Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

thất bại thị trường việc làm do thông tin bất cân xứng gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.19 KB, 21 trang )

Môn: Kinh tế công cộng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ HỌC
MÔN: KINH TẾ CÔNG CỘNG
TÊN ĐỀ TÀI:
Thất bại thị trường do thông tin không cân xứng
gây ra
1
Môn: Kinh tế công cộng
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lý do chọn đề tài
Nguyên nhân chủ yếu để chính phủ can thiệp vào nền kinh tế, là thúc đẩy hiệu
quả và sự công bằng, đồng thời nhằm khắc phục các dạng thất bại thị trường, nâng cao
hiệu quả phân bổ nguồn lực. Nghĩa là, hầu hết các chính sách đều nhằm vào mục tiêu
vừa làm cho chiếc bánh kinh tế lớn lên, vừa làm thay đổi cách thức phân chia chiếc
bánh đó.
Trong đó tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường là một trong những
trường hợp thất bại thị trường thường xuyên xảy ra trên nhiều lĩnh vực, điều này đã
khiến các nguồn lực được phân bổ quá nhiều hoặc quá ít cho thị trường đó so với mức
hiệu quả xã hội. Ngoài ra nó còn tạo động cho bên có đầy đủ thông tin hơn lợi dụng lợi
thế này đề thủ lợi cho mình trên sự thiệt thòi của bên kia. Sự can thiệp của chính phủ
trong những trường hợp như vậy sẽ giúp bổ sung thông tin cho thị trường, hoặc kiểm
soát hành vi của những những bên có lợi thế về thông tin để đảm bảo thị trường hoạt
động suôn sẻ.
Hiện nay vấn đề giải quyết việc làm là một trong những mối quan tâm hàng đầu
nước ta. Thế nhưng thị trường này đang gặp rất nhiều khó khăn do hiện tượng bất cân
xứng thông tin giữa các chủ thể trong thị trường. Đây là thực trạng rất phổ biến và nan
giải. Nắm bắt được tâm lý và nhu cầu đó của sinh viên, các trung tâm giới thiệu việc
làm “ mọc lên như nấm” và hoạt động rất chuyên nghiệp. Các trung tâm đã tạo điều
kiện cho sự gặp gỡ giữa cung và cầu, đã làm chiếc cầu nối cho hàng trăm ngàn người
lao động kiếm được việc làm, góp phần giải quyết khó khăn cho chính bản thân và cho


cả gia đình họ. Tuy nhiên, bên cạnh những trung tâm làm ăn chân chính lại tồn tại khá
nhiều trung tâm “dởm”, trung tâm “ lừa”, lợi dụng các kẽ hở của pháp luật, hoạt động
bất chấp luật pháp tạo nên mảng tối trong thị trường giới thiệu việc làm, cung ứng lao
động, đó là cơ sở cho thất bại thị trường mà chính phủ cần phải can thiệp. Một trong
những nơi có số lượng trung tâm giới thiệu việc làm lớn đó là trên địa bàn thành phố
Hà Nội, nơi đây tập trung đông đảo học sinh, sinh viên và các trường đại học trong cả
nước. Vì thế nhóm chọn đề tài: “ Thất bại thị trường do thông tin không đối xứng
thông qua trường hợp các trung tâm giới thiệu việc làm trên địa bàn thành phố Hà
Nội.” để làm rõ về vấn đề này.
2
Môn: Kinh tế công cộng
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về thông tin bất cân xứng của các
trung tâm giới thiệu việc làm cho sinh viên trên địa bàn Hà Nội.
- Nghiên cứu thực trạng thông tin bất cân xứng trong việc giới thiệu việc làm cho sinh
viên của các trung tâm, từ đó tìm ra nguyên nhân và những nhân tố ảnh hưởng đến sự
hình thành của những thông tin bất cân xứng này.
- Đề xuất các giải pháp phù hợp với yêu cầu tìm việc của sinh viên, nhằm khắc phục
những tổn thất do các trung tâm giới thiệu việc làm “dỏm” tạo ra. Đồng thời giúp các
doanh nghiệp hay người tuyển việc không bị lừa.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Dựa vào phương pháp này để xem xét, phân tích đánh giá sự vật hiện tượng một
cách có hiệu quả
- Phương pháp phân tích thống kê.
Thu thập và xử lý số liệu: số liệu chủ yếu là số liệu thứ cấp lấy từ các tài liệu đã
công bố như niên giám thống kê các cấp, các tài liệu trong sách, báo, internet
- Phương pháp tổng hợp và phân tích.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản, phân tích, tổng hợp để làm rõ hơn
tác động của thông tin bất cân xứng, qua đó đề xuất giải pháp.

4.Phạm vi nghiên cứu
Các trung tâm giới thiệu việc làm trên địa bàn Hà Nội hiện nay.
3
Môn: Kinh tế công cộng
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. Tổng quan về thất bại thị trường và thông tin không đối xứng
I.1 Thất bại thị trường
Thất bại thị trường: là những trường hợp mà thị trường cạnh tranh không thể sản
xuất ra hàng hóa và dịch vụ ở mức như xã hội mong muốn.
Các dạng thất bại thị trường là:
+ Độc quyền thị trường.
+ Ngoại ứng.
+ Hàng hóa công cộng.
+ Thông tin không đối xứng.

