Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phương pháp soạn Giáo án điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245 KB, 23 trang )

Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Việc tổ chức dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của
học sinh trên thực tế đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức và trí tuệ của giáo
viên. Do đó, việc nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp hỗ trợ cho hoạt
động Dạy và hoạt động Học, trong đó có việc sử dụng các phương tiện dạy
học hiện đại là một yêu cầu, một giải pháp cần thiết cho tinh thần đổi mới và
thực hiện hoá sự đổi mới ấy trong công tác triển khai dạy học các môn học
nói chung theo chương trình sách giáo khoa mới hiện nay. Muốn vậy, cần
phải tạo được đầy đủ các công cụ để hỗ trợ một cách tối đa các hoạt động
dạy học, phải giải phóng được giáo viên thoát khỏi những hoạt động chân
tay thông thường, đặt học sinh vào môi trường học tập thuận lợi, và giáo
viên có đủ điều kiện và khả năng giám sát chất lượng cũng như kết quả hoạt
động nhận thức của học sinh. Trong bối cảnh đó, việc sử dụng máy vi tính
với hệ thống Multimedia cùng các phần mềm phù hợp đã tỏ ra nhiều triển
vọng.
Trong những năm gần đây, máy vi tính đã được sử dụng rộng rãi trong
nhà trường phổ thông với tư cách là một phương tiện dạy học cùng nhiều
loại phần mềm được thiết kế theo các quan điểm khác nhau. Đó là các quan
điểm cổ điển, vi thế giới, hệ tác giả, hệ chuyên gia. Vì vậy, hình thức sử
dụng máy vi tính vào dạy học cũng rất đa dạng và phong phú. Trong đó, bài
giảng điện tử là một hình thức được sử dụng phổ biến nhất. Bài giảng điện
tử có thể được viết bằng các ngôn ngữ lập trình tùy theo trình độ tin học của
người viết, hoặc được thiết kế trên các phần mềm trình diễn như Frontpage,
Publisher, Flash, PowerPoint,…Thực tế cho thấy, việc thiết kế bài giảng
điện tử dựa trên phần mềm trình diễn Microsoft PowerPoint là quen thuộc,
gần gũi, đơn giản, tiện lợi, phổ biến và thao tác đơn giản, dễ sử dụng hơn cả.
I. BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ LÀ GÌ?
Bài giảng điện tử là một hình thức tổ chức bài học trên lớp mà ở đó toàn
bộ kế hoạch hoạt động dạy - học (của thầy và trò) được chương trình hoá
(nhờ một phần mềm) do giáo viên điều khiển thông qua môi trường


Multimedia do hệ thống máy tính tạo ra.
- Trang 1 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
Trong những năm gần đây, công nghệ máy tính đã có sự phát triển vượt
bậc. Từ tốc độ xử lý đến dung lượng lưu trữ được cải thiện và đạt ở mức
chóng mặt. Cùng với sự phát triển đó là sự ra đời và phát triển của hệ thống
đa phương tiện, sự kết hợp của máy vi tính với Multimedia đã tăng cường
khả năng ứng dụng của máy tính điện tử trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong
hoạt động dạy học.
Multimedia được hiểu là đa phương tiện, đa môi trường, đa truyền
thông, một phương pháp giới thiệu thông tin bằng máy tính, sử dụng nhiều
dạng truyền thông tin. Trong môi trường Multimedia, thông tin được biểu
diễn dưới nhiều dạng khác nhau: văn bản (text), đồ hoạ (graphics), hoạt
ảnh (animation), ảnh chụp (image), âm thanh (audio), phim video (video
clip), bảng biểu (table) hay biểu đồ (chart)…
Đặc trưng cơ bản nhất của bài giảng điện tử là toàn bột kiến thức của bài
học được số hoá (để lưu vào bộ nhớ của máy tính) dưới nhiều dạng dữ liệu
khác nhau, đồng thời kịch bản của quá trình dạy học (trình tự logic và
phương pháp truyền thụ nội dung kiến thức) cũng được cài đặt vào quá trình
trình diễn bài giảng (trong môi trường Multimedia) thông qua một phần
mềm. Nhờ đó kiến thức của bài học được chuyển tải đến học sinh nhiều
kênh và các cách thức khác nhau.
Như vậy, cùng với máy tính, bài giảng điện tử thực sự là một công cụ hỗ
trợ đắc lực trên nhiều phương tiện cho hoạt động dạy của giáo viên và hoạt
động học của học sinh.
Mọi chương trình trình cài đặt trên máy tính nhằm cho phép người sử
dụng khai thác những khả năng tiềm tàng của máy tính để giải quyết những
nhiệm vụ trong nhiều lĩnh vực khác nhau đều được gọi là phần mềm. Theo
quan điểm này, bài giảng điện tử cũng được xem là một phần mềm hỗ trợ
dạy học. Nhưng ngược lại, một phần mềm có được xem là một bài giảng

điện tử hay không, chúng ta cần đánh giá những chức năng hỗ trợ dạy học
của nó. Thực tế hiện nay không ít người chưa hiểu rỏ khái niệm và chức
năng của bài giảng điện tử, nên việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy
học vẫn mang tính hình thức, thiếu sáng tạo.
- Trang 2 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
Ngoài ra, do sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin, mà hiện nay
trong giáo dục đã xuất hiện nhiều khái niệm mới, vậy nên cần phải phân biệt
các khái niệm ấy như: sách giáo khoa điện tử, giáo trình điện tử, giáo án điện
tử, bài giảng điện tử,…
Sách giáo khoa hay giáo án điện tử là tài liệu giáo khoa, mà trong đó
kiến thức được lưu trữ và trình bày dưới nhiều dạng dữ liệu khác nhau như
văn bản, đồ hoạ, hình ảnh, âm thanh,…Điều khác căn bản giữa tài liệu điện
tử và tài liệu thông thường là ở chỗ kiến thức được trình bày cùng một lúc
theo nhiều cách khác nhau: trọng tâm, đơn giản, chi tiết,…thuận tiện cho
người học tra cứu và tìm kiếm thông tin một cách nhanh nhất. Tài liệu điện
tử cho phép tìm kiếm và thực hiện nhiều cách tiếp cận thông tin của tài liệu
một cách thuận lợi, nhanh chóng, đồng thời có thể dễ dàng liên kết đến các
tài liệu khác.
Như vậy các tài liệu điện tử nói chung thực chất là sự số hoá của các tài
liệu thông thông thường, song khả năng tìm kiếm, truy xuất và trình diễn
thông tin của tài liệu được tăng cường, đồng thời có thể dễ dàng thực hiện
việc liên kết giữa chúng với nhau nhờ khả năng của máy tính với
Multimedia.
Ngày nay, sách giáo khoa điện tử còn cho phép kết nối và cập nhật thêm
thông tin mới từ các trang web mà địa chỉ đã có sẳn trong sách giáo khoa
điện tử.
Giáo án điện tử là bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế hoạch dạy học của giáo
viên trên giờ lên lớp, toàn bộ hoạt động dạy học đó đã được Multimedia hoá
một cách chi tiết, có cấu trúc chặt chẽ và logic được quy định bởi cấu trúc

