LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ quý báu của rất nhiều thầy, cô giáo, người thân trong gia
đình và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn Th.S Ngô Thị
Hồng Tươi người đã tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Bộ môn Di truyền và Cchọn
giống cây trồng, Học vViện Nông nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi và
tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả bạn bè và gia đình, những
người đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện đề tài tốt nghiệp này.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Sinh viên
Hoàng Văn Thắng
Phần I.: MỞ ĐẦU
1. 1.Đặt Vấn Đề
Cây lúa là nguồn cung cấp lương thực thiết yếu đảm bảo sự sống cho hơn
một nửa dân số thế giới, cây lúa được 250 triệu người dân trồng, là lương thực
chính của của 1,3 tỉ người nghèo trên thế giới, là nguồn cung cấp năng lượng chính
cho con người [6].(Em thay tất cả các số bằng tên tác giả nhé)
Theo thống kê của tổ chức lương thực và nông nghiệp thế giới (FAO) thì
hiện nay có tới 50% dân số trên hành tinh chúng ta đang bị đói protein do ảnh
hưởng của việc tăng dân số quá nhanh. Tình trạng này tập trung chủ yếu ở các
nước đang phát triển ở châu Phi, châu Á đặc biệt là với đối tượng trẻ em và người
già ở vùng nông thôn nhất là vùng trung du và miền núi, vùng sâu vùng xa [12]. Để
giải quyết việc bù đắp lượng protein bị thiếu, người ta thường hướng tới nguồn
protein thực vật vì nguồn protein thực vật là nguồn protein vô tận và rẻ nhất. Theo
tính toán của các nhà khoa học thì hàng năm thực vật cung cấp cho con người
khoảng 80% tổng số protein, trong đó 70% từ hạt ngũ cốc [8].
Hiện nay tình trạng thoái hóa giống cây trồng nói chung và các giống cây
lương thực mang tính đặc sản nói riêng đang diễn ra nhanh chóng do kĩ thuật gieo
trồng và để giống quá nhiều vụ của người dân đã làm suy giảm các đặc tính quý
của giống như năng suất chất lượng , tính chống chịu với các điều kiện bất thuận
lợi của ngoại cảnh như nhiệt độ, đất bị chua hóa, sâu và bệnh hại [17].
Đặc biệt, nhu cầu về các giống lúa có chất lượng cao ngày càng gia tăng trong
những thập kỷ gần đây, do yêu cầu của thị trường và nhu cầu của người tiêu dùng.
Gạo có chất lượng cao được xác định bởi rất nhiều yếu tố như: hình dạng hạt, giá
trị dinh dưỡng, hương thơm, chất lượng sau khi chế biến [8]…Trong đó, hương
thơm được xem là một trong những đặc tính quan trọng. Trong khi giá gạo của các
giống lúa truyền thống suy giảm, các loại lúa gạo đặc sản, nhất là những loại gạo
thơm vẫn giữ được giá cao và ổn định [23].
Khi bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng xanh, hầu hết các chương trình chọn
giống lúa đều tập trung phát triển các giống lúa có tính trạng chống chịu sâu bệnh
và cho năng suất cao. Lúa cẩm cũng là 1 trong những giống lúa chất lượng cao
theo nghiên cứu thì giá bao tiêu lúa cẩm cao hơn 1,5 lần so với các giống lúa chất
lượng cao khác, trong khi giá thành sản xuất lúa cẩm thấp hơn lúa chất lượng cao
khoảng 1.000 đồng/kg. Như vậy việc phát triển và mở rộng lúa cẩm là 1 vấn đề cực
kì quan trọng góp phần không nhỏ cho nền nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế
nước nhà nói chung [22], [48].
Ở Việt Nam lúa cẩm đã được gieo trồng ở một số tỉnh và được sử dụng vào
chế biến rượu. Tuy nhiên, các giống lúa cẩm thường được phản ứng với ánh sáng
ngày ngắn và chưa được đánh giá một cách đầy đủ về chỉ tiêu chất lượng, chưa có
hướng sử dụng đúng giá trị của nó. Các giống lúa cẩm này thường cao cây, năng
suất thấp, chỉ trồng một vụ một trong năm.
Hiện nay nhu cầu về dinh dưỡng lúa đen có vai trò rất lớn trên thế giới và
trong nước. Nhiều nước trồng lúa trên thế giới đặc biệt là các nước cChâu áÁ,
thường xảy ra bệnh thiếu sắt trong máu (IDA – Iron Ddeficiency Aanaemia), bệnh
thiếu vitamin A gây chứng mù mắt ở trẻ em. Theo juliano trong gạo các giống lúa
đen chứa nhiều sSắt, cCanxi và một số loại vitamin cần thiết cho sức khỏe con
người. Tuy nhiên ở nước ta, công tác nghiên cứu tuyển chọn giống lúa cẩm có hàm
lượng dinh dưỡng cao chưa được quan tâm đúng mức ( theo Lê Vĩnh Thảo, 2008).
Chính vì vậy, chúng tôi đã tiến hành đề tài nghiên cứu “ So sánh một số
dòng lúa tẻ cẩm mới ở vụ Mùa 2014 tại Gia Lâm-Hà Nội”. Nhằm đánh giá và chọn
ra được các dòng cho năng suất và chất lượng tốt.
2. Mục tiêu đề tài.
- Đánh giá được khả năng sinh trưởng, phát triển, năng suất và chống chịu
với một số sâu bệnh hại của các dòng tẻ cẩm mới. Chọn ra dòng cho năng suất cao
và chất lượng tốt.
3.Yêu cầu của đề tài.
- Bố trí thí nghiệm so sánh, theo dõi các chỉ tiêu nông sinh học của các
dòng tẻ cẩm mới.
- Thu thập xử lý số liệu phục vụ cho kết quả nghiên cứu.
- Đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của các dòng tẻ cẩm mới.
- Đánh giá năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất, chất lượng của các
dòng tẻ cẩm mới.
Phần II. : TỔNG QUAN TÀI LIỆU
I. Giới thiệu chung .
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài.
