Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Chiến lược sản phẩm trà Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.36 KB, 26 trang )

CHIẾN LƯỢC
SẢN PHẨM
TRÀ VIỆT NAM
Nguyễn Anh Khoa
MỤC LỤC
Phần I: Khái quát công ty Trà Việt Nam
Phần II: Môi trường Kinh Doanh
Phần III: Chiến lược và Giải Pháp
I. Khái quát công ty Trà Việt
1.1 Tổng quan công ty
1.1.1 Lịch sử hình thành
Công ty được thành lập bằng việc mua lại toàn bộ nhà máy sản xuất (diện tích hơn 5,000 m2) và
toàn bộ khu vực trồng trà từ 1 nhà đầu tư nước ngoài.
Tên chính thức: CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI TRÀ VIỆT NAM
Tên tiếng anh: VIET NAM TEA TRADING CORPORATION
Tên giao dịch: VIET NAM TEA CORP
Tổng giám đốc: Vũ Thanh Giang
Ngày thành lập: 09/09/2009
Tổng vốn đầu tư ban đầu: 10 tỷ đồng
Văn phòng giao dịch: 134/18 đường số 8, phường 16, Gò Vấp, Hồ Chí Minh
Trụ sở: 64 Huỳnh Thúc Kháng, Phường 2, Thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng
Nhà máy: Khu 3, Phường Đại Lào, Thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng (bao gồm 15 ha trồng trà Ô
Long)
Khu trồng trà: 35 ha tại Lộc Thắng, Huyện Bảo Lâm, Tỉnh Lâm Đồng (cách nhà máy 15KM)
Hiện công ty đang sở hữu vườn chè có diện tích 50 ha năng suất cao chuyên trồng trà Ô Long và
1 nhà máy chế biến trà hiện đại với công suất 300 tấn/năm
Dự kiến, trong thời gian tới công ty sẽ sáp nhập thêm 1 công ty trà bao gồm nhà máy và 200 ha
trà, nâng cao năng lực sản xuất hiện tại lên 2,500 tấn/năm
1.1.2 Doanh thu
Hiện tại do công ty Trà Việt mới đưa sản phẩm ra thị trường, cũng như chỉ mới xuất khẩu sang
một vài thị trường nên chưa có số liệu doanh thu.


 Về thương hiệu Trà Việt tại thị trường nội địa: thời gian 3 dòng sản phẩm Trà Việt chỉ
mới có mặt tại 2 siêu thị Maxaimax TP HCM khoảng 2 tháng trở lại đây, vì vậy việc kết
toán doanh thu, lợi nhuạn vẫn chưa thực hiện được.
 Về hàng xuất khẩu thô sang thị trường nước ngoài ( Đài Loan, Đông Phi): Do hợp đồng
xuất khẩu thường được thỏa thuận kí và giao hàng trong một khoảng thời gian nhất định (
3 tháng, 6 tháng, 1 năm,..) chính điều này dẫn đến việc thanh toán tiền hàng từ đối tác
nước ngoài chưa được đầy đủ.
1.1.3 Cơ cấu tổ chức công ty
Tổng Giám Ðốc
P. Kế Toán
P. Kinh Doanh P. Marketing
Tài Chính -
P. Vận Chuyển P. Cung Ứng Nhà Máy
HCNS
Xuất
khẩu
Nội địa
Quản lý
nhãn hiệu
Hỗ trợ thị
trường
Tổng hợp
Quản trị
Ðội Giao
Hàng
Kho tại
HCM
Sản xuất
RD
Kênh