I.2 Lý thuyết về thông tin bất cân xứng
Thất bại về thông tin của thị trường gồm có hai dạng: thứ nhất, thông tin mang
tính chất của hàng hóa công cộng, tức là việc tiêu dùng thông tin không mang tính
cạnh tranh, việc sử dụng thông tin của người không cản trở lợi ích từ việc sử dụng
thông tin của người khác. Dạng thứ hai của thông tin là tình trạng mà lượng thông tin
về tính chất của hàng hóa không được chia sẻ đồng đều như nhau giữa các đối tác
tham gia thị trường.
1.2.1 Khái niệm thông tin bất cân xứng
Thông tin bất cân xứng là mức độ thông tin không phản ánh kịp thời, chính xác,
đầy đủ về thị trường và diễn biến của nó. Theo nghĩa hẹp nó hàm ý có sự khác biệt
đáng kể về khối lượng và chất lượng thông tin đã được tích lũy đến thời điểm xác định
giữa các đối tượng liên quan. Nghĩa là, một bên giao dịch có các thông tin liên quan
trong khi bên kia không có hoặc có không đầy đủ.
Thông tin bất cân xứng vừa là khách quan vừa là chủ quan. Tính khách quan là
do cấp độ hiệu quả thị trường gây ra những hạn chế về truyền tải và cập nhật thông tin.

Tính chủ quan là do sự thiếu nỗ lực cũng như chưa quan tâm đầu tư tìm kiếm khai thác
thông tin của các đối tượng là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tham gia thị trường.
1.2.2. Hậu quả của thông tin bất cân xứng
Thông tin bất cân xứng là một thất bại của thị trường vì nó gây ra sự lựa chọn
ngược (lựa chọn bất lợi), rủi ro đạo đức (tâm lý ỷ lại), vấn đề người ủy quyền-
người thừa hành.
4
Môn: Kinh tế công cộng
• Lựa chọn đối nghịch
Lựa chọn đối nghịch là kết quả của thông tin bị che đậy. Nó xảy ra trước khi
thực hiện giao dịch hay nói cách khác là trước khi kí hợp đồng. Khi đó, lựa chọn một
bên sẽ phải dựa trên thông tin bất cân xứng. Hệ quả là lợi ích đạt được của bên có
thông tin cao hơn lợi ích kì vọng của thị trường và chi phí kì vọng của bên bất lợi
thông tin cao hơn chi phí kì vọng thị trường.
• Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức hay còn gọi là tâm lý ỷ lại là tình trạng cá nhân hay tổ chức
không còn động cơ để cố gắng hay hành động một cách hợp lý như trước khi giao
dịch xảy ra, là hiện tượng một bên đối tác che đậy hành vi sau khi ký kết hợp đồng
giao dịch dẫn đến việc tuân thủ không đúng hợp đồng giao dịch tạo bất lợi cho một
bên khác có ít thông tin.
• Vấn đề người ủy quyền-người thừa hành.
Đây là trường hợp đặc biệt vì nó bao gồm cả lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo
đức. Khi người ủy nhiệm giao quyền cho người thừa hành, họ sẽ không trực tiếp điều
hành công việc, do đó, họ biết ít thông tin hơn người thừa hành. Bên cạnh đó, người
thừa hành và người ủy quyền có thể theo đuổi những mục tiêu không giống nhau, dẫn
tới người thừa hành có những hành động không phục vụ lợi ích của người ủy quyền.
Vì có ít thông tin hơn nên người ủy quyền khó cưỡng chế thi hành, đánh giá hay
khuyến khích công việc của người thừa hành. Điều này dẫn tới sự lựa chọn bất lợi của
người ủy quyền.
Thông tin bất cân xứng sẽ làm cho việc cung cấp hàng hóa trên thị trường

không đạt hiệu quả dẫn tới tổn thất xã hội. Tổn thất có thể là do cung cấp hàng hóa
trên hoặc dưới mức hiệu quả của xã hội.
1.2.2 Mức độ nghiêm trọng của thất bại thị trường về thông tin không đối xứng với
các loại hàng hóa
• Hàng hóa có thể thẩm định trước
Thất bại thị trường do thông tin không đối xứng là không đáng kể vì người tiêu
dùng có thể sử dụng một lượng chi phí để thẩm định hàng hóa mà người đó muốn tiêu
dùng. Trừ khi lượng chi phí đó lớn và người tiêu dùng phải lựa chọn mẫu thẫm định
nhỏ hơn khi đó hiện tượng không đối xứng về thông tin có thể sẽ xuất hiện. Về góc độ
chính sách những hàng hóa này không đòi hỏi sự can thiệp của chính phủ.
5
Môn: Kinh tế công cộng
• Hàng hóa chỉ có thể thẩm định khi sử dụng
Đối với loại hàng hóa này người tiêu dùng người tiêu dùng chỉ có thể thẩm
định chất lượng của hàng hóa khi sử dụng. Nếu các yếu tố khác như nhau thì chi phí
thẩm định của loại hàng hóa này là cao hơn hàng hóa có thể thẩm định và nguy cơ thất
bại cao do thông tin không đối xứng của loại hàng hóa này cũng lớn hơn.
• Hàng hóa không thể thẩm định
Với loại hàng hóa này thì việc tiêu dùng không thể cho biết một cách hoàn hảo
về chất lượng, vì mỗi cá nhân từng người tiêu dùng rất khó nhận biết được mối quan
hệ nhân quả giữa việc tiêu dùng và hiệu ứng của nó. Vì vậy, mức độ thường xuyên
mua sắm và chất lượng đồng nhất so với giá cả không làm giảm sự phi hiệu quả do
thông tin không đối xứng. Do đó tổn thất do thông tin không đối xứng trong trường
hợp này là rất lớn.
1.2.3. Bất cân xứng thông tin trên thị trường giao dịch việc làm
Thông tin trên thị trường giao dịch việc làm là rất quan trọng, nó giúp người
thuê lao động và người lao động xây dựng kế hoạch hoạt động trong tương lai của họ.
Bất cân xứng thông tin trên thị trường giao dịch việc làm thể hiện khi:
- Người lao động không cung cấp thông tin cần thiết về công việc hoặc công ty
tuyển dụng mình, bị động trong việc ký hợp đồng lao động dẫn đến bất đồng

