ngân hàng. Hệ thống mới kết hợp với một màn hình sẽ thay thế cho những mẫu
đơn giấy đơn giản để thực hiện một cách linh hoạt việc định giá phí bảo hiểm phù hợp với yêu cầu
của người sử dụng trong khoảng từ 4.40 bảng Anh đến 9.40 bảng Anh trên 100 bảng Anh tiền bảo
chứng. Trong khi đó, một phiên bản đơn giản hơn của MUDI đã được dùng cho các chi nhánh
ngân hàng thì không có bất cứ một cơ sở vật chất nào cho việc bảo lãnh phát hành một cách chính
xác và bất cứ ai sử dụng đến điều khoản này đều phải trả 6.50 bảng Anh cho 100 bảng Anh tiền
bảo chứng (ví dụ tiền nhà trả hàng tháng là 300 bảng Anh thì phí bảo hiểm sẽ là 19.50 bảng Anh).
Thêm vào đó, dự án RAD còn có khả năng tương thích với các hệ thống khác như
Windows, điều này đã khắc phuc được yếu điểm của chương trình ứng dụng BIQS (Building
Insurance Quotations Service) - được sử dụng tại Bournermouth, do nó chỉ chạy trên DOS, cho
nên hệ thống Windows không thể thêm vào một cách đơn thuần.
Ngoài ra, một trong những điểm thu hút chính của RAD là có thể cung cấp một phiên bản
có khả năng làm việc trong một thời gian ngắn (trong thực tế, ngân hàng Lloyds đã phát triển toàn
bộ hệ thống trong 5 tuần), việc thử nghiệm được kết hợp với chu kì phát triển, các đặc điểm kỹ
thuật linh hoạt, và người sử dụng có thể tham gia vào toàn bộ quá trình.
Đồng thời, hệ thống RAD đã cho phép LBIS khởi động một sản phẩm cạnh tranh hơn
những cái khác và giúp họ bán được nhiều hơn cái mà họ sẽ phải thực hiện.
3.2 Hướng triển khai
18
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
Để phát triển hệ thống RAD, yêu cầu quan trọng là hệ thống tương tác chủ yếu với người
sử dụng có thể cho phép nhân viên bán hàng qua điện thoại tại 30 màn hình để nắm bắt các chi tiết
về khách hàng và đưa ra bản kê giá MUDI ngay lập tức. Đồng thời, hệ thống hoạt động trên
Windows 3.1, dựa trên GUI – giao diện người – máy bằng đồ họa, cơ bản là một ứng dụng mạng

nội bộ cổ điển và sẽ chạy máy chủ Compaq bằng việc sử dụng Novell. Từ những yêu cầu trên,
nhóm máy tính tại dịch vụ bảo hiểm Ngân hàng Lloyds đã tìm kiếm một bộ công cụ phát triển và
khái niệm về RAD trong những ngày đầu hè. Họ đã thực sự bị cuốn hút bởi các chuyên gia về
RAD và công ty phần mềm MDA mà họ gặp ở viện phần mềm Croydon.
Nhiệm vụ đầu tiên của MDA đó là phân tích hệ thống. Tại giai đoạn khởi đầu, LIBS đã
không trình bày một cách hệ thống yêu cầu của họ, ngay cả bản thiết kế mẫu trên màn hình. Nên
MDA sử dụng công nghệ RAD để tính toán những yêu cầu của LBIS, và bỏ ra 3 ngày tại LIBD ở
Bournemouth để phát thảo biểu mẫu trên màn hình sử dụng công cụ phát triển hoạt động kinh
doanh để giảm bớt nỗi lo ngại của nhóm người sử dụng có ít kinh nghiệm về Windows, về hệ
thống vận hành bằng chuột.
Để bắt đầu dự án, việc sử dụng cơ sở dữ liệu Watcom được áp dụng. Tuy nhiên, qua những
cuộc thảo luận với LIBD, do các nguyên nhân về chiến lược và hỗ trợ điều hành việc sử dụng
Oracle đã được quyết định ưu tiên lựa chọn.