truyền
thống
Công nợ QA
Kênh siêu
thị
Nguyên
Vật Liệu
Kho
Nông
trường
Nhận xét:
Ưu điểm: Bộ máy tổ chức khá đầy đủ, nhiều phòng ban và bộ phận, đặc biệc bên bộ phận nhà
máy được phân ra nhiều ban phụ trách từng khâu từ nông trường, kho chứa đến sản xuất trà. Bên
cạnh đó, công ty còn có một đội ngũ vận chuyển riêng biệt, điều này sẽ giúp công ty trong việc
giảm đi chi phí thuê mướn đội ngũ ngoài vận chuyển và giao hàng.
Nhược điểm: Công ty có quá nhiều bộ phận trong khi quy mô công ty còn nhỏ, điều này tạo ra
bộ máy cồng kềnh và tăng chi phí quản lí văn phòng. Chưa có sự phân bố đồng đều nhân lực,
cũng như chức năng giãu các phòng ban. Đặc biệc công ty nên chú trọng hơn nữa vào bộ phận
bán hàng trong nước và xuất khẩu, song đó là phòng marketing. Riêng kênh xuất khẩu vẫn chưa
được công ty chú trọng lắm.
 Công ty cần xem xét lại cấu trúc của các ban bộ phận, để có 1 sự phân bổ đều hơn. Cân
bằng các bộ phận, và lập ra các phòng ban nhỏ với những chức năng cụ thể hơn. Chẳng
hạn phòng Marketing nên chia theo marketing trong nước và nước ngoài (tập trung vào
sản phẩm có thương hiệu). Đối với phòng xuất khẩu ????
1.2 Sản phẩm
1.2.1 Thị trường tiêu thụ
Công ty Trà Việt hiện đang phân phối ra thị trường nước ngoài vừa tiêu thụ ở thị trường
trong nước.
Đối với thị trường xuất khẩu: Đây là kênh tiêu thụ chiếm tỉ trọng lớn của công ty Trà
Việt, chiếm đến 95% tổng sản lượng sản xuất tương đương khoảng trên 250 tấn. Trong đó có đến

85% là xuất khẩu sản phẩm trà dưới dạng thô, chưa qua chế biến giá trị thấp sang các thị trường
chủ yếu Đài Loan, và một số nước Đông Âu. Và khoảng 10% là xuất khẩu sản phẩm trà mang
thương hiệu sang thị trường Mỹ. Đây là những thị trường tiềm năng của công ty.
Đối với thị
trường trong
nước: Hiện tại do công ty mới thành lập
(9/2009) nên việc phân phối sản phẩm Trà Việt đến người tiêu dùng trong nước còn rất ít. Công
ty chỉ mới phân phối khoảng 5% sản lượng tương dương gần 15 tấn trà ra thị trị trường tiêu thụ
Việt Nam. Theo khảo sát thì chỉ có 2 siêu thị Maximax ở Thành phố Hồ Chí Minh là có bán 3
dòng sản phẩm mang nhãn hiệu Trà Việt.
1.2.2 Cơ cấu sản phẩm Trà Việt
Hiện tại công ty Trà Việt chỉ có nhóm sản phẩm trà xanh, chưa có nhóm sản phẩm chè đen.
Nhóm sản phẩm chè xanh gồm:
-
-
-
Trà xanh sơ chế ( xuất khẩu thô)
Trà xanh hương các loại ( trà hoa sen, trà lài)
Trà Ô long
Trà xanh là loại chè được chế biến bỏ qua giai đoạn oxy hóa. Trà xanh là sản phẩm chủ
yếu của các nước phương Đông. Gần đây các nghiên cứu khoa học liên kết việc uống trà xanh
với việc giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư nên đang được sự ưa chuộng ở Mỹ và Châu Âu.
Trà Ô long là trà trung gian giữa trà xanh và trà đen về màu sắc và mùi vị, chế biến theo
công nghệ oxy hóa một phần rất được ưa chuộng tại Trung Quốc
Riêng đối với trà xanh ướp hương và trà Ô long (sản phẩm có thương hiệu) công ty hiện chia làm
3 loại trà gồm phổ thông, đặc biệt, cao cấp (chia theo chất lượng trà và bao bì đóng gói) với 3
nhãn hiệu đang đăng ký bảo hộ độc quyền là:




Ô LONG TRÀ VIỆT
HƯƠNG SEN TRÀ VIỆT
HƯƠNG LÀI TRÀ VIỆT
Trà có
Thượng
hạng
thương hiệu
Trà
Việt
Trà không có
thương hiệu
Cơ cấu giá sản phẩm Trà Việt:
Đặc biệc
Phổ thông
Giá
Ô Long Hoa Lài Hoa Sen
Loại
thượng
hạng
100g:
89.000
VND
Loại
đặc biệc
150g:
69.000
VND
Loại
phổ
thông

