Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Sự khác biệt của bộ máy cơ cấu nhà nước trong hiến pháp 1959 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.4 KB, 11 trang )

1

THẢO LUẬN MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Nhóm 9:Đề bài:Sự khác biệt trong cơ cấu bộ máy cơ cấu nhà nước trong hiến pháp năm 1959-1980
Họ và tên sinh viên
1.Nguyễn Bá Thành
2.Lê thị Thảo
3.Nguyễn Văn Thịnh
4.Nguyễn Thị Minh Thơm
5.Hoàng Văn Tiến
6.Bùi Đức Trung
7.Bùi Lê Việt Trung
8.Nguyễn Thành Trung
9.Nguyễn Văn Trường
10.Lê Thị Toán
MỤC LỤC
1.Khái quát về bộ máy nhà nước và vị trí tính chất của bộ máy nhà nước trang 3
1.1.Khái niệm Bộ máy nhà nước
1.2.Cấu thành Bộ máy nhà nước
1.3.Vai trò của bộ máy nhà nước
2.So sánh sự khác biệt giữa bộ máy nhà nước theo hiến pháp 1959-1980 trang 4
2.1.Hoàn cảnh ra đời
2.1.1.Hiến pháp 1959
2
2.1.2.Hiến pháp 1980
2.2.Về phân cấp hành chính
2.3.Hệ thống cơ quan đại diện trang 5
a.Quốc hội
b.Hội đồng nhân dân
2.4.Hệ thống các cơ quan chấp hành trang 6
2.5.Hệ thống các cơ quan xét xử trang 7


2.6.Hệ thống cơ quan kiểm sát trang 8
2.7.Điểm khác biệt trong bộ máy Nhà nước theo hiến pháp 1959-1980 trang 9
về nguyên thủ Quốc gia.
3.Sự kế thừa và phát triển qua các bản hiến pháp trang 10
a.Hiến pháp 1959
b.Hiến pháp 1980
MỞ ĐẦU
Quá trình hình thành và phát triển bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội củ nghĩa Việt Nam là một quá trình
lien tục,gắn liền với từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam.Đảng cộng sản Việt Nam trong từng thời
kỳ,luôn quan tâm và chú trọng việc xây dựng,củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước từ trung ương đến
địa phương.Nếu như trong thời kỳ của Hiến pháp năm 1946,Nhà nước chủ yếu là bộ máy cai trị,dùng
bạo lực cách mạng để trấn át thù trong ,giặc ngoài,duy trì trật tự ,an ninh trong nước .Từ Hiến pháp
3
1959 đến nay,Nhà nước dân chủ nhân dân đã làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu và trở thành người điều
hành lên sản xuất xã hội .Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trương ương Đảng cộng sản Việt Nam đã
nhấn mạnh :“Nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta và nhân dân ta phải đặc biệt quan
tâm và nhanh chóng xây dựng củng cố bộ máy chính quyền Nhà nước…”.Xuất phát từ tầm quan trọng
của công cuộc hoàn thiện bộ máy Nhà nước ,nhóm chúng em đã nghien cứu đề tài: ”So sánh bộ máy
Nhà nước theo Hiến pháp 1959và Hiến pháp 1980 ”.
NỘI DUNG
1.Khái quát về bộ máy nhà nước và vị trí tính chất của bộ máy nhà nước.
1.1.Khái niệm bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước (BMNN) là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương ,cơ sở ,tổ
chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định tạo thành một cơ chế để thực hiện chức
năng nhiệm vụ của Nhà nước.Cơ quan nhà nước là một tổ chức được thành lập và hoạt động theo
những nguyên tắc và trình tự nhất định,có cơ cấu tổ chức nhất định và được giao những quyền lực Nhà
nước nhất định,được quy định trong các văn bản pháp luật để thực hiện một phần những nhiệm vụ
,quyền hạn của nhà nước .
Bộ máy nhà nước được hình thành và phát triển phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội,các cơ
quan trong bộ máy nhà nước ngày càng phong phú và đa dạng phức tạp hơn.Sự phân định các chức