Hệ thống RAD cần có sự hỗ trợ của công cụ hay sử dụng ngôn ngữ cấp cao. Do đó, công ty
phần mềm đã xem xét nhu cầu về môi trường phát triển chuyên biệt của LBIS và đề xuất sử dụng
công cụ phát triển hoạt đông kinh doanh. Bộ công cụ linh hoạt này của Symantec có tất cả những
tính năng cao cấp của hệ thống phát triển máy chủ thứ 2 và đó chính là những gì mà nhóm LBIS
tìm kiếm. Bước tiếp theo, đó là sự trình bày bộ công cụ Symantec tại MDA, bản thử nghiệm đã
thuyết phục nhóm LBIS. Nhóm LBIS đã từng xem qua rất nhiều công cụ phát triển khác nhưng
chúng hầu như không đáp ứng được nhu cầu của ngân hàng. Và mặc dù MDA chưa từng xây
dựng bất cứ dự án nào với công cụ phát triển hoạt động kinh doanh nhưng họ đã nhiệt tình thực
hiện điều đó. MDA đã phải cung cấp một cơ sở dữ liệu mới trong chu trình phát triển khép kín.
Khả năng thích ứng với những tình huống mới và tung ra hệ thống kịp thời là một chỉ báo sự hiệu
quả to lớn đối với phương pháp RAD và bộ công cụ Symantec.
19
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
Sau đó đội ngũ kỹ thuật của LBIS đã điều chỉnh hệ thống mới để những người bán hàng
qua điện thoại có thể nhận từ MUDI, tùy thuộc vào nhu cầu của khách hàng, với một tổ hợp phím
đơn giản Alt/Tab.
Ta có thể thấy được những ưu điểm của RAD như sau:

 Tùy theo yêu cầu cụ thể của mỗi dự án mà thời gian phát triển phần mềm có thể
được giảm một cách đáng kể. Như tại Ngân hàng Lloyds, RAD được cung cấp một cách nhanh
chóng trong một thời gian ngắn. Chỉ trong 5 tuần kể từ khi nhận được yêu cầu, LIBS đã đưa ra
được một giải pháp đáp ứng được những yêu cầu từ phía Ngân hàng Lloyds.
 Phương pháp này thích hợp cho những tổ chức có môi trường hoạt động thay đổi
nhanh và liên tục.
 Những mẫu phần mềm được thay đổi có thể được lưu trữ và dùng trong tương lai.
Điều này giúp tiết kiệm thời gian cho những dự án sử dụng lại ứng dụng cơ sở như RAD. Vì thế,
ngân sách cho dự án và thời gian có thể được tiết kiệm đáng kể do khả năng tái sử dụng của các
nguyên mẫu.
 Việc kiểm tra được thực hiện song song trong suốt chu trình phát triển. Những yêu
cầu chưa được đáp ứng sẽ được giải quyết nhanh chóng. Nhà tài trợ dự án (trong trường hợp này
là Ngân hàng Lloyds) tham gia vào quá trình kiểm tra, nhận phản hồi trong quá trình phát triển
ứng dụng. Nên kết quả cuối cùng sẽ mang lại sự hài lòng cho toàn bộ các bên.
3.3 Nhược điểm
1. RAD có thể không hữu ích cho những dự án lớn, chuyên sâu và phức tạp
2. Phương pháp này sẽ không thể thành công nếu đội ngũ vận hành không có đủ động
lực và không phối hợp ăn í với nhau
3. Sự thành công của RAD phụ thuộc vào trình độ của chuyên gia phát triển.
4. Trong quá trình làm việc, độ ngũ vận hành bỏ qua một trong số các tiêu chí cần thiết
như độ tin cậy, tính nhất quán và sự tiêu chuẩn hóa thì việc quản lý chất lượng dự án sẽ rất khó
thực hiện.
5. Và hệ thống quản lý thông tin kiểu những ứng dụng dựa trên GUI và CSDL, đồng
thời cần có sự hỗ trợ của công cụ hay sử dụng ngôn ngữ cấp cao và do phải hoàn thành trong thời
gian ngắn nên RAD được áp dụng tại ngân hàng Lloyds có thể không đáp ứng được nhu cầu của
ngân hàng, khách hàng… Thực tế là khi áp dụng RAD, đã có một số vấn đề xảy ra với khả năng
tương thích với cơ sở dữ liệu và các tình huống mới.