100g:
47.500
VND
Loại
thượng
hạng
100g:
59.000
VND
Loại
đặc biệc
150g:
35.000
VND
Loại
phổ
thông
100g:
19.000
VND
Loại
thượng
hạng
100g:
59.000
VND
Loại
đặc biệc
150g:
35.000

VND
1.2.3 Đặc điểm sản phẩm Trà Việt
a. Trà Ô long
Xuất xứ: Trà ô long trước kia vốn chỉ sản xuất ở Trung Quốc tại ba tỉnh Phúc Kiến, Đài Loan,
Quảng Đông. Phân thành 4 loại: trà núi đá Vũ Di (Bắc Phúc Kiến), trà Thiết quan âm An Khê
(Nam Phúc Kiến), trà ô long Đài Loan và Pao Chủng.
Sau 1986 vào thời kỳ kinh tế mở cửa ở Việt Nam, nhiều Công ty trà Đài Loan như Kinh Lộ,
Vĩnh Húc, Hai Yin … đã vào miền nam và miền bắc để sản xuất trà ô long tại Lâm Đồng, Hà
Tây và Mộc Châu … Một số công ty chè của Việt Nam như Cầu tre, Tâm Châu ở Lâm Đồng,
Thái Bình ở Lạng sơn cũng đều sản xuất trà ô long.
Chất lượng: Hương mùi hoa tươi rất thơm và bền, vị nồng hậu, nước xanh hoặc xanh vàng, bã
xanh.
Nguyên liệu: Nguyên liệu phải là búp chè của các giống chè Đài Loan như Kim Tuyên, Ngọc
Thúy, Thanh Tâm, Tứ Quý Xuân … có hương thơm đặc biệt. Búp chè hái xong bỏ vào túi để héo
một thời gian, dù chưa chế biến đã dậy mùi thơm.
Quy trình chế biến: Trà đỏ (ô long) có đặc điểm công nghệ là làm héo (phơi héo, tãi héo hay gia
nhiệt) trước khi diệt men, và lên men và làm héo kết hợp liên tục với quá trình chế biến nhiệt tạo
nên đặc trưng của trà ô long. Quy trình công nghệ gồm các công đoạn:
Làm héo -> Làm xanh -> Sao thanh -> Vò sấy -> Sơ chế -> Tinh chế -> Trà thành phẩm
Lá chè làm héo được 2 - 3 giờ, thì đưa đi lắc bằng thủ công (xoay sàng cho chè dập một phần)
hoặc quay hương trong lồng tre, rồi đảo trộn rải đều lại hoặc cho chè héo sang sàng ở thùng quay
kiểu lưới. Sau đó trả lại sàng héo, tiếp tục làm héo. Kết thúc quá trình làm héo và lên men kết
hợp, tổng thời gian của quá trình này không ít hơn 12 giờ. Sau đó đưa chè đi diệt men.
Diệt men giống như trong sản xuất trà vàng.
Vò chè mục đích và yêu cầu giống như trong sản xuất trà vàng, nhưng không vò nóng. Vò chè
quấn trrong vải – bó quả - cho thành viên chè tròn đặc biệt không có ở các loại trà xanh khác.
Từ sấy sơ bộ đến kết thúc giai đoạn ủ nóng cuối cùng, thực chất là quá trình chế biến nhiệt phối
hợp với làm khô chè từng đợt. Nhờ quá trình này mà tăng cường mầu nước của trà, chuyển hoá
vị trà và nhất là làm tăng hương thơm đặc trưng của trà ô long.
b. Trà hương: Hoa sen, lài