năng ,thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ngày càng rõ ràng ,cụ thể hơn và các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của chúng ngày càng tiến bộ hơn.Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
môt cơ chế cân đối và thống nhất của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương,được tổ
chức hoạt động theo nguyên tắc chung,đảm bảo cho nhà nước ta thực hiện mọi chức năng,nhiệm vụ của
mình theo cơ chế của dân,do dân,vì dân.
Vấn đề tổ chức cơ cấu bộ máy nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng ,nó thể hiện sức mạnh của nhà
nước ,chế độ xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho nhà nước thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình một
cách có hiệu quả nhất .Những bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước gọi là các cơ quan nhà nước.
1.2.Cấu thành bộ máy nhà nước
Về cơ bản qua thực tế cho thấy bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa bao gồm:Nguyên thủ thủ quốc gia
:chủ tịch nước (Hội đồng nhà nước ,đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao…) do Quốc hội bầu là cơ quan đứng
nhà nước,thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại.
Cơ quan quyền lực nhà nước (Cơ quan đại biểu nhân dân,cơ quan dân cử) bao gồm Quốc hội và hội
đồng nhân dân
Các cơ quan hành chính nhà nước(cơ quan quản lý bao gồm Chính phủ,hội đồng nhân dân các cấp)
1.3.Vai trò của bộ máy nhà nước
4
Bộ máy nhà nước là cơ quan đại diện bảo vệ lợi ích cho giai cấp công nhân,nông dân,tầng lớp trí thức và
nhân dân lao động.Nó vừa là bộ máy hành chính cưỡng chế vừa là bộ máy quản lý kinh tế,văn hóa xã
hội,là công cụ chủ yếu cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.Các cơ quan trong bộ máy nhà
nước có vai trò quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và làm cho xã hội ngày càng phát triển toàn diện.
2.So sánh Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1959-1980
2.1.Hoàn cảnh ra đời
2.1.1.Hiến pháp 1959
Sau chiến thắng Điện Biên PHủ trấn động địa cầu lừng lẫy năm châu ,hòa bình lặp lại miền Bắc chuyển
sang xây dựng chế độ XHCN nhưng miền Nam còn bị đế quốc và phong kiến thống trị,nước ta tạm thời
bị chia cắt. Trong điều kiện đó với những kinh nghiệm tích lũy của quá trình xây dựng chính quyền nhân
dân,Nhà nước ta đã bước đầu củng cố lại bộ máy nhà nước và cho ra đời bộ máy nhà nước mới theo
Hiến pháp 1959.
2.1.2.Hiến pháp năm 1980

Mùa xuân năm 1975 nhân dân ta giành được thắng lợi trọn vẹn trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy đỉnh
cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng ,nhân dân tiến hành cuộc
tổng tuyển cử cả nước ,thực hiện thống nhất đất nước về mặt Nhà nước.Ngày 18/12/1980 Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI,kỳ họp thứ 7,đã thông qua Hiến pháp của nước Việt
Nam thống nhất.
2.2.Về phân cấp hành chính
Theo Hiến pháp năm 1959 :Bộ máy nhà nước được củng cố và sửa đổi,các cấp hành chính chỉ còn 4 cấp
quản lý đó là :Trung ương,cấp tỉnh ,thành phố trực thuộc trung ương và khu tự trị;cấp huyện,thành phố
trực thuộc tỉnh,cấp xã thị trấn và tương đương,cấp bộ bị bãi bỏ.
Theo Hiến pháp năm 1980:Điều 113 hiến pháp 1980 đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
+Nước chia thành tỉnh ,,thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị hành chính tương đương
+Tỉnh chia thành huyện,thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã,thành phố trực thuộc chia thành quận huyện

