Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, là đạo đức, là văn minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.8 KB, 18 trang )

Chuyên đề:
TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
ĐẢNG TA THẬT SỰ TRONG SẠCH VỮNG MẠNH, LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ
VĂN MINH

MỞ ĐẦU
Ngày 7/11/2006, Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị số 06 – CT/TW về tổ
chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Mục đích: nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội
dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng và tấm gương đạo đức Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong Đảng, trong xã hội về ý thức tu dưỡng,
rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là trong cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh Nâng cao đạo
đức cách mạng, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện
thắng lợi nghị quyết đại hội X của Đảng. Đây là đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn,
được tiến hành trong thời gian dài với nhiều nội dung.
Tổ chức học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo các chủ đề
là một nội dung quan trọng trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
2007: Nâng cao nhận thức về đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, tổ chức động viên toàn Đảng, toàn xã hội tích cực tham gia cuộc vận
động.
Chuyên đề học tập: Tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân” và tác phẩm Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
2008: Đẩy mạnh toàn diện cuộc vận động, đưa nội dung đi vào chiều
sâu. Học tập gương Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành tiết kiệm, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu.
- Chuyên đề: Tư tưởng tấm gương đạo đức HCM về thực hành tiết kiệm,
chống tham ô, lãng phí, quan liêu
- Thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh


2009: Kỷ niệm 40 năm thực hiện Di chúc của Bác, đẩy mạnh cuộc vận
động, nhấn mạnh nội dung thực hiện tư tưởng HCM "Nâng cao ý thức trách
nhiệm, hết lòng, hết sức phục sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân".
Tiếp theo các chủ đề học tập năm 2007, 2008, 2009, chủ đề năm 2010: Kỷ
niệm 80 năm thành lập Đảng, 120 năm ngày sinh Bác Hồ, chuẩn bị ĐH XI của
Đảng, chú ý nội dung: học tập và làm theo tư tưởng HCM xây dựng Đảng ta thật
sự trong sạch, vững mạnh.
Trong đó việc tổ chức học tập chuyên đề “Tư tưởng và tấm gương đạo đức
HCM về xây dựng Đảng ta thật sự TSVM, là đạo đức, là văn minh”gắn với công
tác tổ chức và tiến hành ĐH Đảng các cấp là một trong những nội dung quan
trọng trong kế hoạch thực hiện CVĐ năm 2010.
Cuối 2010 đến đầu 2011: Tổng kết cuộc vận động.
1
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I/ Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh về “XD Đảng ta thật sự TSVM, là đạo đức, là
văn minh”.
1. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và tư tưởng HCM đối với thắng
lợi của CMVN.
- Thực tiễn 80 năm qua đã khẳng định: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách Việt Nam. (phân tích thêm
về thực tiễn cách mạng VN trước khi có Đảng ra đời
Trước sự ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp đã có nhiều phong trào yêu
nước nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau: như Phong trào Cần Vương – PT
yêu nước theo ý thức hệ phong kiến do giai cấp phong kiến lãnh đạo với cuộc
khởi nghĩa của Phan Đình Phùng(1896); Phong trào nông dân mà nổi lên là cuộc
khởi nghĩa Yên thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại
vào năm 1913; Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa
Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại. Các phong trào này thất

bại do thiếu đường lối đúng đắn. CM VN lúc này chìm trong cuộc khủng hoảng
sâu sắc về đường lối cứu nước. Nhưng từ khi có Đảng (3/2/1930), dưới sự lãnh
đạo của Đảng dân tộc VN đã giành được những thành tựu vĩ đại trong lịch sử.
Như vậy, sức mạnh to lớn của dân tộc VN chỉ phát huy cao độ khi được tập hợp,
đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN.
- Chủ tịch HCM là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng CSVN. Sự
nghiệp cách mạng của Người luôn gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, với vận mệnh của g/c công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc
VN.
- Thắng lợi của CMVN trong 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN
gắn với công tác xây dựng Đảng, trước hết từ sự kiên định nền tảng tư tưởng là
CN Mác – Lênin, tư tưởng HCM và những nguyên lý xây dựng Đảng theo tư
tưởng HCM, từ công tác XD Đảng TSVM, thực sự là đạo đức, là văn minh, xứng
đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
2. Quán triệt tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược cơ bản, lâu dài và thực
tiến trước mắt của công tác xây dựng Đảng
- XD Đảng luôn là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiêp cách mạng của
Đảng vì Đảng CSVN là Đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo cách mạng VN. Sự
nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc trước đây, công cuộc xây
dựng và bảo vệ TQ theo đường lối đổi mới ngày nay luôn đòi hỏi Đảng phải
TSVM, có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, đủ năng lực lãnh đạo, đáp ứng tốt yêu
cầu của mỗi giai đoạn cách mạng.
- Trong cuộc đấu tranh giữa CNXH và CNTB, giữa CM và phản cách mạng
thì vấn đề trọng tâm, lĩnh vực diễn ra gay gắt nhất, quyết liệt nhất là vai trò lãnh
đạo của ĐCS và công tác XD Đảng. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống
phá cách mạng nước ta, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của ĐCS, đòi đa nguyên
đa đảng. Để đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đòi
2
hỏi Đảng ta phải vững mạnh, XD Đảng ta TSVM có ý nghĩa quyết định đến việc
bảo vệ chế độ chính trị, con đường phát triển của đất nước lên CNXH với mục