của bài học. Giáo án điện tử là một sản phẩm của hoạt động thiết kế bài dạy
được thể hiện bằng vật chất trước khi bài dạy được tiến hành. Giáo án điện
tử chính là bản thiết kế của bài giảng điện tử, chính vì vậy xây dựng giáo án
điện tử hay thiết kế bài giảng điện tử là hai cách gọi khác nhau cho một hoạt
động cụ thể có được bài giảng điện tử.
Các tài liệu điện tử này có thể được lưu trên đĩa cứng của máy tính, trên
đĩa CD, USB hay trên các thiết bị nhớ khác và hình thành nên các thư viện
điện tử - một tài sản trí tuệ chung của tất cả mọi người. Người dùng có thể
- Trang 3 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
truy cập đến nó từ bất cứ đâu và bất cứ thời điểm nào, cũng nhờ đó đã góp
phần tích cực trong việc giảm chi phí đầu tư (mua sắm tài liệu) cho việc học
tập của học sinh.
Việc số hoá và cho phép sử dụng không hạn chế các tài liệu điện tử trên
mạng Internet cũng là cách tốt nhất để hội đồng biên soạn sách giáo khoa thu
thập được nhiều ý kiến đóng góp xây dựng, phê bình chuẩn hoá hệ thống tài
liệu số hoá trong sự phát triển của các thư viện điện tử, một xu thế tất yếu
trong xã hội ngày nay và trong tương lai.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN KHI THIẾT KẾ BÀI GIẢNG
ĐIỆN TỬ
1. Đảm bảo tính khoa học Sư phạm và khoa học Tin học
Về bản chất thì bài giảng điện tử là một phần mềm được cài đặt trên máy
tính để hỗ trợ cho hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh. Vì vậy
nó cần đảm bảo những yêu cầu của một phần mềm hỗ trợ dạy học, nghĩa là
phải hàm chứa trong đó tri thức ở mức chuyên gia của hai lĩnh vực Sư phạm
và Tin học. Đáp ứng được yêu cầu này cũng đồng thời đã đề cao được chất
lượng (tính chuẩn tắc) của một phần mềm nói chung được gọi là “phần mềm
dạy học” và tính hiệu quả của việc sử dụng nó. Các phần mềm dạy học hiện
nay chủ yếu là sản phẩm của các chuyên gia tin học (thể hiện tốt các kỹ thuật
lập trình, nhưng lại thiếu tri thức ở mức chuyên gia về dạy học). Ngược lại,

cũng có một số “phần mềm dạy học” là sản phẩm của các chuyên gia về dạy
học (đáp ứng tốt các yêu cầu, nguyên tắc và kịch bản của quá trình dạy học,
nhưng lại yếu về kỹ thuật lập trình). Để có một phần mềm thực sự là “phần
mềm dạy học” thì nó phải là một sản phẩm được kết tinh trong đó tri thức ở
mức chuyên gia của hai lĩnh vực Dạy học và Tin học.
2. Đảm bảo tính hiệu quả
Xây dựng bài giảng điện tử trong hoàn cảnh cụ thể của nền giáo dục nước
ta, trước tiên cần phải lấy tính hiệu quả làm tiêu chì hàng đầu. Vì rằng các
hoạt động dạy học rất phong phú và đa dạng gồm cả những hoạt động chân
tay và hoạt động trí óc. Bài giảng điện tử với tư cách là một phần mềm, cùng
với máy tính hỗ trợ nhiều mặt của quá trình dạy học. Giải phóng người dạy
- Trang 4 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
những hoạt động phổ thông để có thời gian đầu tư cho việc tổ chức, điều
khiển, giám sát điều chỉnh hoạt động nhận thức của người học. Đồng thời
phải tạo ra được những điều kiện tốt đẹp để hoạt động nhận thức của học
sinh được diễn tả một cách tích cực, độc lập, chủ động và sáng tạo. Nói cách
khác, thiết kế bài giảng điện tử cần coi trọng phát huy cao nhất những thế
mạnh của máy tính để tạo ra mội trường học tập, trong đó tính tích cực, độc
lập, chủ động, sáng tạo của học sinh được phát huy cao độ. Đây cũng chính
là thực hiện nhiệm vụ nâng cao hiệu quả sử dụng của một thiết bị dạy học
hiện đại trong điều kiện và hoàn cảnh của nền giáo dục nước ta hiện nay.
3. Đảm bảo tính mở rộng và phổ dụng
Trong một bài giảng điện tử thường có sự liên kết của nhiều slide, mỗi
một slide sẽ đảm nhận hỗ trợ giảng dạy một yếu tố nội dung kiến thức nào
đó. Xây dựng cấu trúc của bài giảng theo hệ thống các slide cũng chính là
thực hiện việc phân nhóm các đơn vị kiến thức mà bài giảng có thể hỗ trợ.
Về phương diện kỹ thuật lập trình, đây chính là việc môđun hoá chương
trình để dễ dàng cho việc thiết kế, cài đặt, bảo dưỡng, bảo trì và nâng cấp
sau này. Số lượng các slide cần sử dụng trong bài giảng sẽ tương ứng với

các yếu tố kiến thức cấu thành bài giảng, sự liên kết giữa các slide thể hiện
mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố kiến thức của bài học và do đó việc
thay đổi nội dung trên mỗi slide, số lượng slide, cùng mối liên kết giữa
chúng cũng chính là thay đổi cấu trúc logic nội dung của bài học. Đảm bảo
yêu cầu về cấu trúc của bài giảng như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
chỉnh sữa, nâng cấp và hoàn thiện bài giảng sau này.
Các bài giảng phải được viết dưới dạng một phần mềm công cụ để cho
mọi người (không riêng gì người thiết kế) có thể sử dụng một cách thuận lợi.
Một trong những khả năng ưu việt của máy tính là cho phép thiết lập (không
giới hạn) các mối liên kết giữa các yếu tố kiến thức của bài giảng nói riêng,
của toàn bộ tài liệu môn học nói chung. Khả năng này, một mặt nếu được sử
dụng hợp lý và tuân thủ các quy tắc chặt chẽ, thống nhất sẽ giúp cho việc
thiết kế bài giảng đảm bảo tính phổ dụng (nhiều người có thể dùng được), có
tác dụng định hướng người dùng theo kịch bản đã định sẳn. Mặt khác, nếu
không được quan tâm đúng mức sẽ tạo nên những khó khăn cho người sử
- Trang 5 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
dụng (khó thao tác, kịch bản trình diễn không đơn nhất, không theo đúng ý
đồ của người thiết kế).
4. Đảm bảo tính tối ưu của cấu trúc cơ sở dữ liệu
Khi thiết kế một phần mềm nói chung, bài giảng điện tử nói riêng thì việc
xây dựng cơ sở dữ liệu là một vấn đề rất quan trọng. Dữ liệu ấy phải được
cập nhật dễ dàng và thuận lợi, yêu cầu kích thước lưu trữ phải tối thiểu, truy
cập nhanh chóng khi cần (nhất là đối với các dữ liệu multimedia), dễ dàng
chia sẻ, dùng chung hay trao đổi giữa nhiều người dùng. Đặc biệt với giáo
dục, cấu trúc cơ sở dữ liệu phải hướng tới việc hình thành các thư viện điện
tử trong tương lai, như thư viện các bài tập, đề thi; thư viện các tranh ảnh,
các phim học tập; thư viện các tài liệu giáo khoa, tài liệu giáo viên,…
Cùng với việc xây dựng bài giảng, cần xây dựng các thư viện tư liệu môn
học để mọi người đều có thể sử dụng thuận lợi và nhanh chóng, đồng thời