+Huyện chia thành xã và thị trấn,thành phố trực thuộc tỉnh,thị xã chia thành phường và thị xã
+Các đơn vị hành chính trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Hiến pháp 1980 thực hiện bộ máy nhà nước theo hướng chia nhỏ các bộ ngành sao cho phù hợp với chủ
trương hoạt động chuyên sâu của các cơ quan quản lý .Ở cấp địa phương Hiến pháp năm 1980 lại tổ
chức theo hướng sát nhập các đơn vị hành chính lại để cùng củng cố với quy mô lớn hơn.
5
Như vậy bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980 có sự thay đổi gọn nhẹ hơn và đề cao trách nhiệm cá
nhân hơn trên tinh thần tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan.
2.3.Hệ thống các cơ quan đại diện
Hiến pháp 1959 :Quốc hội,hội đồng chính phủ,hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp tỉnh,huyện
,xã và các cấp tương đương.
Cũng giống như Hiến pháp 1959 các cơ quan đại diện theo Hiến pháp 1980 là Quốc hội,hội đồng nhà
nước ,hội đồng bộ trưởng,hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp.
a.Quốc hội
Cũng như quy định của Hiến pháp 1959 ,Hiến pháp 1980 xác định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất

của nhân dân,cơ quan quyền lực của Nhà nước cao nhất,cơ quan duy nhất có quyền lập hiến,lập
pháp.Quốc hội quyết định về những chính sách về đối nội và đối ngoại,những mục tiêu phát triển kinh tế
văn hóa xã hội .Quốc hội thành lập ra các cơ quan tối cao như bầu ra chủ tịch ,các phó chủ tịch Hội đồng
nhà nước ,Chủ tịch các phó chủ tịch và các thành viên của hội đồng bộ trưởng ,chánh án tòa án nhân
dân tối cao,viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao.Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của nhà nước .Như vậy về chức năng ,nhiệm vụ ,quyền hạn Quốc hội về cơ bản giữa
hai bản Hiến pháp là không thay đổi.
Nhưng về mặt cơ cấu của Quốc hội có sự thay đổi lớn.Nếu theo hiến pháp 1959 Ủy ban thường vụ Quốc
hội là cơ quan thường trực Quốc hội thì theo hiến pháp 1980 cơ quan thường trực Quốc hội là Hội đồng
nhà nước –Hội đồng nhà nước theo Hiến pháp 1980 còn là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.Theo Hiến pháp 1959 khi Quốc hội họp thì bầu ra chủ tịch đoàn thể để điều khiển
cuộc họp.Còn theo Hiến pháp 1980 thì Quốc hội bầu ra Chủ tịch và các phó chủ tịch Quốc hội.Chủ tịch
Quốc hội chủ tọa các phiên họp Quốc hội,bảo đảm việc thi hành nội quy của Quốc hội ,giữ quan hệ với
các đại biểu Quốc hội,điều hòa phối hợp hoạt động của các ủy ban Quốc hội ,chứng thực những Luật và
Nghị quyết đã được Quốc hội thông qua ,thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.
Như vậy Chủ tịch và phó chủ tịch là một thiết chế mới ,một cách tổ chức mới của Quốc hội mà trước đó
lịch sử lập hiến nước ta chưa có.
Một điểm khác biệt nữa giữa hai bản hiến pháp đó là nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội.Theo Hiến pháp
1959 nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội là 4 năm còn nhiệm kỳ của mỗi khóa theo Hiến pháp 1980 là 5
năm.
b.Hội đồng nhân dân
Về phân cấp đơn vị hành chính ,Hiến pháp 1980 quy định nước ta có 3 cấp hành chính .Đó là tỉnh ,thành
phố trực thuộc trung ương,và các cấp tương đương;huyện,quận,thành phố ,thuộc tỉnh và thị
xã;xã,phường,thị trấn.
6
Khác với Hiến pháp 1959,Hiến pháp 1980 quy định khu tự trị được bãi bỏ(do Nghị quyết kỳ họpQuốc hội
khóa V ngày 27/12/1975).Nhưng lập thêm đơn vị hành chính đặc khu-tương đương tỉnh,đơn vị phường
ở thành phố ,thị xã-tương đương với xã.Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng
nhân dân .
Về tính chất Hội đồng nhân dân ,Hiến pháp 1980 cũng giống như Hiến pháp 1959 quy định Hội đồng

nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước địa phương do nhân dân bầu ra ,chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương và chính quyền cấp trên.Nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân các cấp cũng được tăng lên từ 3
năm lên 5 năm.
Nhiệm vụ ,quyền hạn của Hội đồng nhân dân về cơ bản giống như Hiến pháp năm 1959.
2.4.Hệ thống các cơ quan chấp hành.
Hiến pháp năm 1959 Hiến pháp năm 1980
Chính phủ
Khái quát về
sự ra đời và
phát triển của
Chính phủ
nước Cộng
hòa xã hội chủ
nghĩa Việt
Nam
Sau chiến thắng Điện Biên phủ
lừng lẫy năm Châu trấn động địa
cầu,nước ta chuyển sang giai
đoạn cách mạng mới.Miền Bắc
hoàn toàn được giải phóng đi lên
xây dựng CNXH,miền Nam tiếp
tục đấu tranh giải phóng dân
tộc.Trong tình hình đó ,Nhà nước
ta đã bước đầu củng cố và xây
dựng lại bộ máy nhà nước đặc
biệt là cơ quan chấp hành.Theo
Hiến pháp 1959 ,hệ thống cơ
quan chấp hành Chính phủ được
đổi tên thành Hội đồng chính
phủ,được xác định là cơ quan

chấp hành của Quốc hội và cũng
là cơ quan hành chính Nhà nước
cao nhất của Việt Nam.
Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
năm 1975 ,nước nhà thống nhất
tình hình mọi mặt của đời sống xã
hội có nhiều biến đổi,đứng trước
yêu cầu tăng cường hiệu lực quản
lý của Bộ máy nhà nước,trong đó
đặc biệt quan tâm đến hệ thống cơ
quan hành chính Nhà nước .Theo
Hiến pháp năm 1980,Luật tổ chức
Hội đồng bộ trưởng ngày 4/7/1981
đã khẳng định :Hội đồng Bộ trưởng
là cơ quan chấp hành và hành chính
của Quốc hội-quy định này chi phối
đến việc xác định vị trí ,chức
năng ,nhiệm vụ,quyền hạn ,trật tự
tình hình và chế độ chịu trách
nhiệm của Hội đồng Bộ trưởng
trong bộ máy Nhà nước.
Vị trí,tính chất
và chức năng
nhiệm vụ
quyền hạn
-Vị trí tính chất và chức năng của
HĐCP theo Hiến pháp 1959: Theo
điều 71 Hiến pháp 1959”HĐCP là
cơ quan chấp hành của cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất

,vừa là cơ quan hành chính Nhà
nước cao nhất của nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa…”
-Chức năng HĐCP :+Thống nhất
quản lý việc thực hiện các nhiệm
vụ chính trị văn hóa ,xã hội ,quốc
phòng ,an ninh và đối ngoại của
Theo Hiến pháp 1980:”HĐBT là Chíh
phủ của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ,là cơ quan chấp
hành và là cơ quan hành chính cao
nhất của cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất ”.
HĐBT chỉ được xác định là cơ quan
hành chính cao nhất của Quốc
hội ,điều này thể hiện khác biệt so
với Hiến pháp 1959.Thành viên của
HĐBT đều do Quốc hội bầu ,bãi
nhiệm và miễn nhiệm,HĐBT không
7
Nhà nước.
+Bảo đảm hiệu lực của bộ máy
Nhà nước từ Trung ương đến cơ
sở.
+Bảo đảm việc tôn trọng và chấp
hành Hiến pháp và Pháp luật.
+Phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc,bảo đảm
sự ổn định và nâng cao đời sống

