Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

báo cáo tốt nghiệp hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP công thương chi nhánh hai bà trưng hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.81 KB, 59 trang )

MỤC LỤC
4.2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý danh mục tài sản đảm bảo 52
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP 57
Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam chi nhánh Hai Bà
Trưng,Hà Nội xác nhận sinh viên Lương Quang Khải, lớp K5-TCNH,Khoa Tài
Chính-Ng©n hµng,Trường Cao ®¼ng C«ng nghÖ vµ kinh tÕ c«ng nghiÖp đã hoàn
thành thời gian thực tập tại ngân hàng 57
Qua thời gian thực tập, ngân hàng có nhận xét về sinh viên như sau: 57
Chấp hành nghiêm túc các nội quy,quy định của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần
Công Thương Việt Nam chi nhánh Hai Bà Trưng, Hà Nội 57
Có ý thức học hỏi, tìm hiểu thực tế tại cơ sở, nghiên cứu tài liệu 57
Bước đầu được làm quen với quy trình tín dụng, cách thức thẩm định dự án đầu tư,
thẩm định hiệu quả phương án vay vốn 57
Hòa đồng với tập thể, tôn trọng cán bộ, nhân viên trong ngân hàng 57
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 58



58










58
Hà Nội, ngày tháng năm 2013 58


Chữ ký GVHD 58
PHẦN 1:LỜI MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
_Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của
nền kinh tế hàng hoá để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh
toán…, phục vụ cho phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức
kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy, hoạt
động ngân hàng chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có thể lường
trước được. Nguyên nhân của những tiềm ẩn rủi ro này là do ngân hàng là
một trung gian tài chính, huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với lãi suất
thấp, sau đó cho các tổ chức kinh tế, cá nhân vay lại với lãi suất cao để thu lợi
nhuận. Nếu ngân hàng không đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế hoặc huy động
đủ vốn nhưng không có thị trường để cho vay thì ngân hàng hoạt động kém
hiệu quả, sẽ dẫn đến rủi ro.
_Trong kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam, lợi nhuận từ hoạt động tín
dụng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong thu nhập của các ngân hàng. Tuy nhiên,
hoạt động này luôn tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế
mới nổi như Việt Nam bởi hệ thống thông tin thiếu minh bạch và không đầy
đủ, trình độ quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế, tính chuyên nghiệp của cán bộ
ngân hàng chưa cao… Do Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Hai Bà
Trưng Hà Nội mới thành lập nên hoạt động này chưa thật sự có hiệu quả như
mong muốn nhưng trong vài năm tới, chi nhánh đặc biệt quan tâm đến hoạt
động này với mục đích đem lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Song, hoạt
động tín dụng bao giờ cũng đi kèm với tính rủi ro cao. Việc tập trung quá
nhiều vào tín dụng trong khi khả năng quản lý rủi ro tín dụng chưa cao, chưa
có chính sách tín dụng khoa học, chưa có mô hình lượng hóa rủi ro, chất
lượng nguồn nhân lực còn yếu kém…có thể tạo ra nguy cơ phát sinh những
khoản nợ xấu cho ngân hàng. Hơn nữa, trong môi trường kinh doanh luôn
biến động, rủi ro tín dụng ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và luôn có thể
xảy ra bất kỳ lúc nào. Chi nhánh sẽ khó có thể đảm bảo an toàn và hiệu quả

trong hoạt động tín dụng nói riêng cũng như hoạt động kinh doanh của ngân
hàng nói chung nếu không thường xuyên quan tâm đến công tác quản lý rủi ro
tín dụng.
Chính vì thế, qua quá trình học tập, tìm hiểu, thực tập tại Ngân hàng
TMCP Công thương chi nhánh Hai Bà Trưng Hà Nội ,em muốn nghiên cứu
đề tài: “Hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Công thương chi nhánh Hai Bà Trưng Hà Nội”
1.2 Mục đích nghiên cứu
_Nghiên cứu ,phân tích thực trạng hoạt động quản lý rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Hai Bà Trưng Hà Nội
_Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng,chỉ
ra được sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tai
Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Hai Bà Trưng Hà Nội
_Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công
tác nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công
thương chi nhánh Hai Bà Trưng
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Hai
Bà Trưng Hà Nội
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Hai Bà Trưng Hà Nội
năm 2010_2012
1.4 Phương pháp nghiên cứu
_Duy vật biện chứng
_Phương pháp so sánh,phân tích,hệ thống,chứng minh
1.5 Bố cục chuyên đề
Phần 1: Lời mở đầu
Phần 2:Cơ sở lý luận về hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng

Thương mại Việt Nam.
Phần 3:Thực trạng hoạt động nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng TMCP công thương chi nhánh Hai Bà Trưng Hà Nội
Phần 4:Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Công thương chi nhánh Hai Bà Trưng Hà Nội