trong quan hệ sản xuất về sau khi tiến hành công việc, không thõa mãn về chế độ
lương thưởng, trợ cấp, thăng tiến…
- Người thuê lao động không nắm rõ thông tin về lao động, đặc biệt khi sức lao
động là loại “hàng hóa” đặc biệt, chỉ được thẩm định khi dùng tạo nên hiện tượng
quả chanh trong lựa chọn và thuê mướn.
- Người môi giới thiếu thông tin về người thuê mướn lao động và không cung cấp
thông tin rộng khắp đến người lao động, hình thành các sàn giao dịch hoặc các
công ty dịch vụ việc làm ảo hoặc kém hiệu quả.
1.3 Thực trạng thông tin bất cân xứng hiện nay
Thị trường giao dịch Việt Nam hiện nay chủ yếu để đáp ứng nhu cầu việc làm
cấp thiết tại thời điểm đất nước ngày càng hội nhập nền kinh tế thế giới, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển đất nước.
6
Môn: Kinh tế công cộng
Thị tường này vẫn đang trong giai đoạn đầu phát triển do các trung tâm giới
thiệu việc làm vẫn chưa chuyên nghiệp, tính kết nối trong hệ thống chưa chặt chẽ, tần
suất và phạm vi hoạt động chưa sâu rộng, thông tin phục vụ cho công tác tư vấn, giới
thiệu việc làm còn thiếu cả về qui mô và chủng loại, đặc biệt là thông tin về nhu cầu
tuyển dụng lao động theo ngành nghề và trình độ.
Thực tế hiện nay, Luật đã ban hành nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống và các
cơ quan chức năng hằng năm chưa có kế hoạch cụ thể về thanh tra, kiểm tra hoạt động
của các trung tâm giới thiệu việc làm. Do đó vẫn có nhiều trung tâm không có đủ điều
kiện nhưng vẫn tồn tại rộng khắp, hoạt động vẫn còn rất phức tạp. Theo số liệu của
bảng báo cáo đánh giá tình hình hoạt động giới thiệu việc làm của Sở Lao động
Thương binh và Xã hội Hà Nội hiện nay chỉ có khoảng 22 cơ sở với 9 trung tâm có
quy mô lớn thực sự hoạt động còn lại toàn đăng kí cho “oai”. Gần một phần ba doanh
nghiệp được cơ quan quản lý nhà nước gửi công văn nhưng nhân viên bưu điện không
tìm thấy địa chỉ.
Đánh vào tâm lí của chính những bạn sinh viên ngay sau khi ra trường: thất
nghiệp, thiếu việc, việc làm không ổn định chủ yếu chỉ là các công việc bán thời gian

như phục vụ nhà hàng, phục vụ cà phê ,phát tờ rơi, bán shop…
Lúc này chính những cầu nối hay còn gọi là TTGTVL đó đã đưa những bạn sinh viên
vào 1 canh bạc lớn, may mắn có thể có công việc ổn định, nhưng nếu không thì tiền mất tật
mang. Vừa tốn công sức lại tốn tiền của lại phải e ngại khi tới các TTGTVL mới.
Những công việc đơn giản dễ dàng nhưng hấp dẫn lương cao như gia sư
50.000- 60.000 đ/buổi phát tờ rơi,… nhưng thực tế khi trải nghiệm chúng ta mới hiểu
được thực hư như thế nào.
II. Hoạt động của các TTGTVL là thất bại của thị trường về thông tin
không đối xứng
2.1Giới thiệu về các trung tâm giới thiệu việc làm (TTGTVL) trên địa bàn Hà
Nội
2.1.1 Các trung tâm giới thiệu việc làm có uy tín và hoạt động theo pháp luật
- Trụ sở 1: tại ngõ 33 phố Tạ Quang Bửu, phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng, Hà
Nội.
- Trụ sở 2: tại số 285 phố Trung Kính, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Các trung tâm này có hệ thống máy tra cứu đa năng, hệ thống máy vi tính nối
7
Môn: Kinh tế công cộng
mạng internet với 20 máy trạm phục vụ cho hoạt động Thông tin thị trường lao động, Tư
vấn giới thiệu việc làm, Tư vấn quan hệ lao động và dạy nghề; các trang thiết bị để dạy
thực hành các nghề như may công nghiệp, cơ khí, sửa chữa điện tử, điện lạnh, sửa chữa
xe máy, vi tính, nấu ăn, tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ, hiện đại và các thiết bị văn
phòng khác, có khả năng đáp ứng yêu cầu hoạt động của trung tâm trong giai đoạn hiện
nay.
2.1.2 Một số trường hợp lừa đảo của các trung tâm giới thiệu việc làm trên địa
bàn Hà Nội Gần đây
Các trung tâm "ma" liên kết lừa người lao động .
Báo CAND nhận được đơn của chị N.T.K. tố cáo Trung tâm Giới thiệu việc làm
tại 276 đường Giải Phóng có dấu hiệu lừa đảo người lao động. Theo phản ánh của chị
N.T.K., sau khi nộp 200.000 đồng là phí giới thiệu việc làm tại đây, K. được giới thiệu