vật chất và văn hóa của nhân dân
chỉ chịu trách nhiệm về báo cáo
công tác trước Quốc hội mà trong
thời gian Quốc hội không họp chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Hội đồng Nhà nước .
Cơ cấu tổ
chức của
Chính phủ
Trong thành phần của HĐCP có
Thủ tướng ,các Phó thủ
tướng,các Bộ trưởng và tương
đương,đứng đầu và lãnh đạo
HĐCP là Thủ tướng chính phủ.Các
Ủy ban hành chính vẫn được
thành lập ở 3 cấp.
Hiến pháp 1980 quy định HĐBT
gồm có:Chủ tịch,Phó chủ tịch
HĐBT,các bộ trưởng và chủ nhiệm
Ủy ban Nhà nước .Tại kỳ họp thứ
nhất của Quốc hội khóa VII đã
thành lập 28 bộ và 8 Ủy ban nhà
nước .
Ủy ban nhân
dân
UBND theo Hiến pháp 1980 được thành lập ở 3 cấp :tỉnh ,huyện ,xã có
sự thay đổi nhất định .Khác với Hiến pháp 1959 khu tự trị được bãi bỏ
nhưng lập thêm đơn vị hành chính đặc khu tương đương tỉnh,đơn vị
phường ở thành phố,thị xã tương đương với xã.Về tính chất Hiến pháp
1980 cũng giống với Hiến pháp 1959 quy định UBND là cơ quan hành

chính của HĐND ,là cơ quan hành chính ở địa phương.Nhiệm vụ quyền
hạn của HĐND và UBND về cơ bản giữa hai bản Hiến pháp là hoàn toàn
giống nhau.
2.5.Hệ thống các cơ quan xét xử
-Giống nhau :Hệ thống cơ quan Tòa án được phân thành 3 cấp Trung ương có Tòa án nhân dân tối
cao,địa phương có Tòa án nhân dân cấp tỉnh ,huyện và tương đương và tòa án quân sự.
-Khác nhau:Giữa 2 bản Hiến pháp 1959-1980
So sánh những quy định của Hiến pháp năm 1980 với những quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ,có thể thấy rằng về cơ bản là giống nhau ,hay nói cách khác là
các quy định của Hiến pháp năm 1980 có sự kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1959,bên cạnh
đó có sự cụ thể hóa hơn,phát triển hơn hay quy định một số nguyên tắc quan trọng .
Điểm thứ nhất là ,Hiến pháp 1959 chỉ quy định “trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt “ thì
chỉ có “Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt”(điều 97).Hiến pháp 1980 ngoài quy định
này,còn quy định “Trong tình hình đặc biệt ” và quy định bổ sung “Hội đồng Nhà nước có thể quyết định
thành lập Tòa án đặc biệt”(điều 128).Bên cạnh đó Hiến pháp 1980 còn quy định một vấn đề quan trọng
8
liên quan đến hoạt động của Tòa án nhân dân:”Ở cơ sở,thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để
giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân,theo quy định của pháp
luật”(điều 128).
Điểm thứ hai là quy định một nguyên tắc trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân :”Tòa án nhân dân
xét xử tập thể và quyết định theo đa số”(điều 132).
Điểm thứ ba là ghi nhận một chế định quan trọng :”Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các
đương sự khác về mặt pháp lý”(điều 133),mà Hiến pháp năm 1959 không quy định.
Điểm thứ tư ,nếu như trong Hiến pháp 1959 giao cho Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của
các Tòa án đặc biệt ,thì Hiến pháp năm 1980 vẫn tiếp tục giao cho Tòa án nhân dân tối cao nhiệm vụ
này ,nhưng “trừ trường hợp Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước quy định khác khi thành lập cá tòa án
đó”(điều 135).
Điểm thứ năm ,Hiến pháp năm 1980 đã khẳng định :”Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã
có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước ,các tổ chức xã hội và mọi công nhân tôn trọng
,những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”(điều 137).