tiêu “Dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch HCM có ý nghĩa soi đường cho
Đảng ta xây dựng và trưởng thành. Học tập tư tưởng và tấm gương đạo đức HCM
về XD Đảng hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng
Đảng ta thực sự TSVM, qua đó làm tăng thêm niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước.
- Năm 2010 là năm diễn ra ĐH Đảng các cấp tiến tới ĐH XI của Đảng (vào
tháng 1/2011) là đợt sinh hoạt chính trị toàn diện, rộng lớn và sâu sắc. Việc học
tập tư tưởng, tấm gương đạo đức HCM về XD Đảng ta TSVM là dịp để các tổ
chức Đảng và toàn thể cán bộ, đảng viên ôn lại và nâng cao nhận thức lý luận về
XD Đảng, nhìn lại công tác XD Đảng trong nhiệm kỳ vừa qua, đánh giá đúng
những thành tựu, ưu điểm cũng như những khuyết điểm, hạn chế, nâng cao hơn
nữa tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác, đẩy mạnh công tác XD Đảng, góp phần
tích cực vào thành công của ĐH Đảng các cấp và ĐH XI của Đảng.
II/ Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta TSVM, “là
đạo đức, là văn minh”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng rất phong phú, thể hiện
qua các tác phẩm, các bài báo, các bài nói chuyện, trong đó tập trung vào những
điểm sau:
1. Đảng lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động:
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” tập hợp những bài giảng ở lớp huấn
luyện của Hội VN cách mạng thanh niên (1925 - 1927), chủ tịch HCM khẳng định
: cách mạng VN “trước hết phải có Đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh
mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt,… Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Chủ nghĩa mà người đề cập ở đây là chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong suốt
quá trình hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch HCM luôn nhất quán quan
điẻm đó. Chủ tịch HCM khẳng định “CN Mác – Lênin là chủ nghĩa chân chính

nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”
Chủ tịch HCM đã chú trọng giáo dục toàn Đảng vận dụng sáng tạo và phát
triển CN Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể. Học tập và vận dụng CN Mác –
Lênin như sau:
Một là phương pháp học tập, nhận thức, nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa
Mác – lênin phải luôn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, trình độ của từng đối
tượng. Hiểu CN M-LN là hiểu bản chất của vấn đề, không biến các quan điểm chủ
nghĩa M – LN thành cách công thức, phải hiểu đúng để hành động đúng.
Hai là, Phải vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin cho
phù hợp với từng lúc, từng nơi, từng lĩnh vực, từng đối tượng, đề phòng và khắc
phục cả giáo điều lẫn xa rời các nguyên lý cơ bản của CN Mác – Lênin.
3
Ba là, Thường xuyên tổng kết thực tiễn cách mạng, rút ra những bài học
kinh nghiệm cho mình và bổ sung, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ
nghãi Mác – Lênin.
Bốn là, Đấu tranh chống những luận điểm cơ hội, xuyên tạc, xét lại chủ
nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Năm là, dự trên cơ sở Chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng khối đoàn kết
trong phong trào cộng sản quốc tế, có lý có tình.
Quan điểm của Chủ tịch HCM về vấn đề này được phản ánh rõ nhất trong
bản Di chúc khi người mong Đảng ta “ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào
việc khôi phục lại khói đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng Chủ nghĩa
Mác – Lênin và Chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”.
2. Xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN). Suốt cả cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn kiên định quan
điểm và lập trường xây dựng ĐCSVN theo chủ nghĩa Mác - Lênin và rèn luyện
ĐCSVN theo hướng đó.
Vì vậy muốn xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, theo Người, trước