phải tạo điều kiện để mọi người có thể tham gia vào việc làm giàu, làm
phong phú các thư viện ấy. Xây dựng các thư viện tư liệu cho môn học là
vấn đề quan trọng đầu tiên cần phải làm, nó quyết định đến chất lượng của
việc thiết kế, xây dựng bài giảng điện tử.
5. Đảm bảo nguyên tắc sư phạm của quá trình dạy học khi trình
diễn thông tin
Sự hấp dẫn giáo viên khi sử dụng bài giảng điện tử trong giảng dạy là khả
năng trình diễn các thông tin Multimedia. Do đó, việc trình bày nội dung bài
giảng rất sinh động và hấp dẫn, nói chung chúng là những trang thông tin
Multimedia. Tuy nhiên, việc trình diễn thông tin trên bài giảng nếu không
tuân thủ những nguyên tắc sư phạm thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu của
quá trình dạy học, thậm chí còn phản tác dụng. Trình tự xuất hiện của các
thông tin khi sử dụng hiệu ứng, các hình ảnh động, phim ảnh, màu sắc,…đều
phải được cân nhắc kĩ lưỡng khi sử dụng và phải tuân theo nguyên tắc,
những ý đồ sư phạm của quá trình dạy học, điều đó cũng được quy định bởi
dạy học là một nghệ thuật.
Như vậy, việc xây dựng bài giảng điện tử luôn yêu cầu và đi kèm với nó
là việc xây dựng cấu trúc và kịch bản cho quá trình trình diễn thông tin. Nếu
- Trang 6 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
chỉ sử dụng cách trình diễn có cấu trúc tuần tự thì ta đã vô tình hạ thấp vai
trò của máy tính điện tử. Khả năng lưu trữ, tìm kiếm, truy xuất, liên kết gần
như vô hạn giữa các yếu tố thông tin là một đặc trưng riêng, có hệ thống của
máy vi tính. Nhờ đó mà có thể thực hiện được những cấu trúc và kịch bản
trình diễn ở nhiều mức độ phức tạp và cấp độ sâu khác nhau. Thực hiện
nguyên tắc này cũng chính là đảm bảo tính chặt chẽ, khúc chiết, trong sáng,
phong phú, đa dạng và logic của nội dung thông tin được trình diễn. Sử dụng
tốt khả năng trình diễn thông tin Miltimedia sẻ đảm bảo cho quá trình nhận
thức của học sinh theo quy luật “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng”.

6. Đảm bảo tính thân thiện, vệ sinh trong sử dụng
Xu hướng xây dựng các phần mềm nói chung hiện nay là phải có giao
diện hết sức thân thiện (theo nghĩa dễ tìm hiểu, dễ tiếp cận, dễ thao tác, dễ
sử dụng, tận dụng được các thói quen…), nhất là khi lớp người dùng không
có điều kiện tiếp cận công nghệ còn nhiều và đang ở trong các vị trí công tác
khác nhau của nhiều lĩnh vực hoạt động văn hoá, xã hội thì điều đó lại càng
được quan tâm hơn, và nó cũng phú hợp với mong muốn của con người là
điều kiện lao động ngày càng phải được cải thiện. Việc thiết kế và xây dựng
bài giảng cũng không nằm ngoài yêu cầu đó. Sử dụng các phím chức năng,
giao tiếp giữa người dùng và máy qua nhiều menu, hộp thoại trình bày
thông tin ngược với những tư duy thông thường, sử dụng màu sắc, độ tương
phản không phù hợp với tâm lý thị giác sẽ là những cản trở lớn đối với
những người sử dụng. Mọi sự lạm dụng (quá đáng, không có chủ định,
không có mục đích rõ ràng, đặc biệt là trong dạy học) những chức năng
phong phú, đa dạng của máy tính điện tử nhiều khi sẽ không đưa đến những
kết quả mong muốn, thậm chí còn phản tác dụng.
Ví dụ: Trong dạy học cần phải lựa chọn và sử dụng các phong chữ chân
phương, kích thước phù hợp. Mỗi màu sắc được dùng với những dụng ý
riêng. Các hình động, tranh ảnh, phim và các hiệu ứng… khi sử dụng máy vi
tính trong dạy học không tuân thủ nguyên tắc này sẽ dẫn đến việc làm giảm
hiệu quả dạy học và mất vệ sinh môi trường học đường.
7. Đảm bảo tính phổ cập nhật với các công cụ thiết kế
- Trang 7 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
Việc lựa chọn các công cụ thiết kế bài giảng vốn là công việc của người
lập trình. Song hiện nay, do sự phát triển bùng nỗ của tin học mà trên thị
trường xuất hiện nhiều loại chương trình ứng dụng và cũng theo nó là nhiều
ngôn ngữ lập trình khác nhau. Có một sự hiểu biết nhất định ở mức khái quát
về chúng sẽ giúp cho nhà giáo dục biết khả năng của công nghệ, có thể giúp
hỗ trợ được gì cho hoạt động dạy và hoạt động học. Nhờ đó mà có thể đưa ra

được nhiều yêu cầu hơn, các yêu cầu sẽ thiết thực hơn, có tính khả thi hơn.
Vì vậy, sự phối hợp chặt chẽ giữa một bên là nhà sư phạm, một bên là nhà
tin học sẽ là điều kiện cần thiết cho sự ra đời của những sản phẩm có giá trị
cao. Cần lưu ý tới một sự bất cập thường xảy ra đối với các nước chậm phát
triển và đang phát triển, đó là nhiều khi ta chỉ được tiếp xúc với các phần
mềm, phần cứng đã quá củ kỹ và lạc hậu (thường là những sản phẩm miễn
phí). Mặc dù trên mạng Internet vẫn cho chúng ta tiếp cận nhanh với các
phần mềm thương mại, nhưng các phương thức thanh toán trên mạng vẫn
còn quá xa lạ.
8. Đảm bảo tính khả dụng
Có thể nói rằng việc thiết kế, xây dựng một chương trình (chuẩn tắc), dù
lớn hay nhỏ đều là một công trình nghiên cứu khoa học (ứng dụng), vì nó
thực sự đã giải quyết những vấn đề đặt ra của bài toán thực tiễn. Công trình
ấy tất yếu cần phải được thực tiễn đánh giá. Vì nó là sự kết tinh tri thức ở
mức chuyên gia của hai lĩnh vực, nên thực tiễn đánh giá nó cũng phải trên
hai phương diện: Kỹ thuật tin học (tính đúng đắn, tính tối ưu, tính khả thi…)
và lĩnh vực ứng dụng (có đáp ứng được mọi yêu cầu mà bài toán của một
lĩnh vực từ thực tiễn đặt ra hay không). Đồng thời trong bất kỳ lĩnh vực nào,
việc sử dụng máy tính luôn đòi hỏi tính hiệu quả và nó cũng cần kiểm chứng
qua thực tiễn.
9. Đảm bảo tính cập nhật nội dung kiến thức của bài giảng
Đặc điểm của thời đại ngày nay là khoa học và kỹ thuật phát triển rất
mạnh mẽ, kho tàng tri thức của nhân loại ngày càng tăng lên một cách đáng
kể. Vì vậy phải triệt để tận dụng khả năng lưu trữ, cập nhật thông tin của
máy tính. Việc cập nhật để chỉnh sữa, nâng cấp và ngày càng hoàn thiện hệ
thống các bài giảng là việc làm có ý nghĩa trong việc hình thành các thư viện
- Trang 8 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
tư liệu điện tử, những tiêu chí chuẩn mực của một nền giáo dục điện tử trong
tương lai.