xuống bán vé tại một trung tâm tại quận Thanh Xuân với mức lương hơn 3 triệu đồng
chỉ việc ngồi tại phòng, nghe điện thoại. Tuy nhiên, đây không phải là nơi làm việc mà
cũng là một trung tâm giới thiệu việc làm giống như tại 276 đường Giải Phóng. Ở đây,
K. gặp rất nhiều người được giới thiệu đến địa chỉ này bán vé máy bay từ những trung
tâm giới thiệu việc làm khác trên địa bàn Hà Nội như 45 đường Láng, 214 Minh
Khai…
Đến trung tâm này, người lao động cũng tiếp tục bị yêu cầu nộp phí đào tạo bán vé
máy bay. Nếu người lao động không bán được vé máy bay cũng đồng nghĩa với việc
mức lương đứng ở con số 0. Điều đó sẽ khiến người lao động nhanh chóng chán nản
và bỏ việc.
Phóng viên Báo CAND đã đi thực tế điều tra và làm việc với Công an các phường về
các trung tâm "ma" lừa tuyển dụng việc làm. Công an phường Phương Liệt, quận
Thanh Xuân đã từng xử lý nhiều trung tâm giới thiệu việc làm lừa đảo người lao động
tại các địa chỉ số 25, ngõ 377, đường Giải Phóng có hành vi tuyển dụng nhân viên…
lừa; địa chỉ tại 479 đường Giải Phóng - một cơ sở treo biển sửa chữa điện lạnh nhưng
lại kèm theo việc "tuyển dụng nhân viên" đủ các ngành nghề. Công an Phường đã yêu
cầu các địa chỉ này dỡ bỏ biển không đúng quy định. Trước đó, Công an phường
Phương Liệt đã kiểm tra địa chỉ "trung tâm lừa" tại 31 Nguyễn Văn Trỗi thu giữ nhiều
"tờ rơi lừa đảo".
2.2 Cơ chế hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm “dởm” hoạt động
8
Môn: Kinh tế công cộng
không đúng theo qui định của pháp luật, lừa đảo sinh viên
Những mánh khóe kỹ thuật trong việc “lừa đảo” sinh viên được thể hiện:
• Đưa thông tin sai lệch về việc làm, nơi làm việc, địa chỉ ảo, sai thông tin
khách hàng, Mức lương cao hơn nhiều so với thực tế mà sinh viên nhận được.
Những địa chỉ ảo đó trên thực tế thì không có thật.
Ví dụ: Sinh viên A năm 4 trường ĐH Sư phạm Hà Nội đến địa chỉ mà trung tâm
đã đưa để dạy kèm lớp 7 thì không có học sinh nào đã đăng kí học thêm vì con toàn đã
vào Đại học. Mất công lặn lội tìm đường, tìm địa chỉ lại bị ăn mắng vì nhận bừa, lừa

dối,… Lúc này quay lại trung tâm thì bị nghi ngờ và không cho lấy lại tiền đặt cọc khi
nhận việc, do lỗi của chị A làm hỏng địa chỉ hoặc do lí do gì đó.
Bạn H sinh viên năm 3 ĐH ngoại ngữ Hà Nội dạy anh văn được cung cấp thông
tin là bé B rất ngoan ngoãn chăm học nhưng thực tế không như vậy. Bạn H quay lại
TTGTVL yêu cầu đổi địa chỉ thì không được chấp nhận với lí do “ tự ý cắt hợp đồng”.
Theo NĐ 72 của Chính Phủ, phí giới thiệu việc làm được trả một lần, do người
sử dụng trả bằng 5-8% mức tháng lương đầu tiên của người lao động. Tuy nhiên
100% các cơ sở tư nhân điều thu phí từ người lao động. Đối với việc gia sư thì khoản
lệ phí phải nộp là 50% khoản lương đầu tiên. Nếu đồi hoàn tiền thì chỉ được 30%. Sau
khi lấy được tiền có nhiều trung tâm còn mất dạng không “tung tích”
• Hoạt động dựa trên “ kinh nghiệm nhà nghề” kiểu như làm việc mà vì nhiều
lí do làm bên sử dụng đưa ra khi quay lại trung tâm thì tiền mất tật mang. Bị quát
mắng, không được lấy lại tiền đặt cọc,…
Ví dụ: Sinh viên T (ĐH Mở) khi đi dạy 3 buổi thì gia đình phát hiện không phải
sinh viên sư phạm thì bắt buộc nghỉ dạy vả không thanh toán tiền 3 buổi dạy vì trung
tâm miễn phí 3 buổi đầu tiên. Sinh viên T còn bị ăn mắng vì không phải là sinh viên sư
phạm mặc dù gia đình còn không màng tới thực lực thật sự của bạn ấy.
• Cướp công của sinh viên, như đi làm vài buổi rồi lấy lí do không đáp ứng nhu
cầu hay thể trạng gì đó rồi không tả lương mấy ngày làm việc đó, hay nhưng vấn đề
như không phải người Hà Nội.
Nhiều khi trung tâm thường đùn đẩy trách nhiệm cho nhau khiến nhiều bạn
phải lên về trung tâm mỗi ngày cho tới khi hết hạn hợp đồng thì bị lấy lí do là đã hết
hạn không còn giải quyết được nữa…còn rất nhiều trường hợp khác nữa.
9
Môn: Kinh tế công cộng
2.3 Vì sao sinh viên dễ “mắc bẫy” mà các trung tâm GTVL bày sẵn
Hiện nay, ngày càng có nhiều trung tâm tuyển dụng việc làm xuất hiện trên địa
bàn Thủ đô giăng "bẫy" lừa người lao động đặc biệt là các sinh viên. Có những trung
tâm chỉ xuất hiện một thời gian lại đóng cửa, thay tên đổi họ thành một trung tâm
khác.