PHẦN 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
2.1.1.Ngân hàng thương mại
a) Khái niệm
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Có
nhiều cách định nghĩa về Ngân hàng thông qua các chức năng, dịch vụ hoặc
vai trò mà ngân hàng thực hiện trong nền kinh tế.
Có thể hiểu:“Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính thực hiện
chức năng kinh doanh tiền tệ với nội dung cơ bản là nhận tiền gửi, sử dụng
tiền gửi đó để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
Đồng thời, ngân hàng thương mại còn là những trung gian tài chính,
nhận tiền gửi của các hộ gia đình (cá nhân) cho các doanh nghiệp và cá nhân
khác vay, cung cấp các dịch vụ về trao đổi ngoại tệ, chuyển tiền, các dịch vụ
liên quan đến thư tín dụng, dịch vụ két an toàn, v.v
Xét từ góc độ dịch vụ trung gian tài chính chủ yếu mà ngân hàng thực
hiện, người ta chia các ngân hàng thương mại thành các loại: ngân hàng thông
thường, ngân hàng tín thác và ngân hàng tín dụng dài hạn. Tuy nhiên, xu
hướng chuyển đổi thành các trung gian tài chính kinh doanh tổng hợp đã
khiến cho cách phân loại trên không còn được sử dụng nhiều. Ngay cả ngân

hàng đầu tư, vốn được coi là loại hình ngân hàng khác ngân hàng thương mại,
nay cũng không còn khác biệt nhiều.
Ở một số nước, người ta còn phân chia những ngân hàng thương mại
thành các loại theo hình thức sở hữu. Chẳng hạn ở Trung Quốc và Việt Nam,
chính phủ phân NHTM thành các loại: ngân hàng thương mại nhà nước (do
chính phủ sở hữu toàn bộ vốn điều lệ), ngân hàng thương mại cổ phần (vốn
điều lệ được chia thành các cổ phần, song các tập đoàn kinh tế nhà nước hay
các tổng công ty nhà nước có thể chia nhau sở hữu toàn bộ số vốn điều lệ đó),
ngân hàng thương mại liên doanh (tổ chức tín dụng nước ngoài và tổ chức tín
dụng trong nước cùng sở hữu), ngân hàng thương mại nước ngoài (đúng ra là
chi nhánh ngân hàng nước ngoài).
Ở Việt Nam hiện nay có bốn NHTM Nhà nước lớn là: Ngân hàng ngoại
thương, Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn.
b) Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại
• Hoạt động huy động vốn
NHTM huy động vốn bằng các phương thức sau
• Nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân
• Vay các tổ chức trung gian tài chính khác
• Phát hành cổ phiếu, trái phiếu
• Vay Ngân hàng nhà nước
• Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là một hoạt động cơ bản của ngân hàng, đem lại
nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Có nhiều loại hình tín dụng bao gồm:
• Tín dụng thương mại
• Cho vay tiêu dùng
• Tài trợ dự án
• Bảo quản tài sản
• Các hoạt động khác của NHTM
• Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán

• Quản lý ngân quỹ
• Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
• Bảo lãnh
• Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn
• Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
• Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm

c)Những rủi ro chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại
• Rủi ro lãi suất: là những tổn thất tiềm ẩn mà ngân hàng phải chịu khi
lãi suất thị trường có sự biến động.
• Rủi ro hối đoái: là rủi ro do sự biến động của
tỷ giá hối đoái gây tổn thất cho ngân hàng trong hoạt động động kinh
doanh ngoại tệ.
• Rủi ro tín dụng: là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng
phải gánh chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn; không
trả hoặc trả không đầy đủ cả vốn và lãi theo hợp đồng tín dụng.
• Rủi ro thanh khoản : là rủi ro phát sinh khi những người gửi tiền đồng
thời có nhu cầu rút tiền ở ngân hàng ngay lập tức. Khi đó, ngân hàng
phải bán tài sản có tính thanh khoản thấphay vay từ NHNN.
• Rủi ro công nghệ và hoạt động:
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công
nghê không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi
mở rộng quy mô hoạt động.
Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể
phát sinh bất cứ lúc nào khi hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ
thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động.
• Rủi ro quốc gia và các rủi ro khác…
2.1.2. Tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
a)Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

• Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là sự cho vay hay ứng trước tiền do ngân hàng
thực hiện. Bản thân ngân hàng là người cho vay còn người đi vay là những
khách hàng khác nhau. Giá mà ngân hàng ấn định cho khách hàng khi đi vay
là tiền lãi mà họ phải trả trong suốt thời gian tồn tại khoản ứng trước đó.
• Phân loại tín dụng ngân hàng
Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại tín dụng, cho nhiều đối tượng khách
hàng với những mục đích sử dụng khác nhau. Nhìn chung, người ta phân loại
tín dụng dựa theo các tiêu chí sau:
• Căn cứ vào thời hạn cho vay
Tín dụng ngắn hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn đến 1 năm.
Thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động
của doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu cá nhân.
Tín dụng trung hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn từ trên 1 năm đến
5 năm. Tín dụng trung hạn dùng để cho vay vốn mua
sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới thiết bị kỹ thuật và mở rộng, xây dựng
các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn trên 5
năm. Được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến, đầu tư công
nghệ mới và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
• Căn cứ vào bảo đảm tín dụng
Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm
cố thế chấp hay có bảo lãnh của người thứ 3.
Tín dụngcó bảo đảm:Là tín dụngcó tài sản cầm cố, thế chấp hay
có bảo lãnh của người thứ 3.
• Căn cứ vào mức độ rủi ro của các khoản vay
Để phân chia tín dụng theo mức độ rủi ro, NHTM phải đánh giá và đưa
ra nhiều thang bậc rủi ro khác nhau, chủ yếu là:
Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng an toàn, có khả năng thu
hồi cao.