10. Đảm bảo một số nguyên tắc về hình thức
(Ý kiến của thầy Nguyễn Thanh Bình - GV Trường THPT chuyên Lê Hồng
Phong - TP.HCM)
Thật ra, ta phải giải quyết khó khăn của học sinh ngay từ người thầy và
giải quyết ở ba khâu: soạn giáo án đện tử, trình chiếu giáo án và hướng dẫn
học sinh ghi chép.
Mỗi lớp học có trung bình từ 40-50 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy
giáo án điện tử thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn
chế ánh sáng trời để ảnh trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở
các dãy cuối lớp hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình
ảnh, chữ viết hay công thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi
chép được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án trên
PowerPoint cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức sau:
+ Về màu sắc của nền hình:
Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng chữ màu
sậm (đen, xanh đậm, đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại,
khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
+ Về font chữ:
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Arial, Tahoma, VNI-Helve…)
hạn chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình
chiếu.
+ Về size chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay
có khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, trong kỹ thuật video, khi chiếu
trên màn hình TV (25 inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu
Projector chiếu lên màn cho khoảng 50 người xem thì size chữ thích hợp
phải từ cỡ 20 trở lên mới đọc rõ được.
- Trang 9 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
+ Về trình bày nội dung trên nền hình:

Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên
xuống, từ trái qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên
dưới theo tỷ lệ thích hợp (thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc
nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Ngoài ra, những tranh, ảnh hay
đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì cũng không
nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như ta mong
muốn.
+ Trình chiếu giáo án điện tử:
Khi giáo viên trình chiếu PowerPoint, để học sinh có thể ghi chép kịp thì
nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân
dòng hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương
ứng. Trường hợp có nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng
lúc, ta trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội
dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ chép hơn.
+ Hướng dẫn học sinh ghi chép:
Trong tiết học, học sinh phải có sẵn trước mặt sách giáo khoa quy định
của Bộ GD&ĐT và dùng vở để ghi chép. Khi trình chiếu Power Point và
giảng bài, giáo viên hướng dẫn học sinh cách ghi bài học vào vở như sau:
+ Những kiến thức căn bản, thuộc nội dung giáo khoa quy định sẽ nằm
trong các slide có ký hiệu riêng. (Ví dụ ký hiệu hình ảnh cây viết, đặt ở góc
trên bên trái). Học sinh phải chép đầy đủ nội dung trong các slide này. Tập
hợp nội dung các slide có ký hiệu riêng tạo nên kiến thức yêu cầu tối thiểu
của tiết học.
+ Những nội dung có tính thuyết minh, minh họa, mở rộng kiến thức sẽ nằm
trong các slide khác, không có ký hiệu riêng. Với những slide này, học sinh
tự chọn học nội dung để chép tùy theo sự hiểu bài của mình.
+ Với những kiến thức căn bản nhưng khá dài, nếu chép hết sẽ ảnh hưởng
đến tiến độ của tiết học, sau khi giảng xong giáo viên hướng dẫn học sinh
- Trang 10 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế

đánh dấu trong sách giáo khoa để về nhà chép (học sinh sẽ chừa khoảng
trống thích hợp).
Nguyên tắc giáo dục chủ động là lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên
trong quá trình giảng dạy là phải đảm bảo được việc học sinh nắm được kiến
thức trọng tâm, nhưng giáo viên không phải là người bao tiêu mọi kiến thức
cung cấp cho học sinh. Chính bản thân học sinh, trong khi tham gia tích cực
vào tiết học, sau khi tìm hiểu lại sách giáo khoa và tìm tòi ở các phương tiện
multimedia, sẽ chọn lọc đúc kết những kiến thức của tiết học và ghi chép,
lưu trữ cho riêng mình.
III. CÁC CHỨC NĂNG HỖ TRỢ HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
CỦA BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ
Đối với hoạt động dạy học của giáo viên, bài giảng điện tử là một
phương tiện đã hỗ trợ rất hiệu quả trên nhiều mặt hoạt động dạy học của
giáo viên. Sử dụng bài giảng điện tử giáo viên đã được giải phóng hầu hết
những công việc chân tay bình thường. Từ việc ghi chép nội dung bài học
lên bảng, trình bày các tranh ảnh, biểu đồ, hướng dẫn các thao tác thực hành;
theo dõi và điều tiết tiến trình thực hiện bài giảng, đến việc ghi nhớ những
nội dung cần phải thuyết trình và giảng giải, những công thức, những số
liệu,… thậm chí cả việc trình bày bài giảng bằng lời đã được máy tính hỗ
trợ. Tập trung tất cả các khả năng ấy làm cho máy tính trở thành một “người
trợ giảng đắc lực, có hiệu quả”. Điều đáng nói ở đây, người trợ giảng này là
chính hình ảnh của người giáo viên đang tiến hành tiết dạy, vì rằng nội dung,
tính chất và cách thức hoạt động của người trợ giảng đều do chính giáo viên
đứng lớp quyết định. Sự thống nhất, đồng cảm, phối hợp nhịp nhàng trong
hoạt động của người trợ giảng (ảo) với giáo viên (thực) đã không thể có
được trong cách thức dạy học truyền thống.
Một chức năng có tính nỗi bật và đặc thù riêng của bài giảng điện tử đó là
chức năng trình diễn thông tin Multimedia, có tương tác và gây được ấn
tượng mạnh. Chính nhờ chức năng này mà chúng ta đã phát huy được sức
mạnh của máy tính điện tử và nâng cao một cách đáng kể hiệu quả của việc

sử dụng nó. Hầu hết các tài liệu liên quan đến môn học có thể được số hoá
và đưa vào bài giảng điện tử. Nhờ đó đã tạo nên được những thư viện như:
- Trang 11 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
Thư viện các tranh ảnh, thư viện các video clip về thí nghiệm, hướng dẫn
thực hành, thư viện các bài tập, đề thi kiểm tra. Nói chung, tập hợp các thư
viện như vậy là sự liên thông giữa chúng cùng với hệ thống các bài giảng
điện tử là đủ để phục vụ tốt cho hoạt động dạy của giáo viên.
Đối với hoạt động học của học sinh: Có thể nói rằng những gì mà bài
giảng điện tử đã hỗ trợ được cho hoạt động dạy của giáo viên thì cũng có
nghĩa là nó cũng hỗ trợ được cho hoạt động học của học sinh. Điều này thật
dễ hiểu vì các phương tiện dạy học giúp cho giáo viên nâng cao hiệu quả của
quá trình truyền thụ thì chính nó cũng tác động làm dễ dàng cho quá trình
nhận thức của học sinh. Bài giảng điện tử đã giải phóng được giáo viên thoát
khỏi những công việc chân tay bình thường để tập trung chỉ đạo hoạt động
nhận thức của học sinh, điều này cũng có nghĩa là bài giảng điện tử đã có
tác dụng tăng cường được hoạt động nhận thức độc lập, chủ động sáng tạo
cùng với việc nâng cao một cách đáng kể chất lượng của hoạt động đó (vì
giáo viên đã có nhiều thời gian hơn để tổ chức, điều khiển, giám sát, đánh
giá và điều chỉnh hoạt động học tập của từng cá thể học sinh). Cũng cách
hiểu như vậy, bài giảng điện tử đã có tác dụng tích cực hoá được hoạt động
nhận thức của học sinh (kích thích được hứng thú, tạo được động cơ họa tập,
nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc học, tăng cường độ bền của trí nhớ,
sự sâu sắc của tư duy…) hỗ trợ tốt việc tự học, tự đánh giá, ôn tập củng cố,
hệ thống hoá kiến thức (nhờ hệ thống bài tập luyện tập, kiểm tra, sự liên kết
giữa các thư viện, giữa các tài liệu điện tử…).
IV. QUY TRÌNH THIẾT KẾ MỘT BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ
Giáo án điện tử có thể xây dựng theo quy trình gồm 6 bước cơ bản sau:
- Xác định mục tiêu của bài học.
- Xây dựng cấu trúc logic nội dung và tiến trình tổ chức dạy học.