Những sinh viên khi đến xin việc cũng chỉ nhận được một giấy hẹn không dấu,
không hoá đơn chứng từ… Gọi là tuyển dụng việc làm nhưng thực tế là giới thiệu
người lao động từ trung tâm này sang trung tâm khác sau khi đã thu phí tuyển dụng.
Tại trung tâm tuyển dụng mới, để có thể làm việc được, người lao động lại tiếp tục
phải đóng phí đào tạo nếu không sẽ phải nghỉ việc. Quay lại trung tâm đầu tiên thì sẽ
nhận được cái lắc đầu vì người lao động đã bị "bán" sang trung tâm mới, trung tâm
tuyển dụng ban đầu không còn trách nhiệm với các sinh viên này
Theo những người đã từng rơi vào "bẫy" tuyển dụng việc làm, lời hứa hẹn tiền
lương tháng cao, công việc nhàn nhã, thủ tục đơn giản là miếng "bánh " hấp dẫn của
nhiều trung tâm khiến người lao động nhanh chóng nộp lệ phí để đi làm.
2.4 Nguyên nhân thông tin không đối xứng
Có 3 yếu tố chính tác động gây nên thất bại của thị trường về thông tin không
cân xứng:
+ Thứ nhất: chi phí thẩm định hàng hóa
Chi phí thẩm định hàng hóa C
*
- tức là chi phí sinh viên phải bỏ ra để thẩm định
dịch vụ. Trong trường hợp này tìm việc làm qua trung tâm là loại hàng hóa chỉ thẩm
định được khi dùng C
*
= P
*
+ C
e
Trong đó: P
*
là phần lệ phí sinh viên nộp qua trung tâm
C
e
là kỳ vọng cho những thiệt hại có thể phát sinh ( mất việc, các sự cố khi làm

việc…) chi phí kỳ vọng càng lớn làm cho chi phí thẩm định càng lớn làm cho sinh
viên khó kiểm soát được phần chi phí mà họ bỏ ra dẫn đến số lượng sinh viên sử dụng
dịch vụ việc làm thông qua trung tâm giới thiệu việc làm càng giảm, khoảng cách của
hai đường cầu càng lớn, và tổn thất phúc lợi xã hội càng tăng.
+ Thứ hai: mức độ đồng nhất trong mối quan hệ giữa giá cả và chất lượng
Mức độ đồng nhất trong mối quan hệ về giá cả và chất lượng thể hiện ở chỗ
chất lượng cho trước thì gí cả có dao động mạnh hay không, hoặc với mức giá cho
trước thì chất lượng có sự khác biệt lớn hay không. Trong trường hợp này, nếu các
10
Môn: Kinh tế công cộng
trung tâm giới thiệu việc làm áp dụng các mức giá khác nhau thì cũng khó có thể xác
định được chất lượng của dịch vụ có cao hơn không. Thông thường trong thực tế các
trung tâm sẽ áp dụng cùng một mức chi phí khi cung cấp dịch vụ giới thiệu việc làm,
nếu may mắn thì sinh viên sẽ gặp đúng trung tâm tốt, tìm được việc làm ổn định, lâu
dài, nhưng không may gặp phải những trung tâm “ma” làm việc mất tiền hay các rủi ro
như trên là điều dễ gặp. điều đó cho thấy mức độ đồng nhất giữa giá cả và chất lượng
có sự khác biệt lớn do đó để có thể tìm được công việc bằng dịch vụ này thì sinh viên
sẽ phải chọn một mẫu thử lớn. nếu mẫu thử càng lớn, sinh viên sẽ càng ngại ngần khi
muốn thẩm định hàng hóa và nguy cơ thất bại do thông tin không đối xứng càng cao,
tổn thất PLXH càng lớn và ngược lại.
+ Thứ ba: mức độ thường xuyên mua sắm
Nếu như sinh viên có nhu cầu về việc làm thêm thường xuyên đi qua các
TTGTVL thì họ sẽ tích lũy được thông tin qua những lần đó, kinh nghiệm nhiều lên họ
sẽ không lo mắc phải những mánh nghề nghiệp của các trung tâm, do đó khoảng cách
giữa 2 đường cầu thu hẹp lạ và thất bại thị trường do thông tin không cân xứng giảm
tức là W nhỏ lại và ngược lại.
III. Tác động của thông tin bất cân xứng gây ra
3.1 Tổn thất phúc lợi xã hội do thông tin bất cân xứng gây ra
Giả định: - Gọi Q là số lượng công việc qua trung tâm
- p là giá của việc làm.

- S là đường cung việc làm, cung việc làm là cố định tại thời điểm đang xét.
- D
0
là cầu việc làm của sinh viên khi họ tin tưởng vào dịch vụ của các trung
tâm giới thiệu việc làm.
- D
1
là cầu việc làm của sinh viên khi họ không tin tưởng vào dịch vụ của trung
tâm giới thiệu việc làm.