Lúa gạo là một trong những loại cây lương thực chủ yếu trên thế giới, có vai
trò rất quan trọng ở cả lĩnh vực kinh tế và vấn đề an ninh lương thực. Lúa được
trồng rộng khắp từ 30
o
Nam vĩ tuyến đến 40
o
Bắc vĩ tuyến [3].
Lúa là cây lương thực quan trọng có diện tích 148,4 triệu ha ở thế giới,
(trong đó cChâu Á 135 triệu ha). Việt Nam có diện tích sản xuất lúa 4,36 triệu ha,
sản lượng 34,6 triệu tấn, năng suất bình quân 4,67 tấn/ha, xuất khẩu 4 triệu tấn gạo
năm 2003 (Đồng bằng sông Cửu Long có sản lượng lúa 17,6 triệu tấn, năng suất
4,61tấn/ha), (theo Nguyễn Văn Tân, 2008).
Lúa gạo là phần lương thực quan trọng của hơn 1/2 dân số thế giới. Vì vậy
chất lượng gạo là vấn đề được nhiều người quan tâm đặc biệt ở các nước lấy gạo là
lương thực chính. Chất lượng gạo là một khái niệm rộng bao gồm các lĩnh vực:
Chất lượng kinh tế, chất lượng thương trường, chất lượng dinh dưỡng và chất
lượng nấu nướng. Mỗi lĩnh vực có những chỉ tiêu cụ thể để đánh giá: độ trong của
hạt, tỉ lệ gạo gãy, hình dạng hạt, hàm lượng xenlulose [26], [28]. Các quốc gia khác
đều có cách đánh giá và hệ thống kiểm tra chất lượng riêng biệt và các hệ thống
này thường không thống nhất. Do vậy gây ra nhất nhiều trở ngại cho việc tiêu thụ
lúa gạo trên thế giới đặc biệt cho việc thiết lập sản xuất lúa gạo chất lượng cao
[30].
1.2 Vài nét về lúa cẩm.
Gạo nếp cẩm và tẻ cẩm có màu đen còn gọi là bổ huyết mễ, là loại gạo có
hàm lượng dinh dưỡng cao như: hàm lượng protein trong gạo nếp cẩm cao hơn
6,8%, chất béo cao hơn 20% so với gạo khác, ngoài ra trong gạo nếp cẩm còn chứa
caroten, 8 loại axit amin (trong đó có Anthocyanin) và các nguyên tố vi lượng (sắt,
kẽm) cần thiết cho cơ thể (United Press Iinternational – UPI, 2010). Lúa nếp cẩm
là những giống đặc sản lâu đời và được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau
trong đời sống của người dân. Các sản phẩm làm từ gạo nếp, nếp cẩm có mặt trong
hầu hết các lễ hội và nó tạo lên nền văn minh mang bản sắc văn hóa của Việt Nam.
Giống lúa cẩm được trồng ở nhiều địa phương, nhiều vùng sinh thái khác nhau và
rất đa dạng về kiểu hình. Việc nghiên cứu đa dạng nguồn gen của tập đoàn lúa cẩm
không chỉ mang ý nghĩa lựa chọn vật liệu cho chọn tạo giống lúa chất lượng cao ở
Việt Nam (theo Nguyễn Văn Hoan và cs., Phạm Văn Cường, Ngô Thị Hồng Tươi,
2014).
1.3 Nguồn gốc phân loại cây lúa
Tổ tiên cây lúa đã tồn tại từ đầu kỷ Phấn trắng. Vào giữa kỷ này, xuất hiện
một trong những loại nguyên thuỷ nhất thuộc họ Oryzae, đó là loại Streptochasta
Schrad. Đến cuối kỷ Phấn trắng xuất hiện các loại tre (Bambusa) và lúa (Oryza).
Một số loại khác xuất hiện muộn hơn vào kỷ thứ ba, thời kỳ phát triển mạnh nhất
của họ Hoà thảo (Gramineae). Các loài lúa Oryza spp. có cùng tổ tiên chung xuất
hiện vào thời địa cầu Gondwanaland, sau khi trái đất tách rời thành năm lục địa
[1].
Theo Chang (1985),: lúa trồng Oryza sativa được tiến hoá từ cây lúa dại
hàng năm Oryza nivara. Do điều kiện khí hậu, đặc biệt là nhiệt độ, lúa Oryza
sativa tiếp tục tiến hoá theo ba nhóm: Indica thích hợp với khí hậu nhiệt đới,
Japonica thích ứng với khí hậu lạnh và Javanica có đặc tính trung gian [13]. Tác
giả Oka (1988) lại cho rằng Oryza sativa có nguồn gốc từ cây lúa dại lâu năm
Oryza rufipogon [39]. Đến năm 2003, khi nghiên cứu di truyền tiến hoá của 101
giống lúa, bao gồm cả lúa trồng và lúa dại, Cheng (năm) đã chia loài lúa trồng
Oryza sativa thành hai nhóm tương ứng với hai loài phụ là Indica và Japonica.
Trong khi đó Oryza rufipogon được chia thành bốn nhóm là: nhóm Oryza
rufipogon hàng niên và ba nhóm Oryza rufipogon đa niên. Tác giả cũng đã chỉ ra
các giống lúa Japonica có quan hệ gần gũi với một nhóm Oryza rufipogon đa niên,
còn các giống lúa Indica có quan hệ gần với nhóm lúa Oryza rufipogon hàng niên
[16]. Ở châu Phi cũng thấy xuất hiện cả hai loài lúa dại Oryza longistaminata (đa
niên) và Oryza brevigulata (hàng niên), do đó nhiều tác giả cho rằng Oryza
glaberrima có nguồn gốc từ Oryza breviligulata [1].
Cho đến nay, nhiều nhà khoa học đã đồng ý rằng lúa Glaberrima và lúa
Sativa có cùng chung nguồn thủy tổ vào thời kỳ lục địa nguyên thuỷ
Gondwanaland. Sau khi các lục địa tách rời nhau, lúa Sativa và Glaberrima tự tiến
hoá từ các loài lúa dại bản địa ở hai châu lục là châu Á và châu Phi (hình 1) [36].