- Multimedia hoá từng đơn vị kiến thức.
- Xây dựng thư viện tư liệu điện tử.
- Lựa chọn ngôn ngữ hoặc các phần mềm trình diễn để xây dựng tiến
trình dạy học thông qua hoạt động cụ thể.
- Trang 12 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
- Chạy thử chương trình, chỉnh sữa và hoàn thiện.
1. Xác định mục tiêu bài học
Đọc kĩ sách giáo khoa kết hợp với các tài liệu tham khảo để tìm hiểu nội
dung của mỗi mục. Trên cơ sở đó xác định đích cần đạt tới của toàn bài học
về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Đó chính là mục tiêu của bài học. Trong dạy
học hướng tập trung vào học sinh, mục tiêu phải chỉ rõ học xong bài học,
học sinh đạt được kiến thức gì. Mục tiêu ở đây là mục tiêu học tập chứ
không phải là mục tiêu giảng dạy, tức là chia ra sản phẩm mà học sinh có
được sau bài học.
2. Xây dựng cấu trúc logic nội dung và tiến trình dạy học
Những nội dung đưa vào chương trình và sách giáo khoa phổ thông được
chọn lọc từ khối lượng tri thức đồ sộ của khoa học bộ môn, được sắp xếp
một cách logic, khoa học, đảm bảo tính sư phạm và tính thực tiễn cao. Vì
vậy cần bám sát vào chương trình dạy học và sách giáo khoa bộ môn. Đây là
sự bắt buộc tất yếu vì sách giáo khoa là tài liệu giảng dạy và học tập chủ
yếu, chương trình là pháp lệnh cần phải tuân theo. Căn cứ vào đó để xác
định cấu trúc logic nội dung của sách giáo khoa. Mặt khác, các kiến thức
trong sách giáo khoa đã được quy định để dạy cho học sinh. Do đó, kiến
thức ở trong đó chứ không phải là ở tài liệu nào khác. Tuy nhiên, để có thể
truyền thụ tốt các kiến thức cơ bản của mỗi bài học thì cần phải đọc thêm
nhiều tài liệu, sách báo tham khảo để mở rộng hiểu biết về vấn đề cần giảng
dạy.
Việc xác định kiến thức cơ bản của bài dạy có thể gắn với việc sắp xếp
lại cấu trúc của bài để làm nỗi bật các mối quan hệ giữa các hợp phần kiến

thức của bài, từ đó làm rõ thêm trọng tâm, trọng điểm của bài. Việc làm này
thực sự cần thiết, tuy nhiên không phải ở bài nào cũng có thể tiến hành được
dễ dàng. Cũng cần chú ý việc cấu trúc lại nội dung bài phải tuân theo nguyên
tắc không làm thay đổi tinh thần chung của bài mà các tác giả sách giáo
khoa đã dày công nghiên cứu, xây dựng, đồng thời nên tranh thủ tham khảo
ý kiến của các đồng nghiệp, của tổ chuyên môn.
3. Multimedia hoá kiến thức
- Trang 13 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
Đây là bước quan trọng cho việc thiết kế bài giảng điện tử, là nét đặc
trưng cơ bản của bài giảng điện tử để phân biệt với các loại bài giảng truyền
thống, hoặc các loại bài giảng có sự hỗ trợ một phần của máy tính. Việc
Multimedia hoá kiếnthức được thực hiện qua các bước:
- Dữ liệu hoá thông tin kiến thức.
- Phân loại kiến thức được khai thác dưới dạng văn bản, bản đồ, hình ảnh,…
- Tiến hành sưu tập hoặc xây dựng nguồn mới dữ liệu sẽ sử dụng trong bài
học. Nguồn tư liệu này thường được lấy từ một phần mềm dạy học nào đó
hoặc từ trên mạng Internet hoặc được xây dựng mới bằng đồ hoạ, bằng ảnh
quét, ảnh chụp, quay video bằng các phần mềm đồ hoạ chuyên dụng như
Macromedia Flash, Camtasia, Photoshop, Snagit,…Có thể nói việc xây dựng
thư viện các tư liệu có tính quyết định đến chất lượng của bài giảng sẽ thiết
kế.
- Chọn lựa các phần mềm dạy học có sẵn cần dùng đến trong bài học để đặt
liên kết. Các phần mềm này như là một đối tượng độc lập được liên kết với
các bài giảng, nhằm hỗ trợ một khâu nào đó của quá trình dạy học.
- Xử lý các tư liệu thu được để nâng cao chất lượng về hình ảnh, âm thanh.
Khi sử dụng các đoạn phim, hình ảnh, âm thanh cần phải đảm bảo các yêu
cầu về mặt nội dung, thẩm mỹ và ý đồ sư phạm. Việc xử lý các tư liệu là
một công việc khá phức tạp, yêu cầu đến nhiều khả năng của người thiết kế.
4. Tổ chức lưu trữ các thư viện tư liệu

Sau khi có được đầy đủ các tư liệu cần dùng cho bài giảng điện tử, phải
tiến hành sắp xếp, tổ chức lại thành thư viện tư liệu, tức là tạo được cây thư
mục hợp lý. Cây thư mục hợp lí sẽ tạo điều kiện tìm kiếm thông tin nhanh
chóng và giữ được các liên kết trong bài giảng đến các tập tin âm thanh,
video clip khi sao chép bài giảng từ ổ đĩa này sang ổ đĩa khác, từ máy này
sang máy khác…Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy cây thư mục có cấu trúc
sau đây là hợp lí cho một bài giảng điện tử:
- Trang 14 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
- My Documents
-  BaiGiangDienTu
 Films
 Pictures
 Programs
 Sounds
 Sub-Slides
 Titles
Cần chú ý khi sao chép bài giảng từ máy này sang máy khác, tuỳ theo đặc
tính của các phần mềm trình diễn, nhiều khi vô tình làm sai lệch các liên kết,
dẫn đến kết quả khi trình diễn không theo ý muốn.
Cần phải xác lập sự liên kết giữa các bài giảng trong hệ thống các bài
giảng đã được tổ chức lưu trữ. Điều này là hết sức cần thiết khi sử dụng một
bài giảng và đây cũng chính là thế mạnh riêng có của mày tính điện tử. Cũng
theo cách này, các tư liệu điện tử trong các thư viện sẽ được phát huy tối đa,
nâng cao tần suất sử dụng chúng.
5. Lựa chọn ngôn ngữ hoặc các phần mềm trình diễn để xây dựng
tiến trình dạy học thông qua các hoạt động cụ thể
Sau khi đã có các thư viện tư liệu, giáo viên cần lựa chọn ngôn ngữ hoặc
phần mềm trình diễn thông dụng để tiến hành xây dựng giáo án điện tử.
Trước hết cần căn cứ vào cấu trúc logic nội dung và sự phân hoạch các