P
K
W
H C A
P
0
11
S
D
0
D
1
Môn: Kinh tế công cộng
P
1
B
E
Mô hình: Thất bại thị trường do thông tin không đối xứng gây ra
Ta có: W: tổn thất phúc lợi xã hội.
Nếu sinh viên tin rằng họ sẽ có việc làm khi qua trung tâm, hay thông tin về thị

trường việc làm này là hoàn hảo thì điểm cân bằng ban đầu là A, đó là điểm cân bằng
tối ưu của xã hội tương ứng với nó là mức sản lượng mà xã hội mong muốn Q
0
. Tuy
nhiên do thiếu thông tin, không tin tưởng khi qua trung tâm giới thiệu việc làm nên
đường cầu việc làm sẽ giảm từ D
0
xuống D
1
. Điểm cân bằng dịch chuyển từ A đến B và
mức sản lượng tối ưu của thị trường giảm từ Q
0
về Q
1
tương ứng với mức giá tối ưu P
1
.
Tại mức sản lượng tối ưu của xã hội Q
0
Tổng chi phí xã hội: TC = EAQ
0
O
Tổng lợi ích xã hội: TB = KAQ
0
O
Tại mức sản lượng tối ưu của thị trường Q
1
Tổng chi phí xã hội là: TC = EBQ
1
O

Tổng chi phí xã hội là: TB = KCQ
1
O
Như vậy khi dịch chuyển từ A đến B thì tổng chi phí xã hội giảm 1 lượng là:
∆TC = BAQ
0
Q
1
Tổng lợi ích giảm là: ∆TB = CAQ
0
Q
1
Vậy: ∆TB giảm lớn hơn ∆TC giảm làm cho xã hội mất đi một phần lợi ích , tổn
thất phúc lợi xã hội do tiêu dùng dưới mức tối ưu là W = ABC.
Nếu việc các công ty giới thiệu việc làm có thể cung cấp thông tin chính xác và
đầy đủ cho sinh viên và những người tìm việc làm với chi phí nhỏ hơn phần mà xã hội
mất đi, thì nên khuyến khích các công ty đưa ra thông tin đúng và không lừa gạt, gây
mất lòng tin đối với người tìm việc làm.
Mức độ nghiệm trọng của thất bại thị trường về thông tin không đối xứng sẽ
phụ thuộc vào khoảng cách giữa 2 đường cầu D
0
và D
1
, khoảng cách này càng lớn thì
12
O
Q
Q
0
Q

1
Môn: Kinh tế công cộng
diện tích của ABC càng lớn và gây ra tổn thất phúc lợi xá hội càng cao.
3.2 Tác động tích cực
Tác động tích cực này chỉ đúng với các trung Tâm giới thiệu việc làm hoạt
động uy tín, tuân thủ pháp luật.
3.2.1. Đối với người lao động
• Tạo việc làm thêm của sinh viên rất nhiều để chi trả cho cuộc sống đối với
nhiều sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn, còn để lấy thêm nhiều kinh nghiệm
cho nhiều sinh viên khác.
• Các trung tâm đã tạo điều kiện giúp cho hàng ngàn bạn sinh viên kiếm được
việc làm, góp phần giải quyết khó khăn cho bản thân và cho cả gia đình họ.
• Giải quyết các khó khăn về tài chính cũng như tạo được việc làm thêm cho
sinh viên, từ đó ổn định về mặt xã hội, tránh tình trạng sinh viên không có việc làm,
rãnh rổi rồi tham gia vào tệ nạn xã hội ( rượu bia, cờ bạc…).
• Tạo điều kiện cho sinh viên học hỏi kinh nghiệm và trau dồi các kỹ năng làm
việc.
3.2.2.Đối với người sử dụng lao động.
• Đỡ tốn kém thời gian và chi phí cho việc tìm lao động.
• Giải quyết được nhu cầu về lao động một cách nhanh chóng, nắm bắt được
thông tin của người lao động thông qua các trung tâm nên họ yên tâm hơn vê chất
lượng lao động mà họ đã tuyển.
• Tìm được lao động đáp ứng được yêu cầu về lĩnh vực của họ.
• Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động.
3.3 Tác động tiêu cực
• Làm tổn thất phúc lợi xã hội.
• Gây ra tâm lý ngại ngần, e sợ của sinh viên khi bước chân vào các trung tâm
giới thiệu việc làm, làm mất lòng tin của sinh viên với các trung tâm giới thiệu việc
làm khác.
• Làm tổn hại đến lợi ích của các sinh viên do không nắm bắt thông tin kịp

thời, dễ bị các trung tâm lừa gạt
• Xảy ra nhiều “tranh chấp lao động” trên thị trường việc làm, đó là các vụ
khiếu nại tố cáo vì không trả lương đúng.
• Làm hệ thống giao dịch trên thị trường lao động yếu kém, gây ra tình trạng
13
Môn: Kinh tế công cộng
thông tin không đối xứng trong hệ thống thông tin thị trường lao động, việc làm.
• Gây tổn hại đến người tìm việc làm và cả những người muốn sử dụng lao
động do không nắm được thông tin đúng đắn, dẫn đến sai lầm trong khi chọn việc làm
và sai lầm trong tuyển dụng.
• Làm tốn thời gian thử việc của người lao động và tốn chi phí cho những nhà
tuyển dụng.
• Làm ảnh hưởng đến những uy tín của các trung tâm giới thiệu việc làm khác,
những TTGTVL có uy tín.
• Làm “trầm trọng” hơn vấn đề thất nghiệp và không có việc làm trong xã hội.
IV. Giải pháp khắc phục
4.1 Đối với người lao động
• Đa dạng hóa nguồn tiếp cận từ báo đài, người quen, trang web uy tín.
• Chủ động tìm kiếm thông tin công việc, cơ hội việc làm. Cảnh giác với các hình
thức rao vặt, thiếu minh bạch trong các TTGTVL, đặc biệt là tình trạng thu phí cao.
• Tìm hiểu kĩ toàn bộ thông tin về công ty đó, xem xét kĩ mọi chi tiết về vị trí
công việc hoặc hỏi những người đi trước.
• Nắm rõ nguyện vọng, trách nhiệm của hai bên thông qua Bộ lao động, hợp
đồng lao động.
• Điều quan trọng nhất vẫn là người lao động phải biết tự tránh khỏi những
"bẫy" tuyển dụng việc làm bằng việc tìm đến các trung tâm tuyển dụng uy tín do Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội quản lý. Khi các trung tâm tuyển dụng việc
làm có dấu hiệu lừa đảo, cần nhanh chóng đến Công an phương sở tại trình báo để
ngăn chặn những hành vi lừa đảo.
4.2 Đối với doanh nghiệp