2.6.Hệ thống cơ quan kiểm sát
-Giống nhau: Hệ thống cơ quan tòa án được chia thành 3 cấp Trung ương ,địa phương,huyện.
Theo hiến pháp năm 1959 : ”Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm sát
việc tuân theo của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ ,cơ quan Nhà nước địa phương .các nhân viên
cơ quan Nhà nước và công dân.Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có
quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định.”(điều 105 Hiến pháp 1959)
Theo Hiến pháp năm 1980 :“Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng,các cơ quan chính
quyền địa phương,tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân ,các nhân viên Nhà nước và công nhân
,thực hành công tố ,bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.Các Viện kiểm
sát nhân dân địa phương các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật ,thực hành quyền
công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình”(điều 138 hiến pháp 1980).
-Khác nhau:Theo Hiến pháp 1959 hệ thống cơ quan kiểm sát là một hệ thống mới trong bộ máy nhà
nước.Chức năng quan trọng nhất là công tác kiểm sát ,thành lập theo nguyên tắc như hệ thống cơ quan
xét xử.Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là do Quốc hội bầu ra và bãi miễn.Phó viện trưởng và
kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao là do Ủy ban thường vụ Quốc hội cử .Còn Viện trưởng ,phó
viện trưởng và kiểm sát viên của Viện kiểm sát địa phương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao bổ nhiệm,miễn nhiệm,cách chức. Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Quốc hội,trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Ủy ban thường vụ Quốc hội.Còn theo Hiến pháp 1980 thì quy định Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
9
tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội,trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước.Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao theo hiến pháp 1959 là 5 năm còn theo Hiến pháp 1980 là theo nhiệm kỳ của Quốc
hội(5 năm).
Như vậy ta thấy hệ thống cơ quan kiểm sát theo Hiến pháp 1980 được quy định, đầy đủ và hoàn thiện
hơn so với Hiến pháp năm 1959.
2.7.Điểm khác biệt trong bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 1959-1980 về nguyên thủ Quốc gia.
Theo Hiến pháp 1959 :Nguyên thủ Quốc gia vẫn được coi là Chủ tịch nước,Chủ tịch nước và Chính phủ là
2 thiết chế khác nhau ,lúc này Chủ tịch nước không còn là người đứng đầu chính phủ nữa mà chỉ là