hoạt động của thầy và trò trên từng yếu tố kiến thức cấu thành bài học. Dựa
vào các yếu tố kiến thức và các hoạt động để định ra số slide (trong
PowerPoint) hoặc các trang (trong Frontpage) và thứ lớp của chúng. Sau đó
xây dựng nội dung cho các trang hoặc các slide. Tuỳ theo nội dung cụ thể
mà thông tin trên mỗi slide có thể là văn bản, đồ hoạ, âm thanh,…Không
nên sử dụng quá nhiều dữ liệu dạng văn bản, cần chuyển thể thông tin dạng
văn bản sang thông tin dạng mô hình, hoạt hình. Có như vậy mới phát huy
- Trang 15 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
sức mạnh hỗ trợ của máy tính trong việc nâng cao hiệu quả của quá trình dạy
học. Việc nhập dữ liệu trên mỗi slide không nên tiến hành đồng thời với việc
tạo các hiệu ứng và thiết lập các liên kết. Thiết kế bài giảng cũng như thiết
kế phần mềm, cần phải tiến hành theo quy trình mới thuận lợi và hoàn thành
nhanh chóng được.
Văn bản cần trình bày ngắn gọn cô động, chủ yếu là các tiêu đề và dàn ý
cơ bản. Nên dùng một font chữ phổ biến, đơn giản, kích thước đủ lớn, màu
chử được dùng thống nhất tùy theo mục đích sử dụng khác nhau của văn
bản. Khi trình bày nên sử dụng sơ đồ khối để người học thấy ngay được cấu
trúc logic của những nội dung cần trình bày.
Đối với mỗi bài dạy nên dùng khung, màu nền thống nhất cho các slide,
hạn chế sử dụng các màu quá chói hoặc quá tương phản nhau. Không nên
lạm dụng các hiệu ứng trình diễn theo kiểu “bay nhảy” gây sự tò mò không
cần thiết của học sinh, làm phân tán sự chú ý của học sinh trong lúc học bài.
Cần chú ý làm nỗi bật các nội dung trọng tâm, khai thác triệt để các ý tưởng
tiềm ẩn bên trong các đối tượng trình diễn thông qua việc nêu vấn đề, hướng
dẫn, tổ chức hoạt động nhận thức nhằm phát triển tư duy của học sinh. Cái
quan trọng là đối tượng trình diễn không chỉ để thấy tương tác với máy tính
mà chính là hỗ trợ một cách hiệu quả sự tương tác với máy tính mà chính là
hỗ trợ một cách hiệu quả sự tương tác giữa thầy và trò, giữa trò và trò.
Cuối cùng là thực hiện các liên kết hợp lí, logic lên các đối tượng trong

bài giảng. Đặc biệt là thiết lập các liên kết giữa các slide cùng lớp và khác
lớp với nhau. Các liên kết này phải đảm bảo các nguyên tắc của quá trình
dạy học. Đây chính là ưu điểm nổi bật có được trong bài giảng điện tử, cần
khai thác tối đa khả năng này. Nhờ sự liên kết này mà bài giảng được tổ
chức một cách linh hoạt, thông tin được truy xuất kịp thời, học sinh dễ tiếp
thu, bài giảng sẽ được trình bày ở mức rộng, sâu khác nhau tuỳ theo mức độ
thực hiện các liên kết giữa một hay nhiều lớp slide.
Lựa chọn ngôn ngữ hay phần mềm trình diễn cũng cần quan tâm đến
trình độ tin học của người dùng. Những phần mềm có tính thân thiện cao,
khả năng trình diễn thông tin tốt, dễ thiết kế, chỉnh sữa, cập nhật luôn là một
lựa chọn đúng để đảm bảo tính khả thi và sử dụng.
- Trang 16 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
6. Chạy thử chương trình, chỉnh sữa và hoàn thiện
Sau khi thiết kế xong, phải tiến hành chạy thử chương trình, kiểm tra các
sai sót, đặc biệt là các liên kết để tiến hành sữa chữa và hoàn thiện. Kinh
nghiệm cho thấy không nên chạy thử từng phần trong quá trình thiết kế. Về
nguyên tắc, bài giảng chỉ có thể hoàn thiện sau nhiều lần sử dụng nó.
V. MỘT SỐ LƯU Ý KHI SỬ DỤNG BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ TRONG
DẠY HỌC
- Bài giảng điện tử về thực chất là một phương tiện hỗ trợ dạy học, bản thân
tự nó không có khả năng thực hiện các nhiệm vụ của quá trình dạy học, hiệu
quả mà nó mang lại đều bắt nguồn từ phía giáo viên.
- Việc sử dụng bài giảng điện tử phải tuân thủ những yêu cầu của hoạt động
học tập của học sinh, có nghĩa là mỗi thao tác của giáo viên, mỗi một chức
năng hỗ trợ của bài giảng điện tử phải được diễn ra thoe một trình tự logic
chặt chẽ, phù hợp với hoạt động nhận thức của học sinh. Bài giảng điện tử
có thể hỗ trợ cho giáo viên nhiều mặt, điều đó không có nghĩa là nó phủ
nhận vai trò của giáo viên mà ngược lại, nó tạo điều kiện tốt nhất để giáo
viên tập trung sức lực, trí tuệ vào việc tổ chức, điều khiển hoạt động nhận

thức của học sinh, tăng cường cá biệt hoá hoạt động học tập của học sinh.
Đó cũng chính là chức năng cơ bản của mọi phương tiện dạy học.
- Cần phải khai thác hết những khả năng hỗ trợ dạy học của bài giảng điện
tử. Đặc biệt đối với các chức năng đưa đến hiệu quả sư phạm lớn. Luôn quan
tâm đến tính hiệu quả sử dụng là nhiệm vụ quan trọng của giáo viên khi sử
dụng các phương tiện dạy học hiện đại, chi phí lớn trong hoàn cảnh chi chi
phí đầu tư cho giáo dục đang còn thấp như hiện nay. Khi sử dụng các
phương tiện dạy học hiện đại, đặc biệt là việc sử dụng máy vi tính cần hết
sức chú ý tránh sử phô trương hay lạm dụng sức mạnh của công nghệ ở
những chổ mà quá trình dạy học không cần đến nó.
- Sử dụng phần mềm hỗ trợ dạy học với máy tính điệm tử ít nhiều làm cho
quá trình dạy học phụ thuộc vào thiết bị, cần phải lưu ý và biết cách khắc
phục những trở ngại kỹ thuật của hệ thống thiết bị. Người biết sử dụng một
cách có hiệu quả các phương tiện dạy học phải là người biết sáng tạo, vận
- Trang 17 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
dụng những khả năng mà phương tiện đã mang lại vào quá trình dạy học
ngay cả trong trường hợp không có nó.
- Dù rằng bài giảng điện tử rất gần gũi và thân thuộc với nhiều người, nhưng
có một sự hiểu biết cơ bản và kỹ năng nhất định về lĩnh vực Tin học là yếu
tố quyết định cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng nó. Quan tâm đến hiệu quả
của việc sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại là một cách gián tiếp góp
phần giải quyết khó khăn trong việc đầu tư chi phí, đồng thời cũng có nghĩa
là sẽ phải yêu cầu cao đến việc thiết kế, xây dựng hay lựa chọn các phần
mềm hỗ trợ dạy học.
VI. KỸ NĂNG SOẠN GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ
TS Nguyễn Trọng Thọ, nguyên là GV Hóa trường THPT chuyên Lê
Hồng Phong (TP.HCM), nhận xét: “Các phần mềm dạy học thường được mô
tả bằng lời, hình ảnh, hình vẽ hay các đoạn video. Nhược điểm của các phần
mềm này là không tạo ra khả năng tương tác của người học với đô tượng