20
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
6. Người dùng có thể không chuyên trong vấn đề kỹ thuật. Vì thế việc tối giản các thao

tác, các hiển thị sao cho người dùng có thể thuận tiện nhất trong sử dụng là cần thiết. Nhưng
không hề dễ dàng khi thực hiện điều đó. Đã có ứng dụng BIQS chạy trên hệ DOS nhưng điều này
lại không khả dĩ cho người sử dụng khi người sử dụng hiện nay, phần lớn đang dùng Hệ điều hành
Windows. Việc thao tác với chuột và màn hình sẽ đơn giản và tiện lợi hơn rất nhiều so với làm
việc bằng các lệnh trong hệ điều hành DOS.
4.4 Giải pháp cho công ty
4.4.1 Phát huy ưu điểm
 Thời gian phát triển phần mềm có thể được giảm một cách đáng kể nếu ngay từ lúc
bắt đầu vào dự án, mục tiêu và yêu cầu cần phải được đưa ra rõ ràng. Trong trường hợp của Ngân
hàng Lloyds, do đã xác định được mục tiêu và yêu cầu nên chỉ sau 5 tuần, hệ thống MUDI với
việc quản lí khách hàng thông qua trích dẫn thông tin trực tiếp trên màn hình máy tính đã hoạt
động hiệu quả, đáp ứng được hạn mức thời gian của Ngân hàng.
 Ngân hàng Lloyds có thể lưu trữ ứng dụng phát triển này và áp dụng cho những dự
án sau này. Việc này sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí cho Ngân hàng.
 Trong quá trình phát triển ứng dụng, các bên liên quan cần phối hợp với nhau để
tiến hành kiểm tra, nêu ý tưởng cải tiến để quá trình có thể tiến hành nhanh chóng và hiệu quả.
4.4.2 Khắc phục nhược điểm
1. Để RAD có thể phát huy được những ưu điểm của mình, cũng như đưa lại hiệu quả
cao, đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thì những dự án áp dụng RAD cần phải có mục tiêu
rõ ràng, yêu cầu cụ thể và nhất quán.
2. Cần chọn một đội ngũ chuyên viên phát triển làm việc ăn ý với nhau, phối hợp với
nhau tốt. Như thế RAD mới được áp dụng một cách hiệu quả, tránh những sai sót không đáng có
và tiết kiệm thời gian, công sức cho toàn bộ hệ thống làm việc. Nhóm lập kế hoạch sẽ đề ra tầm
nhìn vĩ mô cho dự án, Nhóm phân tích sẽ phân tích những yêu cầu cụ thể, lập kế hoạch bố trí và
kiểm tra quá trình. Các nhóm thiết kế phát triển các ứng dụng, kiểm nghiệm và yêu cầu sự cải
tiến, lập hướng dẫn sử dụng cho người dùng… Như thế, chu trình phát triển hệ thống là một chu
trình liên hoàn và cần sự phối hợp chặt chẽ từ các nhóm, các bước. Sẽ rất khó khăn nếu các nhóm
không thể phối hợp với nhau và điều tất yếu là quy trình sẽ không hiệu quả.
21
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]

3. Yêu cầu xhuyên môn cao và công việc cần sự sáng tạo và khả năng thích ứng trong
môi trường thay đổi cảu các chuyên viên. Vì thế, cần chọn những công ty phát triển và cung cấp
RAD uy tín cũng như phù hợp với tình hình tài chính của công ty.
4. Bảo đảm nghiêm ngặt khâu kiểm tra và đánh giá quá trình áp dụng. Thường xuyên
nhận thấy những yêu cầu thay đổi sao cho mục tiêu đề ra của dự án được thực hiện. Khuyến
khích, động viên các chuyên viên, tạo được môi trường cạnh tranh trong các nhóm. Nâng cao tinh
thần tự giác bằng chế độ thưởng, động viên đúng lúc…
5. Cập nhật, phát triển ngay khi thấy lỗi hoặc phần không đạt yêu cầu. Ngay khi thấy
một số vấn đề xảy ra với khả năng tương thích với cơ sở dữ liệu và các tình huống mới khi áp
dụng RAD, LIBS đã nâng cấp Công cụ phát triển hoạt động kinh doanh phiên bản 2.5 ngay đầu
tháng 11.