Trà ướp hương sen hay lài là một trong những loại trà hương khá được ưa chuộng ở nước ta.
Hương thơm nồng nàn của hoa làm cho tách trà trở nên hấp dẫn hơn.
Quy trình chế biến:
Nguyên liệu: Búp non 1 tôm 2 lá
Làm héo
Rủ hương
Lên men
Diệt men
Vò chuông
Sấy khô
Phân loại
Đóng gói
Thành Phẩm
II. Môi trường kinh doanh
1. Môi trường vĩ mô
1.1 Chính sách nhà nước
Hiện nay đối với nghành chè nói riêng thì chính sách thuế Việt Nam quy định thuế xuất khẩu
bằng 0%, khuyến khích xuất khẩu chè sang các nước ngoài.
Nhà nước vẫn chưa có sự quản lí đối với ngành sản xuất chế biến chè đối với các doanh nghiệp.
Ngoài ra, chưa có một chính sách nào quy định một khung giá chuẩn cho nghành chè nói chung
ở Việt Nam.
 Nhà nước đang khuyến khích các nhà đầu tư vào lĩnh vực sản xuất chế biến chè ở các
tỉnh Thái Nguyên, Lâm Đồng. Song nhiều chính sách còn sơ sài, chưa chú ý, quản lí chặt
các doanh nghiệp kinh doanh trong nghành chè này nhiều. Dẫn đến hiện tượng các doanh
nghiệp lách luật, trốn thuế một cách dễ dàng.
Ví dụ: Theo số liệu thống kê tính đến cuối năm 2009 của ngành thuế tỉnh Lâm Đồng. Trong số
các doanh nghiệp “lỗ khủng khiếp” nhất có 24 doanh nghiệp 100% vốn Đài Loan chuyên sản
xuất, chế biến và xuất khẩu trà ô long. Các doanh nghiệp này được thuê đất để sản xuất, kinh
doanh trà chiếm đến 3/4 diện tích trồng trà của cả tỉnh (khoảng 18.000/24.075ha), trên 90% sản
phẩm làm ra được xuất khẩu. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, tỉnh này không thu được đồng

thuế thu nhập doanh nghiệp nào từ các doanh nghiệp này; ngược lại, phải hoàn thuế GTGT nhiều
tỷ đồng cho họ. Theo kê khai của các doanh nghiệp, sản phẩm trà của họ làm ra có giá trị xuất
khẩu thấp hơn so với giá thành sản phẩm và giá bán trong nước. Thậm chí có đơn vị giá bán chỉ
bằng 42% giá thành sản phẩm (?!). Thật bất thường khi trà ô long của Công ty Haiyih (Cầu Đất,
TP. Đà Lạt) giá xuất khẩu chỉ bằng 13% giá tiêu thụ nội địa. Sản phẩm trà Vina-Suzuki (huyện
Di Linh) xuất khẩu qua thị trường Nhật Bản, giá cao nhất cũng chỉ bằng 61% giá bán trong nước.
Từ đó, báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn thua lỗ. Thậm chí, một số
đơn vị, lỗ lũy kế cao hơn mức vốn đầu tư ban đầu. Như Công ty TNHH trà Đài Loan thành lập
năm 2003, vốn pháp định 9,6 tỷ đồng nhưng lỗ lũy kế trên 11,2 tỷ đồng; Công ty TNHH trà Kinh
Lộ thành lập năm 2002, vốn pháp định 32 tỷ đồng, lỗ trên 47,7 tỷ đồng; Công ty TNHH King
Wan Chen thành lập năm 2000, vốn pháp định 16 tỷ đồng nhưng báo lỗ 25,2 tỷ đồng; Công ty
TNHH Haiyih thành lập năm 2002, vốn pháp định 11,2 tỷ đồng, báo lỗ gần 47,6 tỷ đồng; Công
ty TNHH TFB Việt Nam, thành lập năm 1997, vốn pháp định 32 tỷ đồng, lỗ lũy kế gần 40 tỷ
đồng... Nhiều đơn vị từ khi thành lập đến nay, năm nào cũng báo cáo quyết toán lỗ.
1.2 Dân số
Dân số Việt Nam trên 25 tuổi ở khu vực thành thị trong năm 2008 là 12,627,860 chiếm hơn 52%
dân số Việt Nam. Đây là một thị trường rất lớn cho các sản phẩm trà ở Việt Nam.
1.3 Kinh tế
Việt Nam đang là một trong nhất nước có tốc độ phát triển lớn nhất thế giới. Và ngày nay mức
sống của người dân cũng được nâng cao hơn do đó họ đòi hỏi có được những sản phẩm tốt nhất
cho sức khỏe của họ. 88% người VIệt Nam trả lời rằng họ sẵn sàng trả giá cao hơn cho những
sản phẩm có lợi cho sức khỏe của họ.
1.4 Văn hóa
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam gắn chặt với cây chè và phong tục uống trà. Uống chè
tươi, chè mạn hảo là nét bản sắc văn hoá ẩm thực của người Việt từ thuở hồng hoang đến tận
ngày nay. Lời chào đon đả của những bà mẹ Việt Nam da nhăn nheo, chít khăn mỏ quạ, miệng
bỏm bẻm nhai trầu, hay những thiếu nữ mặc áo tứ thân với chiếc yếm đào vừa mộc mạc mà chân
chất, vừa luyến láy mà ấn tượng.
“Chè ngon, nước chát xin mời.
Nước non non nước, nghĩa người chớ quên”