nhận thức. Nghĩa là người học hoàn toàn thụ động xem những gì diễn ra trên
màn hình theo trình tự mà ca tác giả đã sắp đặt. Các phần mềm dạy học do
chuyên gia tin học soạn thảo nhưng vì thiếu kiến thức và kinh nghiệm
chuyên môn về sư phạm nên phần tác nghiệp giảng dạy của giáo viên nặng
tính trình diễn. Mặt khác, tất cả sách giáo khoa đang sử dụng chưa tính tới
yếu tố sao cho phù hợp với việc áp dụng giáo án điện tử”.
Để có thể ứng dụng CNTT đạt hiệu quả cao hơn, giáo viên cần có năng
lực đề xuất phương án dạy học (project), thực hiện hồ sơ bài dạy theo những
quy trình khoa học và các kỹ năng liên quan đến việc phát triển năng lực
thực nghiệm trong dạy học bằng máy tính như kỹ năng thu thập số liệu, phân
tích và trình bày số liệu; kỹ năng đề xuất phương án kiểm tra kiến thức của
học sinh; kỹ năng ứng dụng những thành tựu của công nghệ phần mềm, sử
dụng các phần mềm phù hợp để viết các phần mềm ứng dụng nhằm hỗ trợ
việc hiện thực hóa các ý tưởng sư phạm
Muốn thế, bản thân người giáo viên còn cần có niềm đam mê thật sự với
việc thiết kế vốn đòi hỏi sự sáng tạo, nhạy bén, tính thẩm mỹ, có hiểu biết
nhất định về kỹ thuật vi tính (bố cục, trình bày slide, chèn nhạc, phim, hình,
các minh họa động có tính tương tác ).
- Trang 18 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
Trước khi bắt tay vào việc soạn bài giảng điện tử, người thầy phải nắm rõ
mục tiêu bài giảng, đảm bảo nội dung cô đọng nhưng vẫn đầy đủ ý của bài
học. Ngoài nội dung, còn phải lưu ý đến hình thức, màu sắc, kiểu chữ, bố
cục phù hợp, các hiệu ứng hợp lý để cho bài giảng sống động. Thế nhưng,
ứng dụng CNTT vào bài giảng như thế nào để công cụ hỗ trợ này thật sự tác
động vào việc nâng cao chất lượng giáo dục một cách hiệu quả nhất. Một bài
giảng điện tử không đơn thuần chỉ là những dòng chữ hoặc công thức lần
lượt hiện ra để học sinh ghi lại. Người soạn bài giảng điện tử lại càng không
nên quá lạm dụng các hiệu ứng màu sắc, hình ảnh quá rườm rà làm học
sinh mất tập trung, không chú ý nội dung bài học mà chỉ lo quan sát, nghe

nhìn.
Những nhược điểm ở bước khởi đầu xin ghi nhận một số nhận xét rất tinh
tế của thầy giáo Hoàng Ngọc Lân, GV Toán, chuyên viên Tin học của Sở
GD-ĐT tỉnh Đồng Nai, về những lỗi thường gặp ở người mới bắt đầu soạn
giảng với PowerPoint:
Trước hết là những lỗi ở khâu chuẩn bị. Về nội dung, có thể do chưa biết
chắt lọc và tinh giản kiến thức cần trình bày trên các slide hoặc do tâm lý sợ
dạy thiếu chương trình, sợ học sinh (HS) không nắm đủ kiến thức. Cũng có
thể do không có kinh nghiệm và kỹ năng tóm lược nội dung, hoặc tâm lý
sính chữ, khoe khoang. Về cấu trúc, bắt chước nguyên xi cấu trúc bài học
trong sách giáo khoa, thiếu sáng tạo ra các cấu trúc mới, đơn giản và hợp với
qui luật nhận thức của HS trong môi trường giảng dạy có thiết bị. Dường
như việc sử dụng slide là chỉ để minh họa thay cho phấn, bảng. Về tư liệu
hình ảnh và multimedia, thường rơi vào hai tình huống, thừa hoặc thiếu. Quá
nhiều thì gây mất tập trung, rườm rà không cần thiết; quá ít hoặc không có
thì thà đừng làm PowerPoint.
Thứ hai là lỗi ở khâu thiết kế. Số lượng slide thường nhiều hơn mức cần
thiết, tốc độ lật nhanh gây cho HS cảm giác không kịp tiếp thu. Trong khi
chỉ cần ít slide (10-12 slide/1tiết) với những nội dung và hình ảnh thật cô
đọng và đắt. Slide chứa quá nhiều chữ, kích cỡ nhỏ, người xem không thấy
hoặc phải căng mắt ra gây mỏi mệt, học sinh không ghi chép kịp. Việc phối
hợp màu sắc không chuẩn và thiếu các nguyên tắc cơ bản về độ sáng tối, độ
đậm nhạt, độ tương phản khiến cho các slide không đạt tới sự hài hòa cần
- Trang 19 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
thiết, gây ức chế tâm lý cho học sinh. Lạm dụng các hiệu ứng chuyển động
là vấn đề thường gặp nhất ở các GV mới bắt đầu sử dụng. Các hiệu ứng về
text và graphic có thể gây sự “chú ý không chỉ định” nơi học sinh, nếu quá
nhiều thì sẽ gây phản tác dụng. Âm thanh là một yếu tố kích thích tốt cho
giác quan, nhưng đồng thời cũng là một yếu tố gây nhiễu bài giảng của GV