tiên là phải tuân thủ theo các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Vận dụng và
phát triển các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng vô sản kiểu mới do Lênin đề
ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu các nguyên tắc chủ yếu là:
a. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Đối với nguyên tắc này Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh những nội dung
sau:
Một là, Phải nhận thức rõ đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất
trong tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Thực hiện tốt hay kém nguyên tắc này có quan hệ đến sự tồn tại, phát triển
hay không phát triển của bất cứ tổ chức Đảng nào từ Trung ương đến chi bộ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng, thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ tạo thành sức mạnh
đoàn kết, thống nhất của Đảng.” Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh thì
chỉ như một người”.
Hai là, tập trung và dân chủ luôn đi đôi với nhau. Tập trung trên nền tảng
phát huy dân chủ thực sự ở trong Đảng, dân chủ là cơ sở của tập trung, dân chủ
dưới sự chỉ đạo của tập trung. Đó là hai vế thống nhất, chặt chẽ làm thành một
nguyên tắc, chúng không đối lập nhau.
Ba là, nội dung cơ bản của tập trung là: Thiểu số phải phục tùng đa số,
cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương, tất cả mọi đảng
viên phải chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết của tổ chức Đảng. ĐV có quyền
4
bảo lưu ý kiến của mình khác với ý kiến của đa số đã quyết nghị, nhưng phải có
trách nhiệm thực hiện Nghị quyết, không vì thế mà tuyên truyền ý kiến riêng và
không phục tùng nghị quyết. Tổ chức Đảng phải nghiên cứ, xem xét lại ý kiến bảo
lưu của cá nhân đv, không định kiến.
Bốn là, Nội dung cơ bản của dân chủ là: Phải mở rộng và thực hành dân
chủ trong Đảng, làm cơ sở để phát huy dân chủ ngoài xã hội. Phải thật sự mở rộng
dân chủ để tất cả mọi đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình.
Năm là, Đề phòng và chống các biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, hách
dịch, chụp mũ, trù dập ý kiến của người khác, đồng thời cũng cần đề phòng và

chống những biểu hiện của dân chủ “quá trớn”.
b/ Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Xây dựng Đảng, cùng với nguyên tắc tập
trung dân chủ Người còn đề cập tới nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách.
Hồ Chí Minh khẳng định :'Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là
tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung' .Theo
quan điểm của Người, chỉ có tập thể lãnh đạo mới huy động được tất cả trí tuệ của
đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc, vì "
một người dù khôn ngoan tài giỏi đến mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng
chỉ trông thấy, xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông
thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy cần phải có nhiều người,
nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông
thấy rõ mặt khác của vấn đề đó, góp kinh nghiệm và xem xét của nhiều người thì
vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt và có thấy rõ khắp mọi mặt thì vấn đề mới
giải quyết chu đáo khỏi sai lầm". Nhưng theo Người, " tập thể lãnh đạo" mới chỉ
là một vế. Người cho rằng : " Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn
luôn đi đôi với nhau". Bởi lẽ " Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái
tệ người này uỷ cho người kia, người kia uỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi
hành. Như thế thì việc gì cũng không xong. Tục ngữ có câu " Nhiều sãi không ai
đóng cửa chùa" là như thế".
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách để chống dựa dẫm tập thể, không dám
làm, không dám chịu trách nhiệm; đồng thời chống độc đoán, cá nhân, coi thường
tập thể.
Tập thể lãnh đạo là bảo đảm và phát huy dân chủ trong Đảng nhưng hoàn
toàn xa lạ với kiểu dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán trên tinh thần trách
nhiệm cao, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước công việc của cá nhân cán bộ,
đảng viên đã được tổ chức Đảng phân công phụ trách. Đồng thời cá nhân phụ
trách cũng hoàn toàn xa lạ với kiểu độc đoán, độc tài, coi thường tập thể, tổ chức
đảng; không được lợi dụng, vin cớ “cá nhân phụ trách” để lấn át tập thể, làm thiệt
hại lợi ích của tổ chức Đảng.