Tín dụng có vấn đề: là những khoản tín dụng có dấu hiệu không lành
mạnh như khách hàng kinh doanh thua lỗ, trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
• Nợ quá hạn có khả năng thu hồi:
là các khoản nợ đã quá hạn trong thời hạn ngắn nhưng khách hàng
có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
• Nợ quá hạn khó đòi: là những khoản nợ quá hạn lâu, khả năng
trả nợ của khách hàng kém, tài sản đảm bảo nhỏ hoặc bị mất giá, khách hàng
chây lỳ…
• Các nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất
định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời.
• Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian
xác định.
Các khoản tín dụng ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản
tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải
có trách nhiệm hoàn trả cả lãi và gốc như đã cam kết. Do vậy ngân hàng luôn
yêu cầu người vay phải thực hiện đúng cam kết này. Đó là điều kiện để ngân
hàng tồn tại và phát triển.
• Quá trình sử dụng vốn vay
Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả
thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy
định khác của ngân hàng cấp trên.
• Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả.
Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ
nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả
năng thu hồi được vốn và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của
ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong
trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản
đảm bảo khi vay.
b).Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.

• Khái niệm rủi ro tín dụng:
Hoạt động ngân hàng chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có
thể lường trước được. Nguyên nhân của những tiềm ẩn rủi ro này là do ngân
hàng là một trung gian tài chính, huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với
lãi suất thấp, sau đó cho các tổ chức kinh tế, cá nhân vay lại với lãi suất cao
để thu lợi nhuận. Nếu ngân hàng không đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế hoặc
huy động đủ vốn nhưng không có thị trường để cho vay thì ngân hàng hoạt
động kém hiệu quả, sẽ dẫn đến rủi ro.
Do đặc thù kinh doanh của ngân hàng nên có rất nhiều loại rủi ro: rủi ro
lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng … Trong số tất cả
các loại rủi ro kể trên thì rủi ro trong hoạt động tín dụng là loại rủi ro lớn nhất
và phức tạp nhất, đang diển ra ở mức đáng quan tâm.
Chính vì vậy, đã có nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra quan niệm của
mình về rủi ro tín dụng
• Theo cuốn “Đánh giá và phòng ngừa rủi ro tín dụng trong
kinh doanh ngân hàng” của Nguyễn Văn Tiến, ông cho
rằng rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngânhàng
không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay
hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn.
• Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005
của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì: Rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
là khảnăng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết.
Từ đó, có thể rút ra khái niệm của rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất mà ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả, hoặc không trả đúng hạn, hoặc không trả đầy đủ
vốn và (hoặc) lãi tiền vay theo như các điều khoản đã cam kết trong hợp

đồng tín dụng.
• Phân loại rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tùy theo
mục tiêu quản lý rủi ro của từng ngân hàng.
Các loại rủi ro tín dụng thường thấy:
• Căn cứ vào tính chất của rủi ro:
• Rủi ro sai hẹn: đó là rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn trong
việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng, bao
gồm nợ gốc và( hoặc) lãi vay. Sự sai hẹn này là trễ hẹn.
• Rủi ro mất vốn: đó là rủi ro khi người vay không
thực hiện nghĩa vụ nợ theo hợp đồng tín dụng, bao
gồm nợ gốc và (hoặc) lãi vay.
• Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro
• Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan
Đó thường là những rủi ro mà ngân hàng không thể dự đoán hoặc
không thể dự đoán được một cách chính xác ảnh hưởng của chúng. Loại rủi
ro này thường do các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên, môi trường xã hội,
…gây nên.
• Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan
Đây là loại rủi ro mà ngân hàng có thế dự đoán được chủ thể gây ra rủi
ro đó, ước tính được mức độ ảnh hưởng và thời gian phát sinh…để từ đó
có thể đưa ra những biện pháp phòng ngừa hợp lý, hạn chế thiệt hại ở mức
thấp nhất. Loại rủi ro này thường xuất phát từ chính bản thân ngân hàng
hoặc khách hàng đi vay.
• Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
• Đối với nền kinh tế:
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đến hoạt động của doanh
nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro
tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang
lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ

thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình
hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến
đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng
ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy
thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài
ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền
kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh
nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) và mới đây là
cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn
cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất
nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế
các nước có liên quan.
• Đối với ngân hàng:
Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp
và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động
khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi
không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh
doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường rơi
vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh
hưởng đến uy tín của ngân hàng, bị cấp trên khiển trách. Đối với cấp dưới, do
gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền trả lương cho nhân viên vì thế
những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho ngân
hàng.
Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác
nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho
vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao
dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc
phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh
tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà
quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp

nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
2.2.Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
2.2.1.Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến nên hậu quả của
nó rất lớn. Do đó, ngân hàng nào cũng quan tâm đến quản lý phòng ngừa rủi
ro tín dụng. Nhìn chung, quản lý rủi ro tín dụng là toàn bộ quá trình lập kế
hoạch, phòng ngừa, kiểm tra, giám sát liên tục bắt đầu từ khâu thẩm định
đánh giá khách hàng cũng như các khoản vay của khách hàng trước khi đưa ra
quyết định cho vay, đến khi giải ngân, theo dõi và những biện pháp xử lý
những khoản nợ có vấn đề nhằm giảm thiểu mức độ rủi ro có thể xảy ra nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng.
Mục đích chính của quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại
là nhằm bảo đảm các hoạt động tín dụng của ngân hàng không phải gánh chịu
những rủi ro có thể làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và tồn tại của
ngân hàng.
Như vậy, có thể nói: “Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và
thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm
đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; tăng cường
các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu nợ quá hạn, nợ xấu trong
hoạt động tín dụng, từ đó tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của NHTM”.
2.2.2.Mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng gắn liền với quản trị và kinh doanh tín dụng ngân
hàng, một trong những hoạt động chủ đạo của NHTM. Quản lý rủi ro tín dụng
phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt động tín dụng và không
ngừng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM ngay cả trong điều
kiện kinh tế đầy biến động, nguy cơ rủi ro cao. Nói cách khác thì quản lý rủi
ro phải nhằm vào việc hạ thấp rủi ro tín dụng, nâng cao mức độ an toàn trong
kinh doanh của mỗi NHTM bằng các chính sách, các biện pháp quản lý, giám
sát các hoạt động tín dụng một cách khoa học và hiệu quả.

2.2.3.Nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng dựa trên những nguyên tắc cơ bản như sau:
a)Nguyên tắc chấp nhận rủi ro
Các nhà quản trị ngân hàng cần phải chấp nhận rủi ro ở mức cho phép nếu
như muốn có được thu nhập phù hợp từ hoạt động tín dụng của mình. Bởi vì
muốn loại bỏ hoàn toàn rủi ro tín dụng là điều không thể, trừ khi ngân hàng
không cho vay đối với bất kỳ khách hàng nào. Do đó, nguyên tắc đầu tiên
trong quá trình quản lý rủi ro đối với các nhà quản trị ngân hàng là phải chấp
nhận mức “rủi ro cho phép” theo quy định của NHNN.
b)Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép
Nguyên tắc này đòi hỏi phần lớn rủi ro trong “gói rủi ro cho phép” phải
có khả năng điều tiết trong quá trình quản lý mà không phụ thuộc vào hoàn
cảnh khách quan hay chủ quan của nó. Ngoài ra, đối với các loại rủi ro không
thể “điều chỉnh” cần phải chuyển đẩy sang các công ty bảo hiểm bên ngoài
c).Nguyên tắc quản lý độc lập rủi ro tín dụng với các loại rủi ro
khác trong ngân hàng
Nhìn chung, sự thiệt hại đối với ngân hàng do các loại rủi ro khác gây nên
là khá độc lập nhau nên trong quá trình quản lý rủi ro chúng ta phải điều tiết
tách biệt, không thể gộp các loại rủi ro khác nhau vào một nhóm để đưa ra
cùng một phương án điều chỉnh.
d).Nguyên tắc phù hợp về thời gian
Thời gian tồn tại nghiệp vụ tín dụng càng lâu thì cường độ xảy ra rủi ro càng
lớn, khả năng điều tiết những tiêu cực của nó và tính hiệu quả của quản lý rủi
ro càng thấp. Khi bắt buộc phải tồn tại các nghiệp vụ này thì ngân hàng phải
đảm bảo có mức độ thu nhập phụ trội cần thiết không chỉ vì lợi nhuận mà còn
vì mục đích bù đắp chi phí khi rủi ro tín dụng xảy ra.
e)Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng
Hệ thống quản lý rủi ro tín dụng cần phải dựa trên nền tảng những mục tiêu
chung của chiến lược phát triển ngân hàng cũng như các chính sách điều hành
hoạt động của ngân hàng.

Từ những nguyên tắc trên, ngân hàng cần xây dựng cho mình một chính
sách quản lý rủi ro tín dụng phù hợp. Chính sách này phải được coi là một bộ
phận quan trọng trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng, trong đó
phải xây dựng hệ thống phòng ngừa rủi ro và đưa ra những giải pháp nhằm
hạn chế những tác động xấu của rủi ro tín dụng đến sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng.

2.2.4.Nội dung của quản lý rủi ro tín dụng
Để quản lý rủi ro tín dụng, ngân hàng thương mại thường quan tâm đến
các nội dung sau:
a)Xây dựng chính sách và quy trình tín dụng
Hoạt động tín dụng hết sức đa dạng và phức tạp, liên quan đến nhiều bộ
phận khác nhau trong ngân hàng đòi hỏi phải có sự kết hợp và chỉ đạo chung
thông qua chính sách và quy trình tín dụng.
Chính sách tín dụng đặt ra mục tiêu, tham số định hướng cho các cán bộ
ngân hàng, những người làm công tác cho vay và quản trị danh mục đầu tư.
Chính sách cần được xây dựng khoa học, cẩn thận, chính xác và thông suốt từ
trên xuống dưới tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của
mình, tránh rủi ro quá mức và đánh giá đúng về cơ hội kinh doanh của khách
hàng. Chính sách tín dụng đúng đắn là yếu tố cơ bản, là nền tảng để quản lý
tín dụng hiệu quả, là điều kiện thiết yếu để quản lý rủi ro tín dụng tốt.
Chính sách tín dụng thường bao gồm những nội dung cơ bản sau:
• Miêu tả thị trường tín dụng mục tiêu của ngân hàng.
• Tuyên bố về tiêu chuẩn đối với những danh mục cho vay
của ngân hàng.
• Xác định quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ tham gia quá trình ra
quyết định cho vay.
• Những thủ tục, hoạt động cần thiết cho việc chào mời, xem xét, đánh
giá và ra quyết định đối với yêu cầu vay vốn của khách hàng.
• Các tài liệu cần thiết trong hồ sơ vay vốn.