người thay mặt Nhà nước về đối nội đối ngoại.Tuy nhiên ,trong Hiến pháp 1959 quyền hạn của Chủ tịch
nước vẫn rất lớn như: thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc,giữ chức vụ chủ tịch Hội đồng quốc
phòng(điều 65),Chủ tịch nước khi xét thấy có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng
Chính phủ(điều 66),Chủ tịch nước xét thấy khi cần thì triệu tập và chủ tọa hội Nghị chính trị đặc
biệt(điều 67).Tại điều 62 Hiến pháp 1959 quy định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra ,có nhiệm kỳ của
Quốc hội là 4 năm.
Theo hiến pháp 1980 chế định nguyên thủ Quốc gia là cá nhân Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1959 đã
trở thành nguyên thủ Quốc gia tập thể dưới hình thức hội đồng Nhà nước.Hội đồng Nhà nước là Chủ
tịch nước tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Đây là mô hình tổ chức nguyên thủ
Quốc gia chung của các Nhà nước Xã hội chủ nghĩa,mà ở đó nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được
vận dụng đậm nét. Với cách tổ chức này thì các hoạt động của Nhà nước điều được trực tiếp thực hiện
bằng cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân-cơ quan quyền lực cao nhất.Bản thân Chính phủ (Hội đồng
bộ trưởng ) cũng được tổ chức gắn liền với Quốc hội (Hội đồng bộ trưởng là cơ quan chấp hành và hành
chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất).Đối với nước ta ,đến đây có thể coi
là hoàn thành quá trình xây dựng Bộ máy Nhà nước theo mô hình Xã hội chủ nghĩa thuần túy.Tuy nhiên
quá trình thực hiện thể chế Hội đồng Nhà nước đã bộc lộ nhiều hạn chế.Bên cạnh một số lợi ích như các
vấn đề thuộc quyền hạn nguyên thủ Quốc gia đều được phối kết hợp giữa Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước ,được thảo luận tập thể ,quyết định theo đa số thường chắc chắn và tránh được những ngẫu
nhiên:bộ máy gọn nhẹ hơn ,đơn giản các thủ tục làm việc thì cũng có những điểm khuyết như:mọi vấn
đề phải bàn bạc tập thể và quyết định theo đa số không phân định rõ hoạt động tập thể của cơ quan
thường trực của Quốc hội và chức trách cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động đại diện Nhà nước.
3.Sự kế thừa và phát triển qua các bản Hiến pháp
a.Hiến pháp 1959
Bắt đầu từ Hiến pháp 1959 ,Nhà nước ta đã chuyển sang mô hình Bắt đầu từ Hiến pháp 1959,
Nhà nước ta đã chuyển sang mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Xô viết, áp dụng mạnh mẽ nguyên
tắc tập quyền (tuy vẫn còn một vài yếu tố dân chủ nhân dân) nên thiết chế Chủ tịch nước được
xây dựng lại để phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, quá trình xây dựng, phát triển
10
của bộ máy nhà nước nước ta là một quá trình thống nhất, nhất quán nên sự đổi mới đó vẫn
dựa trên sự kế thừa những nguyên tắc và ưu điểm của các thiết chế giai đoạn trước.

Do bộ máy nhà nước lúc này đã chuyển sang mô hình cộng hoà Xô viết, Chủ tịch nước
được xác định là người đứng đầu Nhà nước và không còn đồng thời là người đứng đầu Chính
phủ nữa. Chủ tịch nước phái sinh từ Quốc hội, cùng Quốc hội thực hiện các chức năng nguyên
thủ; điều phối các cơ quan cấp cao trong bộ máy nhà nước. Chủ tịch nước thay mặt đất nước
thực hiện các chức năng thuộc về đối nội, đối ngoại. Sự phân định chức năng nguyên thủ giữa
Chủ tịch nước, Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chuyển sang lối mới. Mọi quyền hạn
quan trọng đều thuộc về Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước chủ yếu thực
hiện các công việc có tính đại diện cá nhân và tham gia nhất định vào các hoạt động của Nhà
nước như lập pháp, thành lập các cơ quan nhà nước, tặng thưởng huân chương, tuyên bố chiến
tranh v.v, nhưng đều dựa trên quyết định của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch
nước do Quốc hội bầu (chọn trong nhân dân)
[7]
với nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội (bốn
năm) và khác với ở Hiến pháp 1946, Chủ tịch nước lúc này phải chịu trách nhiệm trước Quốc
hội. Tất cả những điều trên cho thấy ở Hiến pháp 1959, vị trí của Chủ tịch nước gắn bó hơn với
Quốc hội, và điều này phù hợp với nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là
sự phát triển của chế định Chủ tịch nước phù hợp với điều kiện chế độ xã hội chủ nghĩa.
Sự kế thừa của chế định này thể hiện ở chỗ: Theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa,
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Các cơ quan khác được Quốc hội lập ra, phân giao nhiệm vụ, quyền hạn và chịu sự
giám sát, chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quốc hội lẽ đương nhiên nắm cả quyền nguyên thủ.
Song, khác với các nước dân chủ nhân dân Đông Âu khi chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa thì
cũng đồng thời xoá thiết chế nguyên thủ quốc gia cá nhân, ở nước ta thiết chế Chủ tịch nước
vẫn tiếp tục tồn tại nhưng được quy định lại cho phù hợp hơn. Chủ tịch nước vẫn còn có vai trò
khá lớn đối với Hội đồng Chính phủ. Chủ tịch nước đề nghị Thủ tướng để Quốc hội quyết định;
căn cứ vào quyết định của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội mà bổ nhiệm, bãi miễn Thủ
tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; khi thấy cần thiết có
quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Có thể thấy, Chủ tịch nước
lúc này đóng vai trò phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ, tuy vẫn còn nghiêng nhiều về phía
Chính phủ. Đây là những điểm kế thừa (lưu giữ) vị trí của Chủ tịch nước đối với Chính phủ ở