nếu bị lạm dụng.
Cuối cùng là lỗi ở khâu dạy học trên lớp, quá phụ thuộc vào thiết bị và
công nghệ, đến mức mất khả năng linh hoạt, coi việc chuẩn bị nội dung của
mình là cố định, cứ thế mà làm bất kể tình huống trên lớp đòi hỏi phải điều
chỉnh thay đổi. Nguyên nhân sâu xa là do chưa làm chủ được công nghệ,
ngại dừng lại việc trình chiếu để bổ sung, sửa chữa bài giảng ngay tại lớp,
không kết hợp được các phương pháp giảng dạy khác. GV mới sử dụng
thường mất nhiều thời gian cho các thao tác kỹ thuật như đấu nối thiết bị
máy tính, loa, màn hình,
Phương tiện kỹ thuật chỉ hỗ trợ việc giảng dạy chứ không thể thay thế vai
trò chủ đạo của người giáo viên trong giờ lên lớp. Máy móc chỉ là phương
tiện giúp cho bài giảng hay hơn, sinh động hơn, song nó không là tất cả. Để
tiết dạy thật sự đạt hiệu quả cao hơn, cần sử dụng CNTT “đúng lúc, đúng
chỗ, đúng mức độ” để tạo hiệu ứng tốt nhất cho tiết giảng. Theo ý kiến của
những thầy cô giáo có kinh nghiệm thì để tiết dạy thật sự đạt hiệu quả, giáo
viên cần phối hợp giữa các phương pháp truyền thống và hiện đại để làm
mới hơn, hấp dẫn hơn, hiệu quả hơn giờ dạy mà không làm mất đi, hoặc sai
lệch về mục đích, mục tiêu giảng dạy trong nhà trường.
(NGUYỄN ĐỨC HIỆP - Hiệp sĩ CNTT, GV Vật lý Trường THPT
chuyên Trần Đại Nghĩa, TP.HCM, Source: ).
VII. GIỚI THIỆU VỀ SẢN PHẨM MICROSOFT POWERPOINT
Dạy học với Giáo án điện tử hiện nay đã và đang trở thành một phong trào
sôi nổi ở các trường Phổ thông.
Vậy giáo án điện tử là gì? Có lẽ chưa có một định nghĩa chính thức nào từ
ngành Giáo dục cho khái niệm này. Nhưng theo nhận xét riêng của chúng
tôi, hiện nay ở các trường phổ thông, khi nói đến sử dụng giáo án điện tử
- Trang 20 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
trong dạy học thì hầu như có nghĩa là giáo án được biên soạn trên máy tính
bằng một phần mềm chuyên dụng, sau đó nhờ thiết bị máy chiếu (projector)

kết nối với máy tính, để xuất nội dung giáo án ra màn ảnh lớn cho học sinh
xem trong quá trình dạy học .
Có nhiều phần mềm khác nhau có thể dùng cho mục đích này, nhưng
được sử dụng nhiều hơn cả vẫn là phần mềm PowerPoint của Microsoft. Sở
dĩ PowerPoint được ưa dùng trong mục đích này là nhờ:
Ưu thế về tính tương thích cao với hệ điều hành Windows (là hệ điều
hành phổ biến trên các máy PC ở Việt Nam).
Khả năng hỗ trợ multimedia rất mạnh.
Sự đa dạng về hiệu ứng, nhưng sử dụng hiệu ứng lại đơn giản.
Tính nhất quán trong bộ MS Office giúp người đã biết dùng WinWord dễ
dàng sử dụng PowerPoint.
Năm 1984, Bob Gaskin, một nghiên cứu sinh về khoa học máy tính tại
đại học Berkeley (tiểu bang California), và các cộng sự của ông đã sáng tạo
ra phần mềm PowerPoint.
Tên ban đầu của phần mềm này là Presenter. Khi đăng ký thương hiệu,
sản phẩm được đổi tên là PowerPoint như hiện nay.
Phiên bản đầu tiên bán ra trên thị trường là PowerPoint 1.0, vào tháng 4
năm 1987, dùng cho các máy MAC. Tất nhiên vào thời điểm đó PowerPoint
khác phiên bản hiện nay rất xa. Nó chỉ cho phép tạo các trang văn bản và đồ
họa dể in ra trên giấy phim (transparent film) và trình chiếu bằng các máy
chiếu Overhead.
Phiên bản PowerPoint đầu tiên cho Windows xuất hiện vào năm 1990.
Để sở hữu PowerPoint, Microsoft đã phải trả cho công ty Forethought
của Bob Gaskin 14 triệu đô la.
Theo ước tính của Microsoft, trung bình mỗi ngày trên thế giới có ít nhất
30 triệu phiên trình chiếu bằng PowerPoint, tức là mỗi giây có khoảng 347
phiên trình chiếu!
- Trang 21 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
1. Vị trí của PowerPoint trong quá trình dạy học với giáo án điện tử

Có thể xem quá trình dạy học như một quá trình thông tin 2 chiều:
Kiến thức cần truyền thụ được chuyển giao từ Giáo viên đến học sinh và
thông tin phản hồi từ học sinh đến Giáo viên. Chú ý rằng kênh thông tin
phản hồi không chỉ diễn ra sau tiết dạy mà nó có thể (và cần thiết) diễn ra
thường xuyên ngay trong tiết dạy.
Trong dạy học trước đây, kiến thức cần truyền thụ được Giáo viên
chuyển giao cho học sinh thông qua các phương tiện truyền thống như: đọc,
nói, viết ,…Và thông tin phản hồi nhận được cũng nhờ phần lớn vào các
phương tiện đó.
Trong dạy học với giáo án điện tử, kiến thức được lưu trữ trong tập tin
của PowerPoint và được chuyển giao cho học sinh dưới dạng hình ảnh, âm
thanh,…trên màn hình chiếu. Tuy nhiên , vì PowerPoint không được thiết kế
để giao tiếp với người xem, nên tính tương tác với người xem hầu như
không có. Do vậy để thiết lập kênh thông tin phản hồi, trong dạy học dùng
giáo án điện tử, phương tiện truyền thống: nói, viết, thật ra vẫn cần thiết.
2. Các kiểu giáo án điện tử dùng PowerPoint
Quan sát một số giáo án điện tử, có thể tạm chia các giáo án điện tử thành
2 kiểu:
Kiểu 1: Giáo viên chỉ sử dụng PowerPoint và thiết bị projector để thay
thế bảng và phấn một cách đơn thuần.
Kiểu 2: Khai thác tốt tính năng multimedia của PowerPoint. Giáo án kiểu
2 không chỉ thay thế bảng phấn, mà còn thay thế rất sinh động giáo cụ trực
quan, thí nghiệm, tài liệu minh họa,
3. Giáo án điện tử có lợi gì hơn?
* Đối với các môn khoa học tự nhiên, giáo án điện tử dùng PowerPoint
có ưu thế rất lớn ở chỗ:
- Trang 22 -
Phương pháp soạn Bài giảng điện tử Nguyễn Tiến Hà – ĐHSP Huế
- Giúp giáo viên thực hiện được nhiều thứ mà cách dạy “bảng phấn”
không thể làm được như: sơ đồ động, tài liệu minh họa đa dạng và phổ biến

được đến từng học sinh, …
- Cho phép giáo viên liên kết sử dụng các phần mềm chuyên dụng phục
vụ bộ môn.
* Giáo án điện tử cũng hỗ trợ tốt cho việc dạy các môn khoa học xã hội.
4. Kết luận
Thế hệ học sinh ngày nay, ngay từ khi chào đời, có vẻ như đã quen với
việc tiếp nhận thông tin dưới dạng hình ảnh, âm thanh (nói theo ngôn ngữ
hiện nay là “thông tin dạng multimedia”) nhiều hơn các thế hệ trước. Do đó,
việc dạy học bằng giáo án điện tử, dù là cho bộ môn khoa học tự nhiên hay
xã hội, nếu khai thác đúng thế mạnh của PowerPoint, chọn bài dạy thích hợp
với kiểu dạy học này, sẽ giúp học sinh tiếp thu bài học tốt hơn nhiều.
- Trang 23 -

×