6. Cần phải có một đội ngũ chuyên viên tập trung vào việc đơn giản hóa thao tác và
hiển thị. Chuyển từ dùng lệnh trong DOS qua dùng chuột và màn hình trong Windows là điều tất
yếu. Ngoài ra, các chuên viên kỹ thuật còn làm rất tốt khi tích hợp tính năng chuyển đổi giữa
MUDI và BIQS chỉ với tổ hợp phím Alt/Tab.
4.5 Đánh giá tính khả thi
Tính khả thi của một dự án hệ thống thông tin không những cần xác định khi bắt đầu khởi
tạo mà còn phải được xác định trong quá trình xây dựng dự án. Việc nghiên cứu tính khả thi của
dự án được nghiên cứu dựa trên bốn khía cạnh: khả thi về tổ chức, khả thi về mặt kinh tế, khả thi
về mặt vận hành và khả thi về hoạt động. Để quyết định xem Ngân hàng Llloyds áp dụng RAD
trong phát triển MUDI có mang lại hiệu quả trong tương lai, chúng ta xem xét tính khả thi về mặt
kinh tế và tổ chức. Vì chỉ trong thời gian phát triển ban đầu và đang hoàn thiện nên hai mặt khả
thi còn lại thì khó có thể đánh giá một cách rõ ràng được. Do đó trong phần này, nhóm chúng tôi
sẽ tập trung phân tích tính khả thi của dự án dựa vào khả thi tổ chức và kinh tế.
4.5.1Khả thi về mặt tổ chức
Khả thi về mặt tổ chức xem xét giải pháp có đáp ứng được yêu cầu của tổ chức không, xem
xét hệ thống có phù hợp với chiến lược kinh doanh và chiến lược hệ thống thông tin không.
Trong case study này thì vấn đề mà ngân hàng Lloyds đang đối mặt là cần một hệ thống để
phát triển sản phẩm mới MUDI, nhưng hệ thống mới này cần phải nhanh, giảm chi phí, người
dùng có thể tham gia đóng góp vào quá trình phát triển của hệ thống. Khi áp dụng RAD thì tổ

chức đã khẳng định được sự phù hợp của RAD đối với chiến lược kinh doanh của họ.
22
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
Trong ngày làm việc đầu tiên thì hệ thống đã giải quyết được 200 giao dịch với khách hàng
mà không gặp bất cứ một cản trở nào gây ra sự khó khăn. Điều này, cũng đã chứng minh cho sự
phù hợp và thành công bước đầu của RAD. Sai sót là điều khó tránh khỏi khi áp dụng một hệ
thống trong lần đầu tiên sử dụng. Thế nhưng RAD đã cho thấy tính khả thi cao khi được tổ chức –
MDA – tính toán và xây dựng một mô hình RAD phù hợp nhất cho dự án MUDI.
Khi xem xét tính khả thi về mặt tổ chức đối với hệ thống thì chúng ta còn phải xem xét
những thái độ của người quản trị và người dùng cuối đối với hệ thống. Jacklin và các cộng sự của
anh ta đã rất hài lòng về hệ thống. Jacklin đã vui vẻ và kết luận: “Đây là một công ty phần mềm
đã cho chúng tôi những gì chúng tôi cần. Và chúng tôi đã thành công cho một ngày trọng đại.
Chúng tôi thích RAD và chúng tôi sẽ sử dụng nó một lần nữa. Trên thị trường , trong những tổ
chức theo mô hình LBIS, chúng tôi luôn có nhu cầu để phản ứng những thay đổi của doanh
nghiệp một cách nhanh chóng, và tôi cho rằng trong vòng 18 tháng chúng tôi phải cần một hệ
thống để quản lý tất cả 6 sản phẩm bảo hiềm của chúng tôi”.
Nhìn chung, mô hình RAD áp dụng cho dự án MUDI đã cho thấy tính khả thi đối với chiến
lược kinh doanh của ngân hàng Lloyds.
4.5.2 Khả thi về mặt kinh tế
Khả thi về mặt kinh tế là phân tích các chi phí và lợi ích trong việc thực hiện hệ thống mới.