• Trước khi tuyển dụng cần xem xét hồ sơ tuyển dụng kỹ càng của người lao
động như sơ yếu lý lịch, bằng cấp, trình độ học vấn, kinh nghiệm, khả năng ứng xử,
giao tiếp để hiểu rõ quá trình công tác cũng như chuyên môn của họ phù hợp với
công việc cần tuyển hay không.
• Đề ra thời gian thử việc: thông qua thời gian thử việc có thể phần nào đánh
giá được phẩm chất, tác phong làm việc của họ
• Chủ doanh nghiệp và người lao động phải ký kết hợp đồng rõ ràng, cam kết
thực hiện đúng những thỏa thuận và điều khoản đã ký kết.
14
Môn: Kinh tế công cộng
• Tạo môi trường thuận lợi, đầu tư cho nguồn lao động, nâng cao ý thức cũng
như chuyên môn cho người lao động, giải quyết tốt các khúc mắc, tránh xảy ra các vụ
kiện tụng Bản thân của doanh nghiệp phải tạo cho người lao động thực hiện vai trò
và nghĩa vụ của mình.
4.3 Đối với trung tâm
Các trung tâm nên tìm hiểu kỹ những thông tin người lao động và cả nhà tuyển
dụng để cung cấp cho các bên một cách chính xác nhất. Đồng thời đưa ra những điều
khoản bắt buộc nhất định đối với các bên tha gia nhằm tránh tình trạng hủy hợp đông
giữa chừng giữa các bên gây mất uy tín cho trung tâm.
V. Sự can thiệp của chính phủ
• Nhà nước đống vai trò gián tiếp giảm thiểu tối đa hiện tượng bất cân đối
thông tin thông qua kiểm soát lượng thông tin và hành vi các chủ thể trên thị trường,
bảo đảm tính minh bạch rõ ràng và nhất quán trên thị trường giao dịch việc làm, hoàn
thiện hệ thống thể chế, tạo thành hành lang pháp lý, bảo đảm bình đẳng hài hòa giữa
lợi ích người lao động và người sử dụng lao động.
• Thiết lập và hoàn thiện những quy định pháp luật, tổ chức, cơ quan thanh tra,
giám sát những hành vi những chủ thể trên thị trường, trong đó có bộ luật lao động,
luật doanh nghiệp, những quy định chặt chẽ về thành lập trung tâm giới thiệu việc làm,
đặc biệt là mức chế tài phải lớn hơn lợi ích từ việc xâm phạm quyền lợi của bên chịu
thiệt. Bên cạnh đó nhà nước cần có kế hoạch thường xuyên giáo dục truyền thông cho

các cấp chính quyền , giới sử dụng lao động và người lao động để hiểu rõ các văn bản
pháp quy của nhà nước liên quan tới trách nhiệm cũng như lợi ích của các bên trong
việc thực hiện nghiêm túc các quy định này đồng thời nâng cao trình độ hiểu biết,
nhận thức quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp và người lao động.
• Nhà nước cũng trực tiếp khắc phục hiện tượng bất cân đối thông tin bằng
cách tự đưa ra thông tin trung thực, đồng nhất và rộng khắp trên thị trường nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho người lao động tiếp xúc, trao đổi trực tiếp với người sử dụng
lao động và cơ quan tổ chức về nhu cầu tuyển dụng, giúp người lao động tìm được
việc làm phù hợp với khả năng, trình độ và điều kiện của mình.
Phát triển hệ thống trung tâm thông tin việc làm, thiết lập hệ thống thông tin thị
trường lao động cấp quốc gia. Đưa giao dịch việc làm trở thành một hoạt động thường
xuyên, có tổ chức, từng bước phục vụ có hiệu quả trong việc giải quyết việc làm cho
15
Môn: Kinh tế công cộng
sinh viên.
Chính Phủ đã có những giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng xuất hiện các trung
tâm giới thiệu việc làm " ma", các trung tâm có hành vi lừa đảo, gian lận khi tư vấn
việc làm. Cụ thể nghị định 19/2005/NĐ-CP ngày 28/02/2005 của Chính Phủ và thông
tư số 20 của bộ LĐ_TB_XH về điều kiện, thủ tục thành lập và hoạt động của tổ chức
giới thiệu việc làm. Trong các văn bản này nêu rõ :
- Để thành lập trung tâm giới thiệu việc làm cần phải ký quỹ 300 triệu đồng tại
ngân hàng để giải quyết các rủi ro và các khoản phải đền bù có thể xẩy ra trong
quá trình hoạt động
- Trung tâm giới thiệu việc làm được phép thu chi phí tư vấn, giới thiệu, cung
ứng lao động, cung cấp thông tin lao động- việc làm và thu học phí theo quy
định của pháp luật. Căn cứ vào khối lượng công việc, tính chất , đặc điểm hoạt
động cụ thể, người có thẩm quyền quyết định thành lập trung tâm giới thiệu
việc làm quy định số lượng và tên gọi các phòng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng
không quá 4 phòng, trung tâm có nghĩa vụ phải theo dõi tình trạng việc làm của
người lao động