5
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn lưu ý rằng, không phải bất kỳ việc gì, thậm chí
những việc nhỏ, một người có thể giải quyết được, cũng đưa ra tập thể bàn bạc;
nếu vậy thì rất máy móc, kết quả là họp hành mất thì giờ. Cá nhân phụ trách
không phải là sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Việc thực hiện nguyên tắc này càng quan trọng trong điều kiện Đảng cầm
quyền, nhiều đảng viên có chức có quyền.
c/ Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Về nguyên tắc tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh đây là vũ khí sắc
bén nhất để làm cho Đảng ta trong sạch vững mạnh và là quy luật phát triển của
Đảng.
Mục đích của tự phê bình và phê bình là làm cho phần tốt trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất đi. Tự phê bình và phên bình
trong Đảng là để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ và tăng
cường đoàn kết thông nhất trong nội bộ Đảng.
Người nhận thức sâu sắc rằng, tuy Đảng ta gồm những người có tài, có đức,
phần đông là những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất ,
nhưng " không phải là người người đều tốt, việc việc đều hay", do vậy trong Đảng
phải luôn luôn tự phê bình và phê bình, mà phê bình và tự phê bình " phải ráo
riết", " triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt". Cách phê bình cũng
phải thành thật, giàu lòng nhân ái, khách quan. Thái độ phê bình phải có văn hoá,
mang tính chất xây dựng chứ không phải nói xấu nhau. Những người bị phê bình
thì phải vui vẻ nhìn nhận để sửa chữa. Được như vậy thì trong Đảng sẽ không có
bệnh mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng.
Chính vì tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình trong Đảng cho nên
trong Di chú, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn lại cho toàn Đảng: Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phên bình là
cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.
d/Kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Đảng CSVN là một tổ chức chính trị có tính kỷ luật cao. Sức mạnh của một

tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên còn bắt nguồn từ ý thức tổ chứ kỷ luật
nghiêm minh, tự giác. Tất cả mọi đảng viên đều phải chấp hành Điều lệ Đảng,
bình đẳng trước , trước Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định,
nghị quyết của Đảng. Chủ tịch HCM viết: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi
tiến đánh chỉ như một. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là
nghiêm túc và tự giác. Các đ/c chúng ta cần phải ra sức gữ gìn kỷ luật sắt của
Đảng”
6
Tính kỷ luật nghiêm minh, tự giác đòi hỏi tất cả đảng viên, từ những đảng
viên không giữ chức vụ gì đều phải gương mẫu trong công tác và trong cuộc sống
nói chung. Uy tín chung của Đảng và của mỗi đảng viên trong nhân dân bắt nguồn
từ sự gươgn mẫu, tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, quy định của các tổ chức, đoàn thể nhân dân mà đảng viên đó tham gia.
e/ Đoàn kết, thống nhất trong Đảng
Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc VN là lịch sử của các
cuộc đấu tranh chống chọi với thiên nhiên và các cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù
xâm lược lớn mạnh hơn ta rất nhiều lần. và đoàn kết đã trở thành nguyên lý chiến
thắng của dân tộc Việt Nam, nguyên lý ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết
lại thành:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công
Mỗi khối đoàn kết đều có vị trí và vai trò quan trọng đối với tiến trình lịch
sử VN, nhưng khối đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn hết, vì Đảng có vai trò
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước. Có rất nhiều nguyên nhân làm nên
những thành tựu vĩ đại của cách mạng Việt Nam, trong đó nguyên nhân quan
trọng nhất là do Đảng ta đã tuân thủ nguyên tắc. thống nhất trong Đảng.
Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của
dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn
két nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Để thực hiện hiện nguyên tắc này, Người lưu ý: đoàn kết, thống nhất trong
Đảng phải dựa trên nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, điều lệ, đường lối quan điểm,
Nghị quyết của tổ cức Đảng các cấp; “Có lý có tình”. Đồng thời muốn đoàn kết
thống nhất phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống
chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác.
Trong tình hình quốc tế có nhiều biến động phức tạp hiện nay, kẻ thù chưa
từ bỏ dã tâm chống phá CNXH, lợi dụng khó khăn, khuyết điểm để bôi nhọ, nói
xấu Đảng ta, Nhà nước ta, chế độ ta. Chúng dùng nhiều âm mưu, thủ đoạn, lợi
dụng, mua chuộc, kích động, nói xấu, gây nghi kỵ, chia rẽ đội ngũ cán bộ, đảng
viên, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đoàn kết thống nhất trong Đảng,
làm giảm uy tín của Đảng, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” thì tư tưởng
đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết thống nhất trong Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
càng có ý nghĩa chỉ đạo to lớn.
3. Quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có
tài để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”.
Xây dựng Đảng về mặt đạo đức cách mạng là một nội dung đặc sắc trong tư
tưởng HCM về Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển rất cơ bản và sáng tạo
của Hồ Chí Minh đối với học thuyết của Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp vô
7
sản. Để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”, phải quan tâm xây dựng đội ngũ
đảng viên của đảng.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ
Về vị trí của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là dây chuyền
của bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ là người đưa đường lối,
chính sách của Đảng và nhà nước ta đến với nhân dân, là người vận động mọi
người thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như
chủ trương của các đoàn thể nhân dân. Đồng thời đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ để hiểu rõ, “để đặt chính sách cho đúng”.
Về vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh coi " cán bộ là cái gốc của mọi công