Lục địa Gondwanalands
Tổ tiên chung
Nam và Đông Nam Á Tây Phi Châu
Lúa dại đa niên O. rufipogo O. longistaminata
Lúa dại hàng niên O. nivara O. breviligulata
Lúa trồng O. Sativa O. sativa O. glaberrima
Indica Japonica
Ôn đới Nhiệt đới
Hình 1.: Sơ đồ tiến hoá của hai loài lúa trồng .
Do những ảnh hưởng khắc nghiệt của môi trường như khô hạn, nhiệt độ thay
đổi quá lớn… nhiều loài lúa dại nguyên thủy đa niên đã trở thành loài lúa hàng
niên để thích ứng với phong thổ địa phương, khí hậu gió mùa. Về phương diện
sinh thái và địa dư, cây lúa châu Á đã trải qua quá trình tiến hóa lâu dài để thích
ứng với môi trường khác nhau và được phân chia thành 3 nhóm chính: Indica,
Japonica (hay Sinica) và Javanica (Japonica nhiệt đới). Hiện nay lúa Indica được
trồng trên 80% diện tích trồng lúa trên thế giới và cung cấp nguồn lương thực cho
hơn 3 tỷ người, chủ yếu các nước đang phát triển, còn lại hai loại lúa Japonica và
Javanica chỉ chiếm tương đương 11% và 9%. Ba loại lúa này được nhận biết qua
sự khác nhau về hình thái như thân, lá, hạt và thành phần cấu tạo hạt, đặc biệt là
hàm lượng amyloza, amylopectin, khả năng chống hạn, kháng lạnh v.v [31], [32].
- Lúa Japonica (hay Sinica): Có hạt tròn, ngắn, thường không có đuôi, gié ngắn,
nhiều chồi thẳng đứng, cây thấp giàn, dễ chịu lạnh và không kháng hạn, hàm lượng
amyloza thấp (14 - 17%) và thường được trồng ở các vùng ôn đới.
- Lúa Indica: Có hạt dài thon, có hàm lượng amyloza cao (trên 21%), không có
đuôi, gié trung bình, thân cây tỏa rộng, cao giàn, không chịu lạnh và có thể chịu
hạn hán và được trồng rất phổ biến ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
- Lúa Javanica (Japonica nhiệt đới): Có tính chất trung gian giữa lúa Japonica và
lúa Indica. Lúa Javanica có hạt to rộng, hàm lượng amyloza cao, thường có đuôi,
trấu có lông dài, ít chồi, gié dài, thân cây dày thẳng đứng, cây rất cao giàn, chịu
hạn hán nhưng không chịu lạnh và được trồng ở Indonesia, chủ yếu Java và
Sumatra.
(Chú ý không chấm sau các mục)
1.4 Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới.
Chỉ vài tháng trước, triển vọng về sản xuất lúa gạo thế giới năm 2013 đã xấu
đi đáng kể khi mà sản lượng gạo tại Trung Quốc và Ấn Độ, hai quốc gia sản xuất
gạo đứng đầu thế giới, có xu hướng giảm. Theo đó, sản lượng gạo thế giới năm
2013 được FAO dự báo ở mức 494 triệu tấn, tăng 0,9% tương đương 4,2 triệu tấn
so với năm 2012. Con số này cho thấy trong 10 năm trở lại đây, sản lượng gạo thế
giới trung bình tăng 10 triệu tấn một năm. Nếu đạt được mức này, năm 2013 sẽ là
năm liên tiếp thứ 2 mà sản lượng gạo thế giới có mức tăng trưởng tương đối chậm
(theo FAO, 2012)
Phần lớn sự gia tăng về sản lượng lúa gạo năm 2013 trên thế giới là do sức
tăng về sản lượng tại châu Á, đặc biệt là Ấn Độ - nơi mà tình hình sản xuất đang
hồi phục nhờ điều kiện thời tiết khá thuận lợi. Tuy nhiên, thiệt hại do thiếu mưa tại
các vùng phía Đông và do cơn bão Phailin hồi đầu tháng 10 đã khiến sản lượng
gạo của Ấn Độ giảm 2 triệu tấn xuống còn 106 triệu tấn. Như vậy, sản lượng gạo
của nước này sẽ giảm 1,5% so với mùa vụ năm 2012 [10]. Hầu hết các quốc gia
châu Á khác dự kiến đang trong giai đoạn thu hoạch, với mức sản lượng tăng đáng
kể, đặc biệt là tại Bangladesh Philippines, Campuchia, Hàn Quốc, Myanmar,
Pakistan, Sri Lanka và Thái Lan. Vì thời tiết quá ẩm ướt và thiếu ánh nắng mặt
trời, nên dự báo sản lượng lúa gạo tại Inđônêxia sẽ không đạt được mục tiêu mà
chính phủ nước này đưa ra. Tuy nhiên, sản lượng lúa gạo của Inđônêxia vẫn vượt
qua mức kỷ lục năm ngoái. Tương tự, sản xuất lúa gạo tại Việt Nam được dự báo
tăng mạnh so với năm ngoái. Tại Trung Quốc, lượng mưa trái mùa và không đủ đã
khiến sản lượng lúa gạo tại các vùng ở phía trung đông giảm, nên dự báo chỉ giữ
được mức sản lượng của năm ngoái. Ngoài ra, dự báo sản lượng vụ mùa cuối cũng
giảm 6% do điều kiện thời tiết tiếp tục khô hạn; khiến sản lượng lúa gạo năm 2013
của Trung Quốc được dự báo đạt 138,9 triệu tấn, giảm 0,7% tương đương 1 triệu
tấn so với năm 2012 và là năm suy giảm đầu tiên về sản lượng trong vòng 10 năm
trở lại đây [38], [39], [42].
Giai đoạn 2008-2013, sSản lượng lúa tăng, duy có năm 2009 là giảm nhưng
không đáng kể đạt 714,56 triệu tấn, trong đó sản lượng lúa châu Á đạt 646,918580
chiếm 90,01%. Nam Mỹ đạt 24,52 chiếm 3,41%. Bắc Mỹ, trung Mỹ đạt 23,52
chiếm 3,2% . Châu Phi đạt 26,33 chiếm 3,6%. Châu Âu và châu Đại dương đạt
4,63 chiếm 0,064.
Bảng 1.1. Sản lượng lúa trên thế giới và các châu lục giai đoạn 2008-2013
(triệu tấn)
Thế
giới,Châu
lục
Đơn
vị tính
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
Năm
2011
Năm
2012
Năm
2013
-Toàn thế
giới
triệu
tấn
688,414 686,957 701,9986
726,12
1
738,18
7
745,709
+Châu Á
triệu
tấn
624,499 621,3235 634,6918
657,58
1
668,57
9
674,835
+Châu Âu
triệu
tấn
3,477 4,242 4,315 4,369 4,336 3,895
+Châu Đại
Dương
triệu
tấn
0,032 0,080 0,207 0,735 0,928 1,171
+Nam Mĩ
triệu
tấn
24,313 25,089 22,623 26,002 24,185 24,920
+Bắc,Trung
Mĩ
triệu
tấn
10,398 11,200 12,339 9,723 10,231 8,7420
+Châu Phi
triệu
tấn
24,365 23,547 26,373 26,120 28,282 29,318
Nguồn:( FAOSTAT), năm 2013
Sản xuất lúa gạo tại châu Mỹ Latinh và vùng Ca-ri-bê được kỳ vọng là hồi
phục, mặc dù không đạt được mức sản lượng hồi năm 2011. Hầu hết các quốc gia
trong khu vực sẽ có vụ mùa bội thu nhờ điều kiện thời tiết thuận lợi, đặc biệt là tại
Brazil, Guyana, Paraguay và Venezuela. Trong khi đó, tại Bolivia, giá gạo thấp
cộng với điều kiện thời tiết bất lợi đã khiến sản lượng gạo nước này được dự báo
giảm 26%.
Tại châu Đại dương, mặc dù điều kiện nuôi trồng không ổn định, nhưng
Australia vẫn đạt được mức sản lượng kỷ lục hơn 10 tấn/ha. Ngoài ra, diện tích lúa
gạo được mở rộng đã đưa sản lượng gạo nước này đạt mức kỷ lục kể từ năm 2002.
Tuy vậy, trong khi cả nước đang chuẩn bị gieo trồng cho mùa vụ 2014, đã có một
số lo ngại về tình trạng thiếu nước, dự báo một sự sụt giảm về sản lượng trong mùa
vụ tới.
Sản lượng gạo khu vực châu Phi được dự báo sẽ giảm 1% trong năm nay. Sự
suy giảm này chủ yếu là do sản lượng tại Madagascar, nước sản xuất gạo lớn thứ 2
trong khu vực, giảm 21% vì thiếu mưa và nạn dịch châu chấu. Tình trạng tương tự
cũng đang diễn ra tại Benin, Burkina Faso và Senegal [4].
Tại châu Âu, sản lượng gạo dự báo giảm 9% do tình hình sản xuất tại một số
nước trong khu vực giảm mạnh. Tại Italia, lượng mưa quá nhiều và nhiệt độ thấp
trong mùa hè đã khiến cây lúa không phát triển. Còn tại Tây Ban Nha, giá gạo
giảm đã khiến người nông dân thu hẹp diện tích trồng lúa [5].
Tại Bắc Mỹ, sản lượng lúa gạo của Hoa Kỳ cũng được dự báo giảm 7% mặc
dù năng suất đạt mức kỷ lục.
Ngày nay, người ta có xu hướng hạn chế các hóa chất tổng hợp trong thâm
canh lúa,chú trọng chỉ tiêu chất lượng hơn số lượng làm cho xu hướng năng có có
chút ít chững lại hoặc tăng chút ít. Tuy nhiên, ở những nước có nền khoa học kỹ
thuật phát triển, năng suất lúa vẫn cao hơn hẳn. Để dễ hình dung chúng ta quan sát
số liệu thống kê của 10 nước có sản lượng lúa hàng đầu thế giới (theo FAO, 2013).
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng của 10 nước trồng lúa hàng
đầu thế giới năm 2013
Tên nước Diện tích (triệu ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (triệu tấn)
Trung Quốc 30,48 67,20 205,00
Ấn độ 43,50 36,50 159,00
Inđônêxia 13,83 51,50 71,27
Băng ladesh 11,70 43,70 51,50
Việt Nam 7,90 55,70 44,03
Thái Lan 12,30 31,30 38,78
Myanma 7,50 37,30 28,00
Philippin 4,74 38,80 18,40
Brazin 2,30 50,00 11,75
Nhật bản 7,50 37,30 28,00
Nguồn: (FAOSTAT,), năm 2013
Theorong số liệu của bảng 1.2 thì trong 10 nước trồng lúa có sản lượng trên
10 triệu tấn đã có 9 nước nằm ở châu Á. Chỉ có 1 đại diện châu khác đó là Brazin
(Nam Mỹ). Trung Quốc và Việt Nam là 2 quốc gia có nNăng suất cao hơn hẳn.
Trung Quốc đạt 67,2 (tạ/ha) và Việt Nam là (55,7 tạ/ha). Điều đó chứng tỏ Trung
Quốc vẫn là 1 nước đi tiên phong trong lĩnh vực trồng lúa áp dụng các tiến bộ khoa
học trong nông nghiệp, Việt Nam cũng đã vươn lên đứng thứ 2 trên thế giới về
năng suất, Việt Nam đã cải thiện được rất nhiều phương thức lao động truyền
thống thay vào đó là áp dụng các thiết bị khoa học kĩ thuật hiện đại trong nông
nghiệp. Thái lan tuy là nước nhiều năm đứng đầu trong lĩnh vực xuất khẩu gạo
nhưng năng suất cũng chỉ đạt 31,3 tạ/ha.
1.3.1 Dự báo tình hình sản xuất lúa gạo năm 2014
Về thị trường, trong năm 2014 dự báo Trung Quốc và các nước Đông Nam
Á vẫn là thị trường xuất khẩu gạo chủ lực.
Tổ chức Nông – Lương Liên Hiệp Quốc (FAO) dự báo sản lượng gạo thế
giới sẽ tăng lên kỷ lục 497 triệu tấn trong niên vụ 2013-2014, tăng khoảng 1,3% so
với khoảng 491 triệu tấn niên vụ 2012-2013. Hầu hết sản lượng tăng sẽ đến từ châu
Á.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã hạ dự báo sản lượng gạo toàn cầu 2013-
2014 xuống 473,2 triệu tấn gạo, giảm khoảng 3,6 triệu tấn so với dự báo trước đó
nhưng vẫn tăng gần 1% so với năm 2012-2013. Dự báo tiêu thụ gạo toàn cầu 2013-
2014 cũng đã được hạ 1,4 triệu tấn xuống 473,1 triệu tấn, vẫn là mức cao kỷ lục
(theo FAO, 2013)
1.5 Tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam.
1.5.1 Tình hình sản xuất lúa trong nước
Nghề trồng lúa ở Việt Nam có lịch sử lâu đời nhất so với các nước châu Á,
người dân Việt Nam tự hào về hơn 4000 năm nền văn minh lúa nước của nước
nhà.Việt Nam nằn trong khu vực nhiệt đới nóng ẩm, lượng bức xạ mặt trời cao và
đất đai phù hợp nên có thể trồng được nhiều vụ lúa trong 1 năm với nhiều giống
(theo Bùi Bá Bổng, 2010) [21].
Từ xa xưa, cây lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu có ý nghĩa quan
trọng với đời sống của người dân. Suốt từ Bắc vào Nam đi đâu cũng thấy người
dân trồng lúa song diện tích lúa chỉ tập trung ở 2 vùng là: Đồng bằng Châu tThổ
sSông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long [33].
Bảng 1.3. : Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam trong vài
năm trở lại đây giai đoạn 2008-2013.
Năm Diện tích(triệu ha) Năng suất(tạ/ha) Sản lượng(triệu tấn)
2013 7,90 55,70 44,03
2012 7,70 56,30 43,66
2011 7,60 55,30 42,39
2010 7,48 53,40 40,00
2009 7,43 52,30 38,90
2008 7,40 52,30 38,70
Nguồn:( FAOSTAT,), năm 2013
Sản lượng lúa cả năm 2013 đạt 44,03 triệu tấn, tăng 400 nghìn tấn so
với năm trước (n
N
ăm 2012 tăng 1,3 triệu tấn so với năm 2011), trong đó diện
tích gieo trồng đạt 7,9 triệu ha, tăng 138,7 nghìn ha, năng suất đạt 55,7 tạ/ha,
giảm 0,6 tạ/ha. Nếu tính thêm 5,2 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực
có hạt năm nay ước tính đạt 49,3 triệu tấn, tăng 558,5 nghìn tấn so với năm
trước (n
N
ăm 2012 tăng 1,5 triệu tấn so với năm 2011) [20].
Trong sản xuất lúa, diện tích gieo trồng lúa đông xuân đạt 3140,7 nghìn ha,
tăng 16,4 nghìn ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng đạt 20,2 triệu tấn, giảm
54,4 nghìn tấn do năng suất đạt 64,4 tạ/ha, giảm 0,5 tạ/ha. Diện tích gieo trồng lúa
hè thu đạt 2146,9 nghìn ha, tăng 15,1 nghìn ha so với vụ trước; sản lượng đạt 11,2
triệu tấn, giảm 81,6 nghìn tấn do năng suất chỉ đạt 52,2 tạ/ha, giảm 0,8 tạ/ha. Một
số địa phương có sản lượng lúa hè thu giảm nhiều là: Sóc Trăng giảm 86,4 nghìn
tấn; Trà Vinh giảm 16,7 nghìn tấn; Bến Tre và Thừa Thiên - Huế cùng giảm 17,3
nghìn tấn; Quảng Trị giảm 10,7 nghìn tấn; Cà Mau giảm 9,8 nghìn tấn; An Giang
giảm 8,9 nghìn tấn. Riêng vụ thu đông 2013, ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long
tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Diện tích gieo trồng đạt 626,4 nghìn
ha, tăng 99 nghìn ha, năng suất đạt 51,7 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha; sản lượng đạt 3,2
triệu tấn, tăng 578,8 nghìn tấn.
Diện tích gieo trồng lúa mùa đạt 1985,4 nghìn ha, tăng 7,6 nghìn ha so
với vụ mùa năm 2012 nhờ chủ động trong luân canh trồng lúa. Tuy nhiên, sản
lượng lúa mùa ước tính đạt gần 9,4 triệu tấn, giảm 104,4 nghìn tấn do năng suất
chỉ đạt 47,3 tạ/ha, giảm 0,7 tạ/ha. Sản lượng lúa mùa của các địa phương phía
Bắc đạt 5677,2 nghìn tấn, giảm 181,3 nghìn tấn; năng suất đạt 47,9 tạ/ha, giảm
1,6 tạ/ha. Sản lượng lúa mùa của các địa phương phía Nam đạt 3706,3 nghìn
ha, tăng 76,9 nghìn tấn, riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng 67,6 nghìn
tấn.
Sản xuất cây vụ đông ở các tỉnh phía Bắc tăng so với năm trước, trong
đó lạc đạt 492,6 nghìn tấn, tăng 5,2%; vừng đạt 33,2 nghìn tấn, tăng 9,9%; rau
các loại đạt 14,6 triệu tấn, tăng 5,2%, chỉ có đậu tương đạt 168,4 nghìn tấn,
giảm 3% ( theo thống kê của Bộ NN&PTNT, 2013).
1.5.2 Xuất, nNhập khẩu gạo ở Việt Nam.
Năm 2013, cả nước đã xuất khẩu gần 6,6 triệu tấn gạo, giảm hơn 1,4 triệu
tấn (tức giảm 17,76%) so với năm 2012, kim ngạch đạt gần 2,93 tỷ USD, giảm
20,36%, đây là mức xuất khẩu thấp nhất trong 3 năm qua. Với kết quả này, Việt
Nam đã giảm xuống xếp thứ 3 sau Ấn Độ và Thái Lan trên bảng tổng xếp xuất
khẩu gạo không đáp ứng được mục tiêu xuất khẩu gạo đã đề ra 7,5 triệu tấn hồi đầu
năm 2013; xuất khẩu gạo Việt Nam sụt giảm là do áp lực cạnh tranh cao và sụt
giảm nhu cầu của các thị trường truyền thống như Malaysia, Philippines và
Indonesia. Năm 2014, Việt Nam phấn đấu xuất khẩu 7 triệu tấn gạo [29].
Các thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam trong năm 2013 gồm
Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, Hồng Kông và Bờ biển Ngà. Trung
Quốc vẫn là nước nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam trong năm 2013. Trong
năm 2013, Trung Quốc nhập khẩu hơn 2,15 triệu tấn gạo, với trị giá 901,86 triệu
USD, tăng 3,21% về khối lượng và 0,38% về giá trị, chiếm 30,83% tổng kim
ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Nhìn chung năm 2013, xuất khẩu gạo sang đa số các thị trường bị sụt giảm
so với năm 2012; trong đó một số thị trường sụt giảm mạnh như: Indonesia (giảm
83,13% về lượng và giảm 80,08% về kim ngạch); Senegal (giảm 74,65% về lượng
và giảm 73,6% về kim ngạch); Philippines (giảm 54,64% về lượng và giảm
52,57% về kim ngạch); Đài Loan (giảm 53,29% về lượng và giảm 49,46% về kim
ngạch).
Tuy nhiên, xuất khẩu sang một số thị trường vẫn đạt mức tăng trưởng cao
trên 100% về lượng và kim ngạch như: xuất sang Nga (tăng 495,8% về lượng và
tăng 458,73% về kim ngạch); Ucraina (tăng 224,56% về lượng và tăng 177,04% về
kim ngạch); U.A.E (tăng 121,22% về lượng và tăng 113,14% về kim ngạch); Hà
Lan (tăng 241,85% về lượng và tăng 145,62% về kim ngạch) và Ba Lan (tăng
156,87% về lượng và tăng 97,04% về kim ngạch) (theo thống kê của Bộ
NN&PTNT, 2013)
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu lúa chất lượng cao
Lúa chất lượng là giống lúa không những có kích thước, hình dạng thon dài
mà còn có phôi nhũ, hàm lượng amyloza cao và đặc biệt các giống lúa chất lượng
có mùi thơm đặc trưng.
2.1 Các chỉ tiêu đánh giá lúa chất lượng
Các nhà chọn giống ở viện Nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) chia các chỉ tiêu
đánh giá chất lượng thành 4 nhóm:
-Nhóm: Chất lượng xay xát: Tỉ lệ gạo xay, tỉ lệ gạo trắng, tỉ lệ gạo nguyên, tỉ
lệ tấm, độ bạc bụng.
-Nhóm 2: Chất lượng thương phẩm: Kích thước hạt, màu sắc, độ trong nội
nhũ.
-Nhóm 3: Chất lượng dinh dưỡng: Hàm lượng tinh bột (amylase,
amylopectin), hàm lượng protein, hàm lượng lipid, đường, axit amin, vitamin, chất
khoáng.
-Nhóm 4: Chất lượng ăn uống: Nhiệt hóa đồ, độ bền thể gen, mùi thơm, độ
trắng, độ bong, độ dẻo, độ ngon của cơm.
2.12 Tình hình nghiên cứu lúa và chọn tạo lúa chất lượng cao trên thế
giới.
Trong sản xuất nông nghiệp, giống là tư liệu sản xuất quan trọng không kém
gì đất đai, phân bón và công cụ sản xuất. Người dân Việt Nam đã đúc kết thành
câu ngạn ngữ: Nhất nước nhì phân, tam cần, tứ giống. Qua đó cho thấy giống cây
trông nói chung và giống lúa nói riêng có tầm quan trọng như thế nào.Vì thế việc
nghiên cứu chọn lọc, lai tạo giống đã được các nhà khoa học, các Viện nghiên cứu
và các trường đại học về nông nghiệp ưu tiên hàng đầu. Vào đầu những năm 1960,
Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế (IRRI) đã được thành lập tại Losbanos, Laguna,
Philippin. Sau đó các viện nghiên cứu nông nghiệp quốc tế khác cũng được thành
lập ở các châu lục và tiểu vùng sinh thái khác nhau như IRAT, EAT, CIAT,
ICRISAT. Tại các viện này việc chọn lọc và lai các giống lúa đã được ưu tiên hàng
đầu [14]. Chỉ tính riêng Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế (IRRI) cũng đã lai tạo và
đưa ra sản xuất hàng nghìn giống lúa các loại tiêu biểu là các giống như: IR5, IR6,
IR8, IR30, IR34, IR64, Jasmin… đặc biệt là 2 giống IR64 và Jasmin là những
giống có phẩm chất gạo tốt, được trồng nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Hiện nay viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu chọn tạo ra các giống có
năng suất siêu cao có thể đạt 13 tấn/vụ đồng thời tập trung vào nghiên cứu chọn tạo
các giống lúa có chất lượng cao (giàu vVitamin, giàu protein, giàu lLisine, có mùi
thơm…) để vừa hỗ trợ các nước giải quyết vấn đề an ninh lương thực, vừa đáp ứng
đủ nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng (Cada,E.C,1997) [23].
Trung Quốc là 1 nước trồng lúa hàng đầu thế giới nên công tác chọn giống
đã được chú trọng đặc biệt. Vào những năm 60 và 70 của thế kỷ trước, Trung Quốc
đã cho ra đời hàng loạt các giống lúa có năng suất cao, phẩm chất tốt như: Đoàn
kết, Bao Thai, Trân Châu Lùn, Mộc Tuyền [54], [37] … các giống này cũng đã
nhập vào Việt Nam và cho tới nay nhiều giống vẫn được một số địa phương gieo
trồng vì chất lượng gạo tốt, phù hợp với điều kiện gieo trồng và đất đai của địa
phương. Bước vào đầu những năm 1970, Trung Quốc đã thử nghiệm và lai tạo
thành công các giống lúa lai 3 dòng và gần đây là các giống lúa lai 2 dòng có đặc
tính ưu việt hơn hẳn về năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu sâu bệnh. Có
thể nói Trung Quốc là nước đi tiên phong trong lĩnh nghiên cứu và ứng dụng lúa
lai ra sản xuất đại trà. Nhờ đó làm tăng năng suất, sản lượng lúa của Trung Quốc
lên gấp đôi trong vòng 3 thập kỉ qua, góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho 1
nước có hơn 1,3 tỉ dân [62].
Ấn độ là một trong những nước trồng lúa với diện tích đứng hàng đầu thế
giới. Ấn độ cũng là một nước đi đầu trong công cuộc cách mạng xanh lần thứ nhất
về cải tiến giống lúa. Viện nghiên cứu giống lúa trung ương của Ấn Độ được thành
lập vào năm 1946 tại Cuttuck bang Orisa, đóng vai trò đầu tàu trong việc nghiên
cứu, chọn tạo các giống lúa mới phục vụ sản xuất. Ngoài ra, tại các bang của Ấn
Độ đều có các cơ sở nghiên cứu, trong đó các cơ sở quan trọng ở Madrasheydrabat,
Kerala, hoặc Viện nghiên cứu cây trồng Á nhiệt đới (IRRISAT). Ấn độ cũng là
nước có những giống lúa chất lượng cao nổi tiếng thế giới như: Basmati,
Brimphun, trong đó giống Basmati có giá thị trường tới 850USD/tấn (trong khi
giống gạo thơm Thái Lan nổi tiếng trên thế giới cũng chỉ có giá 460USD/tấn,
(Nnông thôn 2004).
Từ lâu Thái Lan đã nổi tiếng lá nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Nước
này cũng được thiên nhiên ưu đãi với những vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu.
Các trung tâm nghiên cứu giống lúa được thành lập ở nhiều tỉnh và khu vực.
Nhiệm vụ của các cơ sở này là tiến hành chọn lọc, phục tráng, lai tạo ra các giống
lúa tốt phục vụ cho nội tiêu và đặc biệt là xuất khẩu. Tiêu chí chọn giống lúa của
các nhà khoa học Thái Lan là các giống lúa có thời gian sinh trưởng từ trung bình
đến dài ngày (vì phần lớn ở Thái Lan chỉ trồng được 1 vụ/năm) hạt gạo dài và
trong, ít gãy dập khi xay sát, có hương thơm, coi trọng chất lượng hơn là năng
suất…Điều này cho chúng ta thấy tại sao giá gạo xuất khẩu của Thái Lan luôn cao
hơn Việt Nam. Theo hướng này, Thái Lan đã tạo ra các giống lúa có chất lượng nổi
tiếng thế giới, trong đó phải kể đến các giống như: Khao dawk mali, Jasmin. Các
giống lúa này cũng được gieo trồng ở Việt Nam và các nước khác.[48]
Ở khu vực Đông Á còn có các nước trồng lúa quan trọng khác như: Hàn
Quốc, Bắc Triều Tiên, Đài Loan, các giống lúa ở đây thuộc loại Japonica, có hạt
gạo tròn, cơm dẻo và có chất lượng cũng rất tốt. Các giống lúa nổi tiếng của khu
vực này phải kể đến như: Ton gil (Hàn Quốc), Tai chung 1, Tai chung 2, Gang
changi, Ddeee-Geo-Gen ( Đài Loan)…[49]
2.3 Tình hình nghiên cứu và chọn tạo lúa chất lượng cao ở Việt Nam.
Ngày nay nước ta đã xuất khẩu gạo sang hơn 85 nước trên thế giới, trong
tương lai xuất khẩu gạo vẫn là tiềm năng lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, chất lượng
gạo của chúng ta chưa cao do bộ giống lúa của chúng ta chưa đa dạng, chưa đáp
ứng với nhu cầu sản xuất, trong đó xu hướng yêu cầu chất lượng gạo cao trên thị
trường ngày càng tăng. Hiện nay cùng với nhiều giống lúa đặc sản truyền thống,
nhiều giống lúa có chất lượng cao cũng đang được nhập khẩu và lai tạo trong nước
nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và nâng cao giá trị hàng hóa của cây lúa [9].
Việc chọn tạo giống lúa ở Việt Nam được khởi xướng từ những năm 60 của
thế kỷ XX và được tập trung chủ yếu vào lúa tẻ (Indica). Các phương pháp chọn
tạo giống lúa chất lượng cao bao gồm: Nhập nội, lai tạo, gây đột biến gen, khai
thác tế bào soma đã được thực hiện tại Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt
Nam, Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm, Vviện Nghiên cứu lúa Đồng Bằng
sông Cửu Long, Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Thu thập đánh giá nguồn vật liệu giống lúa địa phương phục vụ chọn tạo
giống lúa cho vùng canh tác nhờ nước trời vùng núi Tây Bắc Việt Nam của Học
viện Nông nghiệp Việt Nam với phương pháp điều tra, thu thập, phân loại giống
địa phương và chọn lọc cá thể theo chu kỳ để làm vật liệu di truyền lai tạo giống
lúa cho vùng núi nước trời phía Bắc Việt Nam như G4, G6, G10, G13, G14, G19,
G22, G24 [18], [19], [22].
Các giống lúa chất lượng cao truyền thống đã và đang được trồng rộng rãi ở
nước ta có thể kể đến là: Tám Xoan, Tám Ôn ở Tiền Hải (Thái Bình), Hải Hậu
(Nam Định), Phú Xuyên (Hà Nội); Tám Canh ở Hải Hậu; Di Hương ở An Lão
(Hải Phòng), Lâm Thao (Phú Thọ); Nếp Hoa Vàng ở Vĩnh Phúc; Nếp Rồng ở Hải
Dương; Nếp Bạc ở Hưng Yên; Nàng Thơm Chợ Đào ở Cần Được (Long An).
Trong đó, Nàng Thơm Chợ Đào và Tám Xoan là hai giống được trồng rộng rãi
nhất.
Nghiên cứu các giống lúa phẩm chất cao phục vụ Đđồng bằng sông Cửu
Long của Viện Nghiên cứu lúa Đồng bằng sông Cửu Long với phương pháp ứng
dụng công nghệ sinh học (marker phân tử, nuôi cấy túi phấn) kết hợp với khảo
nghiệm đồng ruộng để chọn tạo giống lúa ngắn ngày, năng suất cao, chất lượng
gạo tốt như OM1490, OM2517, OM3536, OM2717, OM2718, OM3405, OM4495,
OM4498, OM2514 trồng rộng rãi ở vùng sản xuất ngập lũ Đồng bằng sông Cửu
Long [33].
Nghiên cứu chọn giống lúa chống chịu khô hạn của Viện Cây lương thực
thực phẩm với phương pháp thu thập nguồn vật liệu giống lúa cạn chịu hạn địa
phương và các dòng lúa cải tiến nhập nội từ IRRI với phương pháp lai hữu tính kết
hợp với gây đột biến để tạo ra các tổ hợp lai có khả năng chịu hạn khá và năng suất
cao như CH2, CH3, CH 133, CH5 trồng rộng rãi ở vùng Trung du miền núi phía
Bắc, Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên [34].
Phần III. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu.
- Gồm 5 dòng lúa tẻ cẩm mới kýí hiệu: LĐ1, LĐ2, LĐ3, LĐ4, LĐ5.
- Đối chứng: BT7 ( là giống Bắc Thơm số 7 (BT7).
3.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.2.1 Địa điểm
Đề tài được thực hiện tại khu thí ngiệm đồng ruộng, Bộ môn Di truyền và
Cchọn giống cây trồng - khoa Nông học - Học vViện Nông nNghiệp Việt Nam
3.2.2 Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu Vvụ Mùa 2014
3.3 Nội dung và Pphương pháp nghiên cứu
3.3.1 Nội dung
- Đánh giá các đặc điểm nông sinh học của các dòng tẻ cẩm mới, tham gia
thí nghiệm
- Đánh giá khả năng chống chịu 1 số sâu, bệnh hại thông thường trên đồng
ruộng (sâu đục thân, bạc lá…)
- Đánh giá năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống tham
gia thí nghiệm .dòng tẻ cẩm mới
3.3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.3.2.1 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm : Bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh, 3 lần nhắc lại, mỗi ô
10m
2
, cấy 1- dảnh/khóm, khoảng cách 15cm x 20cm.
Bón phân và chăm sóc đại trà thực hiện theo quy trình của bộ môn Di
truyền- Chọn giống, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
-Phòng trừ sâu bệnh: theo dõi tình hình sâu hại và áp dụng các biện pháp
phòng trừ theo phương pháp phong trừ sâu hại tổng hợp (IPM), cho điểm theo
thang điểm IRRI.
Các chỉ tiêu theo dõi : Theo thang điểm của IRRI (, năm 2002)
Các đặc điểm nông sinh học được đánh giá theo thang điểm của IRRI
standard evaluation system for rice, 2002. Mỗi giống dòng theo dõi 10 cây, theo
dõi 7 ngày/1 lần.
- Các giai đoạn sinh trưởng:
+ Ngày bén rễ hồi xanh: Khi có 80% số cây bén rễ hồi xanh
+ Ngày bắt đầu đẻ nhánh, đẻ rộ, kết thúc đẻ nhánh
+ Ngày trỗ 10%, 50%, trỗ hoàn toàn
+ Ngày chínchín
- *Đặc điểm giai đoạn mạ:
+ Gieo riêng từng dòng, cắm thẻ ở mỗi dòng, quây nilon chống chuột.
+ Khi mạ được 3 lá thì bắt đầu đánh dấu số lá: lá thứ 3 đánh dấu một
chấm sơn trắng, lá thứ 5 đánh dấu 2 chấm, lá thứ 7 đánh dấu 3 chấm, theo dõi
đến khi ra lá đòng ghi số liệu số lá/ thân chính, mỗi dòng đánh dấu 15 cây để
theo dõi.
+ Đo chiều cao cây mạ: Đo chiều cao từ mặt đất đến mút lá cao nhất
+ Số lá mạ
+ Màu sắc lá mạ
+ Tình hình sâu bệnh thời kì mạ
-*Thời kì lúa
- Theo dõi đặc điểm hình thái trong quá trình sinh trưởng của cây:
- Động thái sinh trưởng (theo dõi 10 cây được cắm que cố định, 7 ngày
theo dõi 1 lần)
+ Động thái đẻ nhánh: đếm số nhánh của 10 cây theo dõi
+ Động thái tăng trưởng chiều cao: đo từ mặt đất vuốt lá đến đỉnh cao
nhất
+ Động thái ra lá trên thân chính: đánh dấu sơn từ lá thứ 3 đến lá đòng.
-Chỉ tiêu khác
-*Chiều dài, cChiều rộng, góc lá đòng
-+Chiều dài lá đòng: Đo từ gối lá đến mút đầu lá
+- Chiều rộng lá đòng: Đo từ mép lá bên này đến mép lá bên kia chỗ
rộng nhất.
- +Góc lá đòng : Tính từ góc của lá đòng so với thân chính.
- *Chiều dài, chiều rộng hạt thóc, hạt gạo.
=>- Tính tỉ lệ D/R : =
+- Chiều dài ,chiều rộng hạt gạo
=>Tính tỉ lệ D/R : =
- + Đánh giá mức độ nhiễm sâu bệnh và điều kiện bất thuận : khi
xuất hiện sâu bệnh ghi ngày xuất hiện, mức độ (cho điểm) , sau đó
phun thuốc phòng trừ.
+Đánh giá mức độ nhiễm sâu bệnh trong suốt thời kì sinh trưởng phát
triển của cây lúa với các đối tượng gây hại chủ yếu :sâu đục thân, bệnh bạc
lá,đạo ôn, khô vằn
- *Các yếu tố cấu thành năng suất.
+-Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất ( Khi cây lúa chín vàng tiến
hành lấy 10 cây ( cả gốc) ở 5 điểm chéo góc mỗi điểm lấy 2 cây, rửa sạch gốc,
đeo thẻ, phơi khô sau đó đo đếm các chỉ tiêu sau:
+ Chiều cao cây cuối cùng (cm): Đo từ vết cắt ở gốc đến mút đầu bông,
không kể râu