Hiến pháp trước.
b.Hiến pháp 1980
Tại Hiến pháp 1980, thiết chế Chủ tịch nước cá nhân bị xoá bỏ, thay vào đó là thiết lập chế
độ Chủ tịch nước tập thể dưới hình thức Hội đồng Nhà nước. “Hội đồng Nhà nước - cơ quan cao
nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” (Điều 98 Hiến pháp 1980). Đây là mô hình tổ chức nguyên thủ quốc gia chung
của các nhà nước xã hội chủ nghĩa mà ở đó nguyên tắc tập quyền được vận dụng triệt để. Với
11
cách tổ chức này thì các hoạt động của nhà nước đều được trực tiếp thực hiện bởi cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Trong thời gian giữa hai kỳ
họp Quốc hội thì được thực hiện bởi Hội đồng Nhà nước. Bản thân Hội đồng Bộ trưởng (tức
Chính phủ) cũng được tổ chức gắn liền với Quốc hội với tính cách là “cơ quan chấp hành và hành
chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” (Điều 104 Hiến pháp 1980).
Đối với nước ta, đến đây có thể coi là đã hoàn thành quá trình xây dựng bộ máy nhà nước theo
mô hình xã hội chủ nghĩa thuần tuý (tức theo kiểu Xô viết). Đó là sự phát triển lôgích.
Về kế thừa thì đến đây những điểm kế thừa mô hình tổ chức chế định Chủ tịch nước theo
Hiến pháp 1946 còn lưu giữ ít nhiều, trong khi Hiến pháp 1959 đã hầu như bị bãi bỏ. Tuy vậy, quá
trình thực hiện thể chế Hội đồng Nhà nước đã nhanh chóng bộc lộ nhiều hạn chế. Bên cạnh một
số tiện lợi như các vấn đề thuộc quyền hạn của Nguyên thủ quốc gia đều được phối kết hợp giữa
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số thường chắc
chắn và tránh được những ngẫu nhiên; bộ máy bớt được một số khâu và đơn giản các thủ tục làm
việc, thì cũng có không ít các khiếm khuyết như: mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể và quyết định
theo đa số nên chậm chạp; không phân định hoạt động tập thể của cơ quan thường trực của
Quốc hội và chức trách cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động đại diện nhà nước. Tình hình
đó đặt ra yêu cầu phải tổ chức lại chế định này và đã được sửa đổi tại Hiến pháp 1992.


Kết luận
Sự thay đổi về tổ chức bộ máy Nhà nước theo hai bản Hiến pháp 1959-1980 là một tất yếu lịch sử,là yêu
cầu đòi hỏi khách quan của hiện thực xã hội khi đất nước đang chuyển mình khi xây dựng nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa .Mặc dù ở mỗi Hiến pháp tổ chức Bộ máy Nhà nước có những ưu
điểm và hạn chế nhất định,song nó đã đánh dấu sự phat triển của tổ chức bộ máy Nhà nước.Vấn đề
hoàn thiện bộ máy Nhà nước là một vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong mỗi bản Hiến pháp của bất
kỳ quốc gia nào ,vì vậy tổ chức bộ máy Nhà nước qua hai bản Hiến pháp chúng ta đang đề cập đã để lại
những gía trị lý luận nhất định và những hạn nhân hợp lý và tiến bộ của nó sẽ được nghiên cứu và phát
triển để hoàn thiện bộ máy Nhà nước Xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian tới.

×