• Hướng dẫn tiếp nhận, bảo quản tài sản thế chấp.
• Chính sách, phương pháp xác định lãi suất,
các khoản phí và thời hạn vay vốn, kỳ hạn trả nợ.
• Một bản tiêu chuẩn áp dụng cho toàn bộ danh mục cho vay.
• Giới hạn cho vay tối đa của từng ngành, từng nhóm sản phẩm đối
với toàn danh mục, của tổng dư nợ đối với tổng tài sản của ngân hàng.
• Phát hiện, phân tích và xử lý các khoản vay có vấn đề.
• Chính sách cho vay thận trọng đối với các khách hàng
có khó khăn tạm thời.
Chính sách tín dụng là cơ sở để hình thành quy trình tín dụng. Quy trình tín
dụng là văn bản hướng dẫn nội bộ của ngân hàng về trình tự xử lý các bước
trong một quá trình cung cấp tín dụng đến khách hàng, nhằm bảo đảm tính
thống nhất hoạt động trong toàn ngành ngân hàng và tuân thủ đúng các quy
định của pháp luật.
Quy trình tín dụng phải nêu rõ các bước tác nghiệp cũng như kết quả của
tất cả các bước tác nghiệp, bao gồm các bước: thẩm định cho vay, ra quyết
định cho vay, giải ngân, theo dõi sau khi cho vay, giám sát toàn bộ quá trình
cho vay, theo dõi đặc biệt một số khoản cho vay, xử lý các khoản vay có vấn
đề…Nhờ đó, quy trình tín dụng phần nào hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân
hàng.
b)Cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng
Cơ cấu tổ chức tín dụng được tổ chức tốt là một trong những công cụ quan
trọng để quản lý rủi ro có hiệu quả.
Một trong những điều kiện cần thiết nhất trong cơ cấu tổ chức áp dụng với
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại là việc tách bạch ba chức năng:
chức năng kinh doanh, chức năng quản lý rủi ro và chức năng tác nghiệp. Sự
tách bạch giữa ba chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là hạn chế rủi ro ở mức
thấp nhất, đồng thời phát huy tối đa chuyên môn của từng vị trí công tác tín
dụng. Điểm nổi bật của mô hình tổ chức này là đảm bảo tính độc lập của bộ
phận quản lý rủi ro, không tập trung quyền lực vào một cá nhân hoặc bộ phận

nào.
Một yêu cầu nữa đối với cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng là phải đảm bảo
tính thống nhất trong mối quan hệ ràng buộc kiểm soát lẫn nhau, thông tin
được tập trung, đầy đủ, chính xác và kịp thời. Theo đó, ngoài các phòng
nghiệp vụ làm công tác tín dụng, để đảm bảo tính tập thể trong các quyết định
về tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng, các NHTM còn thành lập Ủy ban quản
lý rủi ro và Hội đồng tín dụng.
c)Xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng
nội bộ
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nội bộ là cách thức
quản lý chất lượng tín dụng tiên tiến mà các NHTM muốn quản lý rủi ro tín
dụng tốt cần phải có. Một hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách
hàng nội bộ được xây dựng phù hợp sẽ giúp cho việc đánh giá khách hàng
được nhất quán giữa các cán bộ tín dụng, giữa cán bộ tín dụng với các cấp
quản lý, giữa các chi nhánh của một NHTM, giảm bớt được các đánh giá
mang tính chất chủ quan của con người. nâng cao được chất lượng và hiệu
quả của hoạt động tín dụng.
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nội bộ là một quy
trình đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của một khách hàng
đối với một ngân hàng như việc trả lãi và trả gốc nợ vay khi đến hạn hoặc các
điều kiện tín dụng khác nhằm đánh giá, xác định rủi ro trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng đối tượng
khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm,
dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính có sẵn của khách hàng tại thời
điểm chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng.
Hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nội bộ thông
thường được xây dựng theo nguyên tắc chấm điểm trên cơ sở các chỉ số tài
chính kết hợp với các chỉ số phi tài chính của khách hàng nhằm lượng hóa các
rủi ro tín dụng mà NHTM sẽ phải đối mặt. Hệ thống này sử dụng các phương
pháp chấm điểm hoặc xếp hạng riêng đối với từng đối tượng khách hàng.