Bát nước chè xanh nước chát là biểu tượng của tâm hồn người Việt hiếu khách, thuỷ chung.Trải
qua những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, cây chè vẫn gắn bó thắm thiết với con người
Việt Nam. Cây chè vừa là cây rừng vừa là cây nông nghiệp chính của đồng bào các dân tộc miền
núi. Cây chè dễ trồng ngay cả trên đất đồi núi chua nghèo nhưng có giá trị kinh tế lớn góp phần
vào việc phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Cây chè còn là cây bản địa lưu niên, bảo vệ
đất và nước, giúp đảm bảo cho một nền nông nghiệp lâu bền, một nông thôn bền vững.
Cùng với trồng chè, tục uống trà của người Việt đã tạo nên một nét bản sắc văn hoá “Hồn trà
Việt” lưu truyền trong lịch sử đất nước. Nét đẹp ẩm thực uống trà được thể hiện qua những vần
thơ, những câu ca dao, tục ngữ, những điệu hò dân gian trữ tình và những áng thi văn bất hủ của
các danh nhân văn hoá Việt Nam.
Việt Nam nằm ở vị trí ngã tư đường, là giao điểm của các nền văn hoá bản địa, khu vực trước hết
là Trung Hoa và sau đó là phương Tây, cho nên các lớp văn hoá chè cổ kim, đông tây trong xã
hội Việt Nam, đan xen với nhau như một ống nhòm vạn hoa muôn màu muôn vẻ. Căn cứ vào
thời gian, không gian và chủ thể con người có thể phác hoạ cấu trúc Văn hóa trà Việt Nam gồm
ba lớp, tương ứng với nền văn hoá chè bản địa (chè tươi, chè mạn) hình thành trên bán đảo Đông
Dương, rồi phát triển trong sự tiếp biến rất đậm nét với nền văn hoá trà khu vực Trung Hoa (trà
tàu, trà ô long) và sau đó với nền văn hoá trà phương Tây hiện đại (trà đen, trà túi).
Bước vào thời kỳ hội nhập, người tiêu dùng trà Việt Nam đã bắt đầu làm quen với nhiều cách
uống trà mới được “tây hoá” như trà đá, trà túi Lipton, trà hoà tan, trà vị hoa quả Dilmah, trà
dược liệu... Nhiều quán trà “Thế hệ trẻ”, “Thế hệ mới” mọc lên như nấm, ngổn ngang với những
bàn trà và xe máy của thanh niên kê kín các vỉa hè! Phòng trà Nhật Bản mở cửa đã trình diễn
phong cách Trà đạo - trong khuôn viên trà thất chashitsu “Hoà - Kính - Thanh - Tịnh” của các
samourai thời trị vì Nhật hoàng Meiji.
Tập quán uống chè tươi đã bị lãng quên lâu nay đã lại được phục hồi ở Hà Nội, vùng dậy ở các
vùng nông thôn Nghệ An, các công sở, các quán vỉa hè tỉnh lỵ và ngay tại các gia đình khu tập

×