- Trung tâm giới thiệu việc làm sẽ bị thu hồi giấy phép nếu có hành vi lừa đảo
gian lận đối với người lao động, doanh nghiệp không chấp hành báo cáo theo
quy định với các cơ quan quản lý nhà nước về lao động liên tục từ 1 năm. Nếu
bị phạt hành chính do vi phạm pháp luật lao động từ 3 lần/1 năm trung tâm sẽ
bị thu hồi giấy phép.
- Có địa điểm và trụ sở làm việc ổn định, đặt ở nơi thuận tiện và đủ diện tích cho
việc giao dịch và hoạt động của Trung tâm;
- Phải có trang thiết bị và các phương tiện phù hợp với từng nhiệm vụ theo quy
định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội;
- Phải có ít nhất 05 (năm) cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên thuộc các chuyên
ngành kinh tế, pháp luật, ngoại ngữ; đội ngũ cán bộ của Trung tâm phải có lý
lịch rõ ràng, phẩm chất đạo đức tốt, không có tiền án.
- Việc thành lập Trung tâm phải phù hợp với quy hoạch Trung tâm giới thiệu
việc làm trên địa bàn của địa phương đã được phê duyệt.
- Các biện pháp phần nào loại bỏ được các trung tâm không đủ tiêu chuẩn tồn tai
trước đó cũng như là một bước để sàng lọc các đơn vị đăng ký kinh doanh loại
hình dịch vụ này.
Ngoài ra, Chính Phủ nên khuyến khích các trường đại học chủ động thực hiện công tác
thông tin, tuyên truyền về việc làm cho sinh viên trường mình. Trường có thể tổ chức
một ban "việc làm sinh viên", giao cho Đoàn trường, hội sinh viên hoặc trực thuộc
phòng công tác chính trị và quản lý sinh viên . Ban này sẽ có chức năng giới thiệu cho
sinh viên những trung tâm dịch vụ việc làm uy tín, phù hợp với sinh viên cũng như
thường xuyên cập nhật những phản hồi từ sinh viên để từ đó có cơ sở để khuyến nghị
các sinh viên tránh những trung tâm có biểu hiện lừa đảo, gian lận cũng như biết được
16
Môn: Kinh tế công cộng
những trung tâm hoạt động tốt. Do đặc điểm của sinh viên là các hoạt động thường
xuyên gắn liền với đoàn trường , phòng đào tạo, phong chính trị và quản lý sinh viên
nên đây là một điều kiện thuận lợi để cho mô hình này có thể hoạt động hiệu quả. Các
ban này cũng có thể tổ chức các hội chợ việc làm sinh việc hàng quý hay đưa vào hoạt

động và quản lý diễn đàn về việc làm cho sinh viên trên trang web của trường mình .
Về thực chất đây là mô hình trao đổi, hỗ trợ thông tin lẫn nhau giữa những người có
nhu cầu việc làm thông qua đó sinh viên sẽ có thêm thông tin, kinh nghiệm khi tìm
kiếm việc làm, giảm bớt sự bất cân đối về thông tin hai bên: sinh viên tìm kiếm việc
làm và các TTGTVL. Kết quả là tổn thất phúc lợi xã hội do thất bại thị trường về
thông tin bất cân xứng sẽ giảm đi.

PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong quá trình phát triển, vẫn còn tồn tại một số vấn đề bất cập. Một trong số
17
Môn: Kinh tế công cộng
đó là vấn đề bất cân xứng thông tin đã dẫn đến sự thất bại của thị trường. Vấn đề này
có tác động không những lâu dài mà còn gây ra những ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lí,
niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường. Cùng với quá trình toàn cầu hóa thế giới và
tiến trình hội nhập của Việt Nam với các nền kinh tế trong khi vực và cả thế giới, yêu
cầu làm sao để hạn chế bất cân xứng thông tin, làm thế nào để nâng cao chất lượng
công bố thông tin, đảm bảo cho thị trường vận hành công bằng hiệu quả, công khai và
minh bạch được đặt ra cấp thiết.
Giải pháp đặt ra là các chủ thể tham gia trên thị trường cần phải nâng cao chất
lượng thông tin được công bố, bên cạnh đó xây dựng và nâng cấp hệ thống công bố
thông tin, sớm xây dựng hệ thống công bố thông tin tự động …cùng một số giải pháp
khác.
Có thể nói, nếu thực hiện được tốt các vấn đề này thì công tác công bố thông tin
trên thị trường của các công ty sẽ phần nào đáp ứng được các nhu cầu thông tin cấp
thiết cho nhà đầu tư. Qua đó, hạn chế được tình trạng bất cân xứng thông tin, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư và củng cố niềm tin của công chúng vào thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình kinh tế công cộng
18
Môn: Kinh tế công cộng

2. luanvan.net
3. solaodong.hanoi.gov.vn
4. vi.wikipedia.org.vn
5. />19
Môn: Kinh tế công cộng
DANH SÁCH NHÓM
1. Trần Thị Thủy
2. Nguyễn Thị Thùy Nhung
3. Nguyễn Thị Tố Nga
4. Võ Thị Hà
5.Trần Thị Thanh Hoài
6. Nguyễn Thị Thùy Phương
7. Nguyễn Thị Thu Phượng
8. Nguyễn Song Diễm Trang
9. Lê Đắc Tuấn Anh
20
Môn: Kinh tế công cộng
MỤC LỤC
21

×