Thông thường có thể chia làm ba nhóm đối tượng khách hàng là : các tổ chức
tài chính, các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực và các cá nhân.
• Các chỉ tiêu phi tài chính thường được sử dụng trong hệ thống xếp hạng
tín dụng nội bộ của NHTM:
• Trình độ quản lý của khách hàng ( kinh nghiệm trong ngành
của cấp quản lý doanh nghiệp, năng lực điều hành, khả năng
xử lý vấn đề như rủi ro, kiểm soát nội bộ…)
• Uy tín trong giao dịch tín dụng với ngân hàng (trả nợ đúng hạn,
số lần gia hạn nợ, …) và phi tín dụng ( liên quan đến giao dịch
tiền gửi thanh toán)
• Mức độ thích nghi trước những thay đổi thị trường, thay đổi chính sách
thuế, đầu tư…của khách hàng.
• Lĩnh vực kinh doanh của khách hàng, triển vọng của ngành kinh doanh.
• Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu được sử dụng để xếp hạng tín dụng
nội bộ ở NHTM gồm:
• Các chỉ tiêu tài chính phản ánh hoạt động kinh doanh cho biết tình hình
sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp: doanh thu thuần/các khoản phải
thu; kỳ thu tiền bình quân: các khoảnphải thu/Doanh thu bình
quân hàng ngày; vòng quay hàng tồn kho:giá vốn hàng bán/Hàng
tồn kho bình quân trong kỳ; hiệu suất sử dụng TSCĐ:doanh thu
thuần/TSCĐ…
• Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh khoản cho biết khả năng đáp ứng
các khoản nợ của doanh nghiệp: khả năng thanh khoản hiện tại:
tài sản ngắn hạn/ nợ ngắn hạn; khả năng thanh khoản nhanh:
(tài sản ngắn hạn – hàng tồn kho)/Nợ ngắn hạn; tỷ lệ doanh thu
trên vốn ngắn hạn: doanh thu thuần/(Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn)

• Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời để đánh
giá hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng quản lý của doanh
nghiệp: tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu:Lợi nhuận/doanh thu thuần;

tỷlệ lợi nhuận trên tổng tài sản: Lợi nhuận ròng/ Tổng tài sản…
Tuy nhiên cần lưu ý rằng hệ thống chấm điểm tín dụng là một hệ thống
động, thường xuyên thay đổi theo sự thay đổi của môi trường kinh doanh, môi
trường đầu tư, các chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp…Vì vậy,
NHTM cần phải thường xuyên theo dõi, cập nhật và điều chỉnh hệ thống
chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nội bộ sao cho phù hợp với từng
thời kỳ, đem lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng.
Đối với các NHTM Việt Nam, xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng và
xếp hạng khách hàng nội bộ là một yêu cầu bắt buộc theo quy định tại Quyết
định 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng,
nhằm hướng hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM Việt Nam tiến
gần đến các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
d) Các biện pháp bảo đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm
phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ
đã cho khách hàng vay.
Bảo đảm tiền vay được coi như một công cụ để quản lý rủi ro tín dụng của
NHTM vì khi yêu cầu khách hàng vay vốn phải có bảo đảm tiền vay sẽ nâng
cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay cũng như phòng ngừa
sự gian lận, lừa đảo của bên vay. Khi không có tài sản đảm bảo thì phần vốn
của bên vay tham gia rất ít hoặc không tham gia vào dự án đầu tư, do đó họ có
xu hướng thực hiện các dự án có mức độ rủi ro cao để mang lại lợi nhuận lớn
vì nếu dự án thất bại họ sẽ mất không đáng kể, còn nếu thành công thì họ thu
được lợi ích rất lớn. Hành vi của bên vay sẽ hoàn toàn ngược lại khi họ phải
đem thế chấp những tài sản hiện có để được cấp tín dụng. Chính vì vậy, khách
hàng phải thận trọng hơn trong việc đưa ra các quyết định đầu tư của mình.
Ngoài ra, ngân hàng yêu cầu phải có tài sản đảm bảo vì trong trường hợp
nếu khách hàng vay không có khả năng trả nợ thì ngân hàng có quyền thu giữ
và bán tài sản để thu hồi nợ vay. Khi đó, tài sản đảm bảo của khách hàng trở

thành nguồn thu nợ thứ hai của khoản vay, hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân
hàng. Nhưng cần phải lưu ý rằng: giá trị của tài sản đảm bảo phụ thuộc nhiều
vào chu kỳ kinh tế, yếu tố công nghệ, tính pháp lý của tài sản…nên nếu có
biến động theo hướng tiêu cực thì tính thanh khoản sẽ thấp. Trên thực tế, việc
thu nợ bằng số tiền bán tài sản đảm bảo không đủ để thu hồi khoản cho vay
xảy ra rất nhiều ở các NHTM. Vì vậy, tài sản đảm bảo chỉ là điều kiện cần
chứ chưa phải là điều kiện đủ để ngân hàng có thế kiểm soát được rủi ro khi
cho vay.
Hơn nữa, theo các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng theo tiêu
chuẩn quốc tế cũng như của Việt Nam, giá trị tài sản đảm bảo cũng được tính
đến khi xác định mức dự phòng cụ thể cho từng khoản vay. Do đó, yêu cầu về
tài sản đảm bảo khi cho vay vốn có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm bớt
mức trích lập dự phòng rủi ro nếu khoản vay bị phân loại vào nhóm nợ cần
trích lập dự phòng.
e).Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng
Trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, một trong những
khả năng dẫn đến rủi ro tín dụng là rủi ro đạo đức.
Khi nói đến rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng ngân hàng, chúng ta
thường đề cập đến rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng mà ít nói đến rủi ro đạo
đức của người quản lý. Một nhà quản lý làm đúng chức năng, nhiệm vụ thì
phòng ngừa được sự phát sinh của loại rủi ro này. Nhưng trên thực tế, vì lợi
ích cá nhân hay một nhóm tập thể cán bộ quản lý trong công tác điều hành đã
vô tình hoặc cố ý tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi ro này phát triển gây ảnh
hưởng xấu đến ngân hàng. Chúng ta phải thừa nhận rằng ở đâu chú trọng đến
công tác tín dụng, luôn tuân thủ các quy trình từ xét duyệt cho vay, kiểm tra
giám sát việc sử dụng tiền vay, thu hồi nợ, xử lý nợ nghi ngờ, nợ xấu luôn
nêu cao phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ thì ở đó, chất
lượng tín dụng cao và kiểm soát tốt, giảm thiểu rủi ro. Ngược lại, ở đâu sự
quan tâm chú trọng không đầy đủ đúng mức thì ở đó, chất lượng tín dụng
thấp, rủi ro cao và thậm chí mất cả cán bộ.

Bên cạnh đó, rủi ro đạo đức trong kinh doanh của các NHTM không phải
chỉ do cán bộ quản lý, cán bộ nhân viên tín dụng của ngân hàng mà còn do
những người vay vốn. Có thể thấy rõ rủi ro tín dụng xuất phát từ phía người
vay vốn chia làm hai loại đối tượng: (1) không thực hiện nghĩa vụ theo cam
kết; (2) không có khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Cũng không ít
khách hàng để đạt được mục tiêu vay vốn của mình đã giả tạo hồ sơ, hợp
đồng mua bán vòng vo nhằm vay vốn ngân hàng. Điều đó đòi hỏi NHTM nói
chung, cán bộ tín dụng, thẩm định nói riêng phải làm tốt, chính xác việc phân
loại đối tượng vay vốn, từ đó có các biện pháp kiểm tra, đôn đốc, giúp đỡ,
hướng dẫn, phòng ngừa rủi ro tương ứng, hữu hiệu.
Chính vì thế, kiểm tra, kiểm soát tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng
đối với chương trình cho vay lành mạnh của ngân hàng. Nó không những
giúp các nhà quản lý ngân hàng phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề
nhanh hơn mà còn xác định được các cán bộ có tuân thủ đúng chính sách và
quy trình tín dụng của ngân hàng không. Do đó, để tăng cường tính khách
quan trong quá trình kiểm tra, kiểm soát tín dụng, phần lớn các ngân hàng
tách riêng cán bộ kiểm soát tín dụng ra khỏi phòng tín dụng. Kiểm soát tín
dụng cũng giúp các nhà quản lý ngân hàng trong việc xác định, đánh giá rủi
ro tiềm tàng của ngân hàng và nhu cầu vốn trong tương lai.
Đồng thời, NHTM còn tiến hành công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Thông qua hoạt động này, các nhà quản lý có thể phát hiện, ngăn ngừa và
chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng cũng
như những rủi ro đạo đức do cán bộ tín dụng gây ra. Hoạt động kiểm tra, kiểm
soát nội bộ được thực hiện bởi một bộ phận độc lập với hoạt động tín dụng đó
là phòng kiểm tra nội bộ, có chức năng đưa ra các đánh giá một cách khách
quan đối với hoạt động tín dụng.
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ nghiệp vụ cho vay tại các NHTM hiện
nay tập trung vào hai vấn đề chính:
• Kiểm tra, kiểm soát việc tổ chức chỉ đạo điều hành và đánh
giá khái quát hoạt động tín dụng. kiểm tra

nội bộ thường tiến hành ở một số nội dung như: kiểm tra
việc tổ chức phâncông của lãnh đạo trong chỉ đạo điều hành hoạt động
tín dụng; kiểm tra việc triển khai chiến lược hoạt động của các phòng
ban; kiểm tra việc bố trí nhân sự…
• Kiểm tra, kiểm soát đối với từng món vay
cụ thể bảo gồm cả khâu trước, trong và sau khi cho vay. Kiểm tra trước
và trong khi cho vay thường tập trung vào một số mặt như tính hợp
lệ và đầy đủ của hồ sơ vay vốn của khách hàng, các tài sản đảm bảo
tiền vay, việc thẩm định và lập hợp đồng tín dụng…Kiểm soát khâu sau
khi cho vay thường tập trung vào việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn
vay và lưu trữ hồ sơ vay vốn.
f)Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng là nội dung không thể
thiếu trong quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM sau khi các khoản vay đã
được thực hiện. Việc phân loại các khoản vay thành các nhóm khác nhau dựa
trên đánh giá về mức độ rủi ro của các khoản vay giúp cho các NHTM đánh
giá đúng chất lượng tín dụng của các khoản vay đang được thực hiện đồng
thời cũng là cơ sở để các NHTM xác định được mức dự phòng cần phải trích
lập cho các khoản vay có dấu hiệu của sự suy giảm giá trị và khả năng thu hồi
vốn. Trên cơ sở số tiền dự phòng rủi ro đã được trích lập sẽ giúp cho các
NHTM chủ động đối phó được với những rủi ro tín dụng khi nó xảy ra, cũng
như không gây nên những biến động lớn trong hoạt động kinh doanh và tình
hình tài chính của ngân hàng.
Để đánh giá một khoản vay, các NHTM cần phải xem xét cả các yếu
tố định tính và định lượng. Các yếu tố này bao gồm những chỉ tiêu đánh giá
bản thân khách hàng vay chứ không chỉ đơn thuần đánh giá từng khoản vay
cụ thể vì khả năng thanh toán của khách hàng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
của toàn bộ các khoản vay của khách hàng đó.
Các NHTM Việt Nam hiện nay đang thực hiện việc phân loại nợ, trích lập
và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng theo Quyết định số 493/2005/QĐ –

NHNN ngày 22/04/2005. Theo quyết định này, tất cả các khoản cho vay của
các tổ chức tín dụng bao gồm cả nợ nội bảng và nợ ngoại bảng được phân
thành 5 nhóm:
• Nhóm 1 ( Nợ đủ tiêu chuẩn): nợ trong giới hạn được đánh
giá là có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi đúng thời hạn.
• Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): nợ quá hạn dưới 90 ngày,
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
• Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): nợ quá hạn 90 đến 180 ngày, nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
• Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): nợ quá hạn 181 đến 360 ngày,
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn
nợ đã cơ cấu lại.
• Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): nợ quá hạn trên 360 ngày,
nợ khoanh chờ chính phủ xử lý, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn
trên 180 ngày theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
Bên cạnh nguyên tắc phân nhóm như trên, TCTD phải thực hiện hạ bậc phân
loại nợ nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm hoặc nếu có
bất kỳ một khoản nợ nào trong nhiều khoản nợ của khách hàng bị chuyển
sang nhóm có độ rủi ro cao hơn.
Trên cơ sở phân loại nợ, các TCTD thực hiện việc trích lập dự phòng rủi
ro cho từng khoản vay theo nguyên tắc được phép xác định giá trị tài sản đảm
bảo để khấu trừ ra khỏi số tiền được trích lập với tỷ lệ trích lập tương ứng cho
các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5 là: 0%, 5%, 20%, 50% và 100%. Ngoài
ra, TCTD còn thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng
giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến 4.
Việc thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro theo
Quyết định 493 là một thay đổi lớn trong hoạt động của các TCTD Việt Nam,
nhằm định hướng cho hoạt động của các NHTM đến gần hơn các chuẩn mực
quốc tế, giúp các NHTM chủ động đánh giá được chất lượng hoạt động tín
dụng của mình và có thể chủ động đối phó với những rủi ro có thể xảy ra.

Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận
khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với NH,
gây tổn thất cho NH, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ,
đúng hạn cả gốc và lãi cho NH. Từ đó, có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín
dụng của NHTM như:
• Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Theo quyết định 493 /2005/QĐ–NHNN ngày 22/04/2005, nợ xấu
là nợ nhóm 3 đến nhóm 5, phản ánh mức độ rủi ro tín dụng cao. Còn trước
năm 2005, các NHTM thường sử dụng chỉ tiêu nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá hạn.
Nợ xấu là những khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn
thanh toán đã thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.Nợ xấu nói chung được
xem như một dấu hiệu của một vấn đề rủi ro tiềm ẩn.
Có thể nói nợ xấu là chỉ tiêu tuyệt đối được sử dụng khá phổ biến ở các
ngân hàng để đánh giá kết quả quản lý rủi ro tín dụng. Chỉ tiêu này càng cao
thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng càng lớn, công tác quản lý rủi ro
tín dụng chưa tốt.
• Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Tuy được sử dụng nhiều nhưng chỉ tiêu nợ xấu chưa đủ đánh giá một
cách đầy đủ, đúng đắn việc quản lý rủi ro tín dụng. Vì thế, ngoài chỉ tiêu
này, người ta còn dùng chỉ tiêu tương đối là tỷ lệ nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa dự nợ xấu và tổng số dư nợ hiện có của ngân
hàng. Tỷ lệ nợ xấu được xác định như sau:
Tỷ lệ nợ xấu = Dư nợ xấu/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng thấp thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng càng thấp,
phản ánh việc quản lý rủi ro tín dụng tốt và ngược lại.
Tuy nhiên nếu tỷ lệ này thấp hay bằng 0 không có nghĩa là rủi ro tín dụng
thấp hoặc không có mà số tiền rủi ro khi đó chính là tổng dự nợ hiện tại của
ngân hàng. Không phải những khoản vay chưa đến hạn thanh toán là không
có rủi ro. Vì thế, ngoài hai đại lượng định lượng trên, ngân hàng còn sử
dụng các chỉ tiêu định tính.

• Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu
• Tỷ lệ nợ xấu trên quỹ dự phòng tổn thất
• Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) – có khả năng chuyển thành
nợ xấu cao
• Nợ không có tài sản đảm bảo
2.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro tín dụng
của các ngân hàng thương mại
a)Các nhân tố chủ quan
• Nhận thức về sự cần thiết của quản lý rủi ro tín dụng
Mọi cá nhân từ cán bộ tác nghiệp đến các cấp lãnh đạo phải quán triệt
quan điểm: rủi ro là yếu tố gắn liền với mọi hoạt động tín dụng của các ngân
hàng. Để thu được lợi nhuận, các ngân hàng không thể chối bỏ rủi ro, nghĩa
là không thể không cho vay, mà chỉ có thể tìm cách làm hạn chế những tổn
thất có thể có bằng cách xây dựng chiến lược quản lý rủi ro thích hợp.
Các ngân hàng cần đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ
rủi ro – lợi ích nhằm tìm ra cơ hội đạt những lợi ích tương ứng với mức độ
rủi ro có thể chấp nhận được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro là

×