việc", " muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
Do vai trò, vị trí quan trọng của người cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng,
do đó Hồ Chí Minh đã đề ra những yêu cầu về tư cách của đội ngũ cán bộ, đảng
viên gồm:
- Suốt đời phấn đấu hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng
- Tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng
- Đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và trước hết
- Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng
- Có đời tư trong sáng, là một tấm gương sáng trong cuộc sống để nhân dân
tin và noi theo.
Yêu cầu về phẩm chất, năng lực:
Về phẩm chất:
- Có đạo đức cách mạng - Đây là yêu cầu đầu tiên cần phải có của người
cán bộ.
- Phải tuyệt đối trung thành với cách mạng.
Về năng lực:
- Có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng,
có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi;
- Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân;
- Luôn luôn học hỏi lý luận Mác - Lênin, học tập nâng cao trình độ chuyên
môn kỹ thuật.
- Phải có phong cách công tác tốt, sâu sát, tỉ mỉ, chống bệnh chủ quan, tác
phong quan liêu, đại khái
Đồng thời với những quan điểm về cán bộ, Hồ Chí Minh cũng nêu ra
những yêu cầu đối với công tác cán bộ. Đó là phải " hiểu và đánh giá đúng cán
bộ" để lựa chọn và sử dụng đúng cán bộ. Muốn vậy phải có những chuẩn mực
phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, hoàn toàn công minh,
khách quan;
Phải " khéo dùng cán bộ", “dùng đúng người đúng việc” tức là đặt người
đúng việc, kết hợp cán bộ trẻ với cán bộ già;

Chống chủ nghĩa biệt phái, địa phương cục bộ trong chính sách cán bộ,
tránh đầu óc phe phái họ hàng; Phải " chiêu hiền đãi sĩ", " cầu người hiền tài", "
có gan cất nhắc cán bộ". Xem xét kỹ trước khi cất nhắc cán bộ, nhưng sau khi đề
bạt cần phải kiểm tra giúp đỡ.
4.Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
8
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, sức mạnh của Đảng chính là bắt nguồn từ mối
liên hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Đảng ở trong dân, dân trong Đảng. Sự
nghiệp cách mạng là của dân, do dân và vì dân. Mọi thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng đều bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân được Đảng dẫn lối chỉ đường.
Đảng là người đại diện trung thành và đầy đủ nhất lợi ích sống còn và nguyện
vọng chân chính của nhân dân. Đảng lấy phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân làm
mục đích cao nhất của mình.
Người đề ra những yêu cầu cụ thể để tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân:
Một là, Đảng phải thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu rõ
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; kiên quyết khắc phục bệnh quan liêu trong tổ
chức Đảng và Đảng viên
Hai là, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tới thật trung thành của
nhân dân.
Ba là, Đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với nhân dân
Bốn là, Thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng
5. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn
- Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân Đảng là yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
- Trong điều kiện cách mạng chuyển sang giai đoạn mới cần quan tâm đến
công tác xây dựng Đảng . Trước lúc qua đời, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn Đảng ta một trong những việc phải làm sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước thắng lợi là “Theo ý tôi, việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn
lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn

nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, làm được
như vậy thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng
lợi”.
Đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn trên những nội dung sau đây:
Một là, Tăng cường công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, phương pháp lãnh đạo, đạo đức, lối sống…
Hai là, luôn luôn chú ý đề phòng và khắc phục những biểu hiện tiêu cực,
thoái hoá, biến chất; giữ gìn Đảng thật trong sạch, vững mạnh. Đảng không sai
lầm, khuyết điểm, mà vấn đề quan trọng nhất đối với sự tồn tại và phát triển của
Đảng là nhận biết sai lầm, khuyết điểm để ra sức sửa chữa. Chủ tịch HCM bày tỏ
quan điểm trong tự đổi mới và chỉnh đốn Đảng khi đứng trước những khuyết
điểm: “một Đảng giấy khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một Đảng có gian
thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đò, vì đâu mà có khuyết điểm
đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ,
mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Ba là, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên để đội ngũ này luôn
luôn toàn tâm, toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Bốn là, Đảng phải vươn lên đáp ứng kịp yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ
mới. Để làm được việc đó, Đảng phải phát huy dân chủ trong nội bộ, phát huy và
tập hợp được trí tuệ của toàn Đảng, phấn đấu thực sự trở thành “đạo đức, văn
minh”.
9
III/ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
ĐẢNG TA TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, “LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN
MINH”.
1. Suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, xây dựng
trong sạch, vững mạnh.
Trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn chăm lo đến công tác xây dựng Đảng và Người đã để lại dấu ấn
cực kỳ quan trọng đối với sự ra đời và phát triển của Đảng. Thể hiện rõ trong các

điểm sau:
a. Sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, giữa lúc dân tộc ta đứng trước sự khủng hoảng về
đường lối cứu nước, thì ngày 5.6.1911, người thanh niên Nguyễn Tất thành (tức là
Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng
mới. Trong quá trình tìm con đường cứu nước, Người đã đi qua nhiều nước của
Châu Âu, châu Mỹ, Châu Phi và đã phát hiện ra chân lý: CNTB, CN đế quốc thực
dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc
cũng như ở các thuộc địa. tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc VN.Tại ĐH Đảng xã hội Pháp (tháng
2/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III (Quốc tế
Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập ĐCS Pháp, trở thành người
cộng sản đầu tiên của VN. Từ đây cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với
phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin, vạch ra phương hướng chiến lược cách mạng VN và chuẩn bị điều kiện để
thành lập Đảng CSVN.
Đầu năm 1930, Tại Hương Cảng (Trung Quốc), Người đã chủ trì Hội nghị
thành lập Đảng với cương lĩnh chính trị đúng đắn dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác –
Lênin cũng như điều kiện thực tế của VN và quốc tế, đưa CM VN đi theo con
đường cách mạng vô sản, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
chủ nghĩa cộng sảN.
Đảng cộng sản VN ra đời có ý nghĩa vô cùng to lớn. Đảng ra đời đã chứng
tỏ công lao to lớn của Chủ tịch HCM đối với cách mạng VN. Đảng CSVN ra đời
không những là kết quả tất yếu của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác – Lênin với phog
trào công nhân và phong trào yêu nước, mà còn và đồng thời là kết quả của cả quá
trình hoạt động tích cực, đầy hiệu quả của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
b/ Chăm lo công tác xây dựng Đảng, xác định đúng đường lối cách mạng
giải phóng dân tộc để Đảng hàon thành nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh
lật đổ ách thống trị của thực dân phong kiến, xyd ựng chính quyền dân chủ nhân