Phân tích chi phí và lợi ích của hệ thống thông tin không phải là một khoa học chính xác.
Vấn đề cơ bản là sự khó khăn trong việc đánh giá chính xác chi phí và lợi ích của hệ thống thông
tin, do đó, chúng ta chỉ có thể đánh giá ở một khía cạnh nào đó của vấn đề. Để phát triển, triển
khai dự án RAD, Ngân hàng Lloyds phải mua phần mềm Windows 3.1 và duwjj trên cơ sở GUI,
ứng dụng PC LAN cổ điển, bộ công cụ đa năng Symantec, ngôn ngữ cấp cao nếu Ngân hàng
chưa có. Đồng thời, phải bỏ ra chi phí cho nhóm phát triển dự án, cho MDA, chi phí trong quá
trình vận hành, chạy thử, mở rộng, bảo trì hệ thống.
Trong khi chi phí của hệ thống thông tin thường dễ xác định, việc định lượng các lợi ích
thường khó khăn hơn bởi các lợi ích đa phần là lợi ích vô hình và mang tính ước lượng trong
tương lai. Hệ thống RAD giúp cho Ngân hàng cắt giảm được chi phí, tăng hiệu quả cho quy trình

nghiệp vụ cũng như chất lượng thông tin hỗ trợ cho các quy trình. Nó còn giúp nâng cao chất
23
[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
lượng phục vụ khách hàng của Ngân hàng Lloyds. Đồng thời, hệ thống RAD đã cho phép LBIS
khởi động một sản phẩm cạnh tranh hơn, tạo ra lợi thế cạnh tranh đến từ việc là người dẫn đầu
nhằm đảm bảo sự thành công trong tương lai.
 Tiểu kết
Chỉ mới là giai đoạn đầu của dự án, còn nhiều vấn đề cần được giải quyết, và còn nhiều
việc phải làm để có thể đưa MUDI áp dụng RAD vào hoạt động tại Ngân hàng Lloyds. Nhưng với
những ưu thế của mình, RAD đang cho thấy tính khả thi rất cao và chúng ta có thể tin tưởng rằng,
với những cố gắng của mình, Ngân hàng Lloyds có thể có một dự ấn thành công và trên hết đó là
sẽ mang lại sự phuc vụ tốt nhất cho khách hàng.
6.Kết luận
Thông qua bài nghiên cứu của nhóm chúng tôi cũng đã giúp các bạn hiểu được tầm quan
trọng của một BIS đối với một tổ chức kinh doanh. Và khi khởi tạo, xây dựng và phát triển một hệ
thống thông tin kinh doanh thì tổ chức kinh doanh cần phải xác định được mục tiêu kinh doanh
của tổ chức, cần phải đánh giá được tiềm lực thực tế của chính tổ chức mình để có thể lên kế
hoạch cho một dự án xây dựng một BIS, và lựa chọn phương pháp để thực hiện giải pháp cho mục
tiêu của tổ chức mình như thế nào.
Thông qua bài viết các bạn cũng có thể nhìn thấy rõ được RAD là gì; RAD chính là một
quy trình phát triển phần mềm gia tăng, tăng dần từng bước với việc tập trung xây dựng các ứng
dụng trong một khoảng thời gian rất ngắn (được thiết kế và phát triển trong khoảng 60-90 ngày);
mô hình về RAD. Đồng thời giúp các bạn nhận thấy được khi sử dụng RAD sẽ tiết kiệm được chi
phí, thời gian cho quá trình xây dựng và phát triển ngắn, có sự liên kết với người dùng cuối,
người dùng cuối sẽ đóng góp ý kiến nhận xét, thông tin của khách hàng sẽ phản hồi để giúp mô
hình hoàn thiện, thỏa mãn được sự kỳ vọng của tổ chức kinh doanh và người dùng cuối. Nhưng
RAD chỉ phù hợp với những tổ chức mà có nguồn lực dồi dào, có kỹ năng, kinh nghiệm và đặc
biệt là họ phải linh hoạt có thể đảm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau. Và đặc biệt RAD không thể
áp dụng tốt cho các ứng dụng không được module hóa và tính năng cao.
24

[Lớp 25T19] – [Nhóm 9] – [Case study 7.3]
25

×