Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tìm hiểu tín dụng thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.19 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
GIỚI THIỆU
Trong thời đại nền kinh tế thị trường trở thành một nền kinh tế của toàn cầu
thì doanh nghiệp là một chủ thể quan trọng trong nền kinh tế, là nơi quyết định về
các quá trình sản xuất được đưa ra. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải sử
dụng các đầu vào để sản xuất ra đầu ra (sản phẩm, dịch vụ). Tại sao các doanh
nghiệp lại cần vay vốn trong quá trình kinh doanh? Thứ nhất, quá trình kinh doanh
đòi hỏi phải có khoảng cách thời gian từ khi mua nguyên liệu để đưa vào sản xuất
cho đến khi bán được sản phẩm và thu tiền bán hàng. Trong trường hợp này doanh
nghiệp cần vốn ngắn hạn để mua nguyên vật liệu và đáp ứng các chi dùng thường
ngày khác. Thứ hai, doanh nghiệp cần đầu tư mua sắm máy móc để mở rộng qui mô
sản xuất. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần các nguồn vốn dài hạn hơn để có
thời gian thu hồi vốn. Trong trường hợp các nguồn vốn nội tại của doanh nghiệp
không đáp ứng được nhu cầu (ngắn và dài hạn) thì doanh nghiệp cần vay vốn từ bên
ngoài. Nhưng trong tình hình nền kinh tế thế giới và trong nước vừa trải qua cuộc
khủng hoảng tài chính, vấn đề tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng đối
với doanh nghiệp bị hạn chế. Mặc dù Nhà nước chủ trương kiềm chế lãi suất, nhưng
lãi suất hiện nay vẫn ở mức cao nên tình hình vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp
từ đầu năm 2010 tới nay rất khó khăn. Doanh nghiệp hiện tại vẫn phải vay vốn với
lãi suất từ 14%/năm trở lên. Đây là một gánh nặng, vì các chính sách mà Chính phủ
đã ban hành trong năm 2009 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, như hỗ trợ 4% lãi suất,
miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm 50% thuế suất thuế giá trị gia tăng…đã hết
hạn từ cuối năm 2009. Theo tổng kết sơ bộ 6 tháng đầu năm 2010 cho thấy, số
doanh nghiệp tiếp cận vốn vay chưa tới 50% số hồ sơ mà các doanh nghiệp có nhu
cầu vay. Do đó, việc tiếp cận nguồn tín dụng thương mại được các nhà kinh doanh
quan tâm nhiều hơn. quan hệ tín dụng thương mại được hình thành trong điều kiện
thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp
thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì
cả hai đều có lợi. Vì có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất kinh doanh giữa các doanh
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 1
nghiệp, nên việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là


hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu.
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 2
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CÔNG CỤ CỦA THƯƠNG MẠI TÍN DỤNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1Khái niệm: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp
dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Đây là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản
xuất - kinh doanh được thực hiện dưới hình thức mua bán, bán chịu hàng hóa. Hành
vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín dụng - người bán chuyển giao
cho người mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định, và khi
đến thời hạn đã được thỏa thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới
hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu.
1.2 Đặc điểm của tín dụng thương mại
- Vốn cho vay theo tín dụng thương mại là hàng hóa hay một bộ phận của
vốn sản xuất chuẩn bị chuyển hóa thành tiền, chưa phải là tiền nhàn rỗi.
+Người cho vay (chủ nợ) và người đi vay (con nợ) đều là những doanh
nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
+Khối lượng tín dụng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào tổng giá trị của khối
lượng hàng hóa được đưa ra mua bán chịu.
-Một điều khoản tín dụng thương mại mà các doanh nghiệp thường thỏa
thuận khi sử dụng hình thức tín dụng này là: “2/10 Net 30” có nghĩa là nếu trả tiền
mặt trong vòng 10 ngày kể từ khi mua hàng, người mua sẽ được chiết khấu 2% trên
giá cả hàng bán, người mua sẽ phải trả toàn bộ giá bán sau 10 ngày và được trả
chậm trong vòng 30 ngày.
-Để đảm bảo người mua chịu trả nợ đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người
bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng nhận
quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi
tiền, hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại”
hay “thương phiếu”. Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu
giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần

biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường trở thành một công cụ
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 3
lưu thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và
phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế.
1.2.1 Đặc điểm của thương phiếu:
+Dựa trên cơ sở người lập: thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối
phiếu và lệnh phiếu:
- Hối phiếu: là chứng chỉ có giá do người bán chịu lập, yêu cầu người mua
chịu trả một số tiền xác định vào một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho
người thụ hưởng.
1.2.2 Nội dung hối phiếu:
-Tiêu đề :”Lệnh phiếu “ ghi ở bề mặt của lệnh phiếu
-Một cam kết vô điều kiện để thanh toán một số tiền nhất định
-Thời hạn trả tiền.
-Địa điểm trả tiền
-Tên người hưởng lợi hoặc tên của người ra lệnh thực hiện việc thanh
toán
-Địa điểm,ngày ký phát lệnh phiếu
-Chữ ký người ký phát lệnh phiếu.
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 4
Hình: Hối phiếu
-Lệnh phiếu: là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết trả một số
tiền xác định trong một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
Trên lệnh phiếu kì hạn được quy định rõ
Một lệnh phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát cam kết thanh toán
cho một hay nhiều người hưởng lợi.
Lệnh phiếu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính để
đảm bảo khả năng thanh toán của lệnh phiếu.
1.2.3 Nội dung lệnh phiếu:
-Tiêu đề :”Lệnh phiếu “ ghi ở bề mặt của lệnh phiếu

-Một cam kết vô điều kiện để thanh toán một số tiền nhất định
-Thời hạn trả tiền.
-Địa điểm trả tiền
-Tên người hưởng lợi hoặc tên của người ra lệnh thực hiện việc thanh
toán
-Địa điểm,ngày ký phát lệnh phiếu
-Chữ ký người ký phát lệnh phiếu.
Lệnh phiếu trả ngay:
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 5
Lệnh phiếu có kỳ hạn:
Hình2: Lệnh phiếu
Hối phiếu và lệnh phiếu nếu thiếu một trong những điều kiện trên sẽ trở thành vô
hiệu lực ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt. Đồng thời để thực hiện tốt quản lý
của nhà nước đối với hoạt động thương phiếu, ngân hàng nhà nước là người chịu
trách nhiệm in, cung cấp và bảo quản mẫu thương phiếu.
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 6

New York 24 January 2009
5000 USD
Three months after date I promise to pay David Henry or order the sum of
five thousand US Dollars.
David Cantona


1.2.4 Một số điểm khác nhau giữa hối phiếu và lệnh phiếu:
+ Hối phiếu do chủ nợ lập, còn lệnh phiếu do người thiếu nợ lập
+ Hối phiếu thông thường có 3 người quan hệ với nhau: Người phát hành
hối phiếu (người phát lệnh), người trả tiền theo hối phiếu (người thu lệnh) và người
hưởng thụ.
+Còn lệnh phiếu thường có 2 người liên hệ: người phát lệnh phiếu và người

hưởng thụ.
+Hối phiếu thường gồm hai bản, lệnh phiếu chỉ có một bản chính do con nợ
phát ra để chuyển cho người hưởng lợi lệnh phiếu đó.
+Dựa trên cơ sở phương thức chuyển nhượng: thương phiếu tồn tại dưới 3
hình thức:
- Thương phiếu vô danh: là loại thương phiếu không ghi tên người thụ hưởng
- Thương phiếu đích danh: là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng
nhưng không được chuyển nhượng
- Thương phiếu ký danh: là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng và
có quyền chuyển nhượng
1.2.5 Tính chất của thương phiếu:
- Tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi cụ thể nguyên nhân phát sinh
khoản nợ mà chỉ ghi các thông tin về số tiền phải trả, thời hạn trả tiền và người trả
tiền.
- Tính bắt buộc: Qui định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ hưởng
đúng hạn, không được phép từ chối hoặc trì hoãn việc trả tiền.
- Tính lưu thông: Thương phiếu được chuyển nhượng từ người thụ hưởng
sang người khác bằng phương pháp ký hậu, nó có thể chuyển hoá ra tiền khi mang
đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. tính chất này khiến thương phiếu trở
thành một loại phương tiện thanh toán thay cho tiền trong thời gian hiệu lực và
mệnh giá thương phiếu.
1.2.6 Pháp luật về thương phiếu:
Pháp luật về thương phiếu thương mại xuất hiện từ lâu (khoảng cuối thế
kỷ XI đầu thế kỷ XII) ở các nước Phương Tây, đáp ứng các yêu cầu tất yếu, khách
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 7
quan từ hoạt thương mại. và ngày nay, thương phiếu được xem là một công cụ tín
dụng, một phương tiện thanh toán hữu hiệu trong hoạt động thương mại.
Xuất phát từ vai trò kinh tế của thương phiếu, các nước đã chú trọng xây
dựng một cách có hệ thống và tương đối cụ thể các quy phạm pháp luật nhằm tạo
môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của thương phiếu. không chỉ dừng lại ở

hệ thống pháp luật trong nước, trên phương diện quốc tế, pháp luật thương mại quốc
tế cũng đòi hỏi phải có sự thống nhất về luật pháp liên quan đến thương phiếu, trong
chừng mực có thể đạt được, để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của thương nhân cũng
như để bảo đảm một cách hữu hiệu sự tồn tại và hoạt động của thương phiếu. Điển
hình là Công ước Geneve ngày 7 tháng 6 năm 1930 về hối phiếu và lệnh phiếu đã
được ký kết.
Từ đó đến nay, pháp luật thương mại quốc tế đã có rất nhiều các văn bản
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thương phiếu. Hơn nữa,
điều này nhằm đáp ứng với tình hình phát triển kinh tế thế giới nói chung.
ở Việt Nam, trong thời kỳ áp dụng cơ chế tập trung, bao cấp. Nhà nước can thiệp rất
sâu trong hoạt động kinh tế. Các tổ chức kinh tế, công dân chưa được tự do kinh
doanh: pháp luật kinh doanh nói chung cũng như pháp luật thương mại chưa được
chú trọng. Điều này chỉ thật sự được đổi mới và phát triển từ khi Đảng và Nhà nước
chuyển hướng phát triển nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong hoàn cảng đó, thương phiếu và pháp luật thương phiếu chỉ được đề
cập trong những năm gần đây: Luật Thương Mại 1997. Pháp lệnh Thương phiếu
được UBTVQH thông qua ngày 24/12/1999, có hiệu lực từ ngày 01/07/2000, và
Nghị định số 32/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/07/2001 (gọi tắt là NĐ 32) hướng
dẫn chi tiết thi hành pháp lệnh thương phiếu. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật
vừa nêu vẫn được coi là chưa đủ để có một mội trường pháp lý thuận tiện cho
thương phiếu hoạt động
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 8
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ
CỦAVIỆT NAM HIỆN NAY
2. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC
2.1 Tình hình trong nước
Do đặc điểm tuần hoàn, lưu chuyển vốn khác nhau, trong những đơn vị sản
xuất kinh doanh, nên xảy ra sự không ăn khớp giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm

đây là tình trạng phổ biến của các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất ở Việt Nam
hiện nay. Tại một thời điểm, trong khi một số nhà sản xuất có hàng hóa muốn bán
thì số khác lại muốn mua hàng hóa đó nhưng không có tiền. Từ đó phát sinh việc
mua bán chịu giữa các đối tượng này ngày càng phổ biến hơn. Đây cũng chính là cơ
sở của tín dụng thương mại. Và tín dụng thương mại đã đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh nghiệp
thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng
được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tạm thời thiếu đồng thời giúp cho các doanh
nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng
này giúp cho các doanh nghiệp khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Ngay từ khi xuất hiện thương phiếu được xem là một phương tiện thanh toán
hữu hiệu, đáp ứng các nhu cầu thanh toán trong trường hợp có sự khác biệt về địa lý
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 9
giữa nơi bán và nơi mua. Và hiện nay, thương phiếu vẫn giữ vai trò quan trọng trong
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh vai trò là một phương tiện thanh toán, thương phiếu còn được xem
là một công cụ tín dụng, sỡ dĩ có vai trò này bởi vì các doanh nghiệp kinh doanh sản
xuất thực hiện các hoạt động chiết khấu trên thương phiếu. Tín dụng chiết khấu
thương phiếu được hiểu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, mà thực chất của hình thức
này là ngân hàng tiến hành mua lại các thương phiếu đang trong thời kỳ chưa đến
hạn thanh toán và cung ứng một khoản vốn cho các thương nhân để họ có điều kiện
tiếp tục tái sản xuất. Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người
có nhiệm vụ trả tiền thương phiếu.
2.1.1Tăng nguồn vốn kinh doanh
Trong tín dụng thương mại, các nhà sản xuất có thể tận dụng được nguồn vốn
nhàn rỗi để sản xuất, làm tăng nguồn vốn kinh doanh trong thời gian ngắn, với chi
phí thấp hoặc chi phí có thể bằng không, tùy theo mối quan hệ giữa người cấp tín
dụng và người sử dụng nguồn vốn đó.

2.1.2 Tiết kiệm chi phí và lưu thông tiền tệ
Sử dụng vốn tín dụng thương mại giúp cho các nhà sản xuất giảm chi phí sử
dụng vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn, thay vì đi vay tại các các ngân hàng hoặc các tổ
chức tín dụng khác với mức lãi suất cao, thủ tục phức tạp, phát sinh nhiều chi phí
trung gian từ việc vay vốn, thì nhà sản xuất có thể mua chịu nguyên vật liệu, hay
nhập hàng từ nhà cung ứng với chi phí trả sau và có mức chiết khấu hợp lý thỏa
thuận được. Việc sử dụng nguồn vốn tín dụng không chỉ có lợi cho nhà sản xuất mà
còn có lợi cho kinh tế về mặt vĩ mô, khi không phải cung ứng thêm lượng tiền ra lưu
thông. Giúp cho ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ dễ dàng hơn.
2.1.3 Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh nghiệp
thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng
được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tạm thời thiếu đồng thời giúp cho các doanh
nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình.Nguồn vốn tín dụng thương mại giúp đáp
ứng nhu cầu vốn trong thời vụ sản xuất cao điểm, đáp ứng nhu cầu thị trường. Đồng
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 10
thời dưới cơ chế hoạt động của tín dụng thương mại, nhà sản xuất có thể bán được
hàng hóa của mình, giải quyết tình trạng tồn kho, và các chi phí có liên quan đến tồn
trữ hàng hóa. Người sản xuất được cấp tín dụng thương mại sẽ bắt đầu chu kì sản
xuất mới mà không cần chờ đợi đến khi có vốn mới. Như vậy, tín dụng thương mại
đã huy động được nguồn vốn nhàn rỗi vào vòng quay sản xuất, làm sản xuất hiệu
quả hơn, dòng tiền có khả năng sinh lời nhiều hơn. Trong sản xuất kinh doanh, tín
dụng thương mại là một phần không thể thiếu nhằm cung ứng vốn. Qua đó, còn liên
kết các nhà sản xuất với nhau, bởi mối quan hệ của nhà sản xuất được hiểu là đầu ra
của người này là đầu vào của người kia.
2.1.4 Khuyến khích sản xuất kinh doanh
Tín dụng thương mại dưa trên sự tín nhiệm giữa các nhà sản xuất với nhau,
hỗ trợ nhau trong quá trình sản xuất. Thực tế, các nhà sản xuất sử dụng vốn tín dụng
vốn thương mại trong hầu hết các trường hợp mua nguyên vật liệu, nhập hàng, tiêu
thụ sản phẩm… thay vì đi vay tại ngân hàng với thủ tục phức tạp, lãi suất cao. Trong

những giai đoạn lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ làm cho nguồn vốn đến tay
các doanh nghiệp khó khăn hơn thì tín dụng thương mại với cam kết đơn giản giữa
các doanh nghiệp, cùng chi phí sử dụng vốn cực thấp lại là biện pháp vốn tối ưu cho
các doanh nghiệp, giúp duy trì sản xuất kinh doanh. Tín dụng thương mại được xem
là hình thức tài trợ rẻ tiền, rất linh hoạt trong kinh doanh. Bên cạnh đó, nó còn tạo
điều kiện mở rộng mối quan hệ với đối tác lâu bền giữa các doanh nghiệp trong nền
kinh tế.
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 11
(4)
(4)
NGƯỜI BÁN NGƯỜI MUA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
(1) Hàng hóa
(2)Thương
phiếu
Xin
chiết
khấu
Gửi
giấy
than
h
toán
(5)
Thanh
toán
(6)
Thanh
toán
trực

tiếp
N
ế
u
N
ế
u
3
Hình3: Quá trình hoạt động của tín dụng thương mại
2.2 Tín dụng thương mại quốc tế
Trong các quan hệ quốc tế, quan hệ về tài chính - tín dụng - ngân hàng là
quan hệ phổ biến giữa các nước trên thế giới hiện nay; mối quan hệ này được đặc
biệt quan tâm ở các nước đã và đang phát triển đối với các nước kém phát triển.
Đảng, Nhà nước ta đã xác định đường lối phát triển kinh tế - xã hội trong giai
đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH là tăng trưởng nhanh và bền vững cả trước mắt cũng
như lâu dài phải dựa trên hai yếu tố: Nội lực và ngoại lực, trong đó nội lực là yếu tố
quyết định và bên ngoài là yếu tố quan trọng. Chính vì vậy, hơn 10 năm qua nước ta
đã sử dụng vốn vay nước ngoài chủ yếu là vay vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), vốn viện trợ cùng với nguồn lực tài chính trong nước là yếu tố quyết
định để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ;
Mức tăng trưởng kinh tế mấy năm qua xấp xỉ 8%, nước ta đã dần dần khẳng định vị
thế trên thế giới và các nước trong khu vực; Đời sống tinh thần và vật chất của nhân
dân được nâng lên một bước khả quan.
Một trong những yếu tố tạo nên thắng lợi về phát triển kinh tế thời gian qua
là nguồn vốn vay nước ngoài mà chủ yếu là vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) của nhiều nước.
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 12
1
5
%

Biểu đồ: Nợ vay nước ngoài và tín dụng thương mại quốc tế năm 2010
Nguồn :www.vdb.gov.vn
Tính đến thời điểm này, nước ta đang có số nợ vay khoảng 14 tỷ USD, trong
đó vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) chiếm khoảng 85%, còn lại trên là 15%
vay tín dụng thương mại. Hàng năm ngân sách nhà nước bố trí chi khoảng 1/3 tổng
số tiền chi trả nợ để trả nợ nước ngoài, chủ yếu là vốn ODA của các nước phương
Tây.
Tình hình kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng, nguồn đầu tư trực tiếp
bằng vốn nước ngoài (FDI) và nguồn vốn của các nhà đầu tư trong nước tăng lên thì
lượng vốn vay ODA nên giảm dần và có thể vay vốn tín dụng thương mại thông
thường ở các tổ chức OCR, vay của ADB, vay của IBRRD, hoặc của WB … khi cần
thiết.
Chúng ta cũng không nên dựa vào ngưỡng an toàn cho nợ nước ngoài theo
tập quán quốc tế là 50% GDP. Thực tế ở nước ta thì năm 2000 tỷ trọng nợ gần 40%
trong GDP; Dự kiến năm 2006 là gần 37% GDP; Bình quân 2001-2005 là gần 36%
GDP; Ước năm 2009-2010 tỷ trọng khoảng 37% GDP. Vì mỗi thời kỳ, mỗi nước có
những đặc điểm về kinh tế và xã hội khác nhau, không vì theo tập quán quốc tế ấy
để dẫn đến tình trạng “tốt vay dày nợ”…
Trong giai đoạn 2006-2010 và tiếp theo đến 2015, nước ta dần dần đi vào thế
ổn định khi gia nhập WTO, sẽ được hưởng những thuận lợi nhất định. Xu hướng
đẩy mạnh huy động nguồn vốn của các nhà đầu tư trong nước, nhà nước và nhân
dân đều có lợi và tạo ra khả năng phát triển bền vững. Đồng thời tạo nhiều điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đầu tư 100% vốn (FDI) để giảm
dần số dư nợ vay hiện nay xuống đến mức hợp lý; Từ đó số chi trả nợ từ ngân sách
nhà nước hàng năm chỉ còn 1/4 đến 1/5 số tiền chi để trả nợ cho nước ngoài; Trường
hợp cần thiết phải vay ODA hoặc vay tín dụng thương mại thông thường của các
nước phải đặt hiệu quả là chỉ tiêu hàng đầu cho mỗi lần vay, cho mỗi dự án.
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 13
85%
Nhà nước và từng doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ lưỡng về hiệu quả cho mỗi

lần vay, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc giải ngân vốn vay bao gồm cả vay ưu đãi
(ODA) và vay thương mại thông thường. Cần quy định trách nhiệm kinh tế và hành
chính của người đi vay thì chắc chắn việc sử dụng và quản lý vốn vay nước ngoài sẽ
là động lực quan trọng góp phần tích chực đưa nước ta tiến nhanh, tiến vững chắc
sớm ra khỏi danh sách các nước chậm phát triển trên thế giới.
2.3 Ưu và nhược điểm của tín dụng thương mại
2.3.1Trong nước
Ưu điểm
-Tín dụng thương mại góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hóa, làm cho chu kỳ sản xuất rút ngắn lại.
-Tín dụng thương mại tham gia vào quá trình điều tiết vốn giữa các doanh
nghiệp một cách trực tiếp mà không thông qua bất kỳ cơ quan trung gian nào.
-Tín dụng thương mại được cấp giữa các doanh nghiệp quen biết, uy tín nên
có lợi thế là thủ tục nhanh, gọn, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn và góp phần đẩy
nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
-Tín dụng thương mại góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu
thông, làm giảm chi phí lưu thông xã hội.
-Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp
vụ chiết khấu, bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập
nhưng ít rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
-Trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu, khi
cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách chuyển
nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các
khoản cho vay của ngân hàng.
-Tín dụng thương mại tạo ra thương phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường
mở, tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối
tiền trong lưu thông.
-Tạo thuận lợi với doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên với nhà cung cấp
Nhược điểm
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 14

Về quy mô: lượng giá trị cho vay bị hạn chế do tín dụng thương mại được
cấp bằng hàng hoá nên doanh nghiệp cho vay chỉ có thể cung cấp được cho một số
doanh nghiệp nhất định - những doanh nghiệp cần đúng thứ hàng hoá đó để phục vụ
Sản xuất hoặc bán ra. Hơn nữa, Tín dụng thương mại là do các nhà doanh nghiệp
cung cấp và họ chỉ cung cấp với khả năng giới hạn của họ. Nếu người đi vay có nhu
cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng được.
Về phạm vi: Phạm vi hẹp, chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp, hơn nữa là chỉ
thực hiện được giữa các doanh nghiệp quen biết, tín nhiệm lẫn nhau và chỉ đầu tư
một chiều, không có quan hệ cho vay ngược lại.
Về thời gian: thời hạn tín dụng ngắn thường là dưới 1 năm, điều kiện kinh
doanh và chu kỳ sản xuất của các doanh nghiệp có thể không phù hợp nhau, do vậy
khi thời gian mà doanh nghiệp cho vay muốn cung cấp không phù hợp với nhu cầu
của doanh nghiệp cần đi vay thì tín dụng thương mại không thể xảy ra.
-Là loại tín dụng không có đảm bảo nên rủi ro dễ phát sinh.
-Do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai doanh nghiệp
thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (thương phiếu không phát sinh từ quan
hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều
này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn
tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.
-Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thương phiếu (Người bán chịu hàng hoá,
người được chuyển nhượng thương phiếu, ngân hàng bảo lãnh…) chưa thật sự có
lòng tin đối với thương phiếu và khả năng chuyển hoá ra
-Pháp lệnh thương phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính khả thi vẫn
còn kém.
2.3.2 Quốc tế:
Ưu điểm:
-Đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội khi mà các nguồn
vốn trong nước còn hạn chế.
-Thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế một cách nhanh chóng
-Mở rộng quan hệ quốc tế với các nước trên thế giới

Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 15
Nhược điểm:
Tín dụng quốc tế có rủi ro do bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của tỷ giá hối đoái
quốc tế.
CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 KẾT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu tín dụng thương mại ở Việt Nam cho thấy tầm quan
trọng của tín dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị
trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy
hoạt động của tín dụng thương mại là hết sức cần thiết, một mặt đáp ứng nhu cầu
vốn cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hóa của mình. Mặt khác sự tồn tại của
hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được
nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tín dụng
thương mại còn góp phần làm cho hoạt động của các tổ chức tín dụng thêm tính đa
dạng và phong phú thúc đẩy sự phát triển cho hệ thống ngân hàng và quan trọng là
đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế không những
trong nước mà còn ở thị trường quốc tế. Bên cạnh những mặt tích mà tín dụng
thương mại mang lại vẫn tồn tại song song những mặt tiêu cực, hạn chế. Về mặt tiêu
cực gây ra công nợ dây chuyền nếu một doanh nghiệp bị vỡ nợ có thể làm ảnh
hưởng xấu cho hàng loạt các bên có liên quan tham giam tín dụng, những tranh chấp
thường xuyên xảy ra. Về mặt hạn chế, hạn chế về quy mô tín dụng, về thời hạn cho
vay, và về phương hướng. Ngoài ra, việc cung cấp tín dụng thương mại chỉ được
thực hiện trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau.
3.2 KIẾN NGHỊ
Về phía chính phủ:
-Xây dựng hoàn thiện về bộ luật thương phiếu, cải cách thủ tục hành chính
đồng bộ, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Mặc dù Quốc hội đã thông
qua Pháp lệnh thương phiếu có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2000 và Chính Phủ đã
ban hành nghị định 32/2001/NĐ -CP ngày 5.7.2001 hướng dẫn thi hành pháp lệnh

trên nhưng vẫn còn nhiều bất cập như chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa phù hợp với
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 16
thông lệ quốc tế…
-Tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho tín dụng trực tiếp giữa các doanh nghiệp và
tín dụng ngân hàng
-Đẩy mạnh các quỹ bảo lãnh tín dụng
-Thông qua bộ tài chính miễn, giảm thuế, hoãn nộp thuế cho doanh nghiệp,
ngành hàng đang gặp khó khăn do tác động xấu của tình hình kinh tế trong nước va
thế giới
-Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, thảo luận về thương phiếu và ích lợi của
thương phiếu đến các doanh nghiệp là những chủ thể chủ yếu trong quan hệ thương
phiếu.
-Nâng cao hiệu lực hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) dể có
thể cung cấp chính xác và kịp thời năng lực chi trả, uy tín của các doanh nghiệp có
nghĩa vụ thanh toán thương phiếu, đảm bảo quyền lợi của người thụ hưởng.
-Chính phủ cần có những ưu đãi hợp lý cho các doanh nghiệp cũng như các
-Tổ chức tín dụng có tham gia vào quan hệ thương phiếu.
-Ngân hàng Nhà nước phải gấp rút ban hành các thông tư hướng dẫn để các
ngân hàng có thể mạnh dạn thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu như
bảo lãnh, chiết khấu và cầm cố thương phiếu. ngân hàng Nhà nước cũng phải nhanh
chóng ban hành mẫu biểu cho thương phiếu, ban hành Luật về các công cụ chuyển
nhượng…
Về phía các tổ chức ngân hàng:
-Hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp để tín dụng thương mại phát triển tích
cực
-Có nhiều hình thức cho vay hơn đối với tín dụng thương mại
-Sử dụng nhiều loại cho vay để quản lý chặt chẽ ảnh hưởng của tín dụng
thương mại vì cho vay bằng nhiều loại sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát sâu
các khoản tín dụng thương mại để sàn lọc những gì cho vay được và biết được mục
đích sử dụng

Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 17
-Áp dụng mức lãi suất ưu đãi
-Năng cao chất lượng nguồn nhân lực
-Năng cao chất lượng thẩm định, kiểm tra, giám sát khách hàng
Về phía cac doanh nghiệp:
- Tạo sự uy tín với đối tác, thanh toán đúng hạn, việc thanh toán đúng hạn là
một trong những nhân tố lớn tạo niềm tin vững chắc cho đối tác
-Hồ sơ tín dụng phải rõ ràng, chính xác. Đây là cách trực tiếp để có một tỷ lệ
tín dụng khả quan.
-Năng cao nguồn nhân lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình hoạt động
kinh doanh của các đối tác.
-Năng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, sản xuất từ đó tạo khả năng
thanh toán nhanh chóng, các chủ thể tham gia hợp tác cùng có lợi.
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
/>Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 19
GV: Trần Thị Hạnh Phúc
BÁO CÁO TIẾN ĐỘ LÀM VIỆC CỦA NHÓM
STT TÊN MSSV TUẦN 12 TUẦN 13
25/10 30/10 01/11 05/11
76 Châu Thị Mai Linh 4085457 Viết về vai trò
của TDTM
Nộp bài Tìm
thêm
tài
liệu
bổ
sung
Hoàn
thành

bài
viết
77 Lê Phương Nam 4085462 Viết về lý do
chọn đề tài,
công cụ của
TDTM
Nộp bài
78 Phạm Thị Bích Sơn 4085481 Viết kết luận Tổng hợp
bài
79 Lê Thị Kim Cương 4087784 Viết về tình hình
TDTM quốc tế
và trong nước
Nộp bài
80 Trần Văn Mến 4087789 Viết về ưu
nhược điểm của
TDTM
Nộp bài
Môn:Tiền Tệ-Ngân Hàng 20

×