dân, trong giai đoạn 1930 – 1945.
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, tháng 1/1941, NGười về nước trực
tiếp cùng Trung ương đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức, lãnh đạo toàn
dân đấu tranh giành chính quyền trong CM tháng 8/1945, đạp tan chế độ áp bức
bóc lột của các thế lực ngoại xâm, xoá bỏ chế độ quân chủ phong kiến chuyên
chế, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà – nhà nước dân chủ đầu tiên ở
Đông nam Châu Á. Với thắng lợi của cách mạng Tháng tám – 1945 dẫn tới sự ra
1
đời của nhà nước VNDCCH (nay là nhà nước CHXHCNVN), Đảng ta đã trở
thành Đảng cầm quyền.
c. Đề ra đường lối, chiến lược, sách lược và chèo lái con thuềyn cách mạng
trong điều kiện cực kỳ khó khăn, phức tạp sau khi giành được chính quyền những
năm 1945 – 1946 để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng.
- Cùng toàn Đảng xây dựng đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc;
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng
chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng và bảo vệ miền
Bắc, giải phóng miền nam, hoàn thành sự nghiệp cách mạng của dân tộc dân chủ
nhân dân trong phạm vi cả nước; cả nước đi lên xây dnựg CNXH.
2. Luôn luôn gương mẫu rèn luyện phẩm chất, tư cách của một đảng
viên, làm tròn nhiệm vụ được Đảng giao phó.
Chủ tịch HCM nêu một tấm gươgn sáng suốt đời phấn đấu, hy sinh cho sự
nghiệp xây dựng Đảng ta trong sạch vững mạnh. Trong tấm gươgn đó nổi bật là:
Một là, tấm gương tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn thực hiện một cách nghiêm chỉnh các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, coi kỷ luật cảu Đảng là kỷ luật sắt và tự
giác. Người thực hiện đầy đủ,xuất sắc nhiệm vụ của một người đảng viên theo
đúng Điều lệ đảng quy định và theo đúng nghị quyết, quyết định của tổ chức
Đảng, không vin vào cớ mình là Chủ tịch Đảng để có ngoại lệ.
Đồng thời Người cũng coi trọng việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt đảng trogn thực tế. Quan tâm đến việc mở rộng và thực hành dân chủ

trong Đảng và gươgn mẫu thực hiện dân chủ đầy đủ và tích cực nhất trong sinh
hoạt đảgn. Người xác định rõ trách nhiệm cá nhân, nêu cao tinh thần phụ trách
trước Đảng, trớc dân tộc và nhân dân
Hai là, tấm gươgn luôn tự rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống
tác phong của một đảgn viên (tài liệu)
IV. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯƠNG TẤM GƯƠNG ĐẠO
ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TA THẬT SỰ TRONG SẠCH
VỮNG MẠNH, “LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH” TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong công tác xây
dựng Đảng hiện nay cần tập trung vào những nội dung, công việc chính sau đây.
1. Nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường
lối đổi mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển
mới.
2. Quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành.
3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
4. Giải quyết tốt mối quan hệ với dân
5. Tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp theo quy định của Điều lệ Đảng
11
MỘT SỐ THÔNG TIN THAM KHẢO
Xây dựng đảng trong giai đoạn hiện nay
a.Những yêu cầu mới đặt ra trong công tác xây dựng đảng
- Trong suốt thời gian qua,CM đặt dưois sự chỉ đạo của đảng đã đạt được
nhưungx thắng lợi thiết thực hết sức to lớn.Sự lãnh đảo của đảng luôn có sự thay
đổi kịp thời theo từng thời kỳ lịch sử
Trong gdd hiên nay đảng ta luôn đặt ra ĐK khác hẳn gd trước
- Để xd thành công CNXH thì đảng phải đổi mới tư duy về CNXH.Đây là
yếu tố quan trọng nhất trong xây dựng đảng
- chuyển từ chế độ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường dịnh

huowng xhcn đòi hỏi đảng phải năng động nhạy bén.
- Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ là quan
điểm được Đảng đề ra nhưng còn rất hạn chế.
- Trình độ dân trí ngày càng cao ý thức trách nhiệm và quyền nhân dân
ngày càng lớn. Do vây đòi hỏi phải xây dựng nền dân chủ XHCN.
-Tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp
từ những đk trên đặt ra yêu cầu xây dựng đảng để đáp ứng đc yêu cầu lãnh đạo
của công cuộc xây dựng đất nước.
b.Thành tựu mà đảng đã đạt đươc trong thời gian qua
-Từng bước đề ra và bổ sưng hoàn thiện đường lối mới đúng đắn
- Khẳng định CN Mác - Lênin và tư tưởng HCM,coi đây là nền tảng tư
tưởng là kim chỉ nam cho mọi hành động của đảng
- giũ vững nguyên tắc tập trung dân chủ tập thể lãnh đạo
- đã có chủ trương và biện pháp đổi mới chỉnh đốn đảng gắn liền với nhiệm
vụ phát triển kinh tế xã hội, kiện toàn hệ thống chính tri.
c. Tốn tại và khuyết điểm'
- việc giữ vưng bản chất giai cấp công nhân của đảng đang đứng trước nguy
cơ thử thách to lớn
- Đảng chưa chu ý đến việc rèn luyện phẩm châts chính trị đạo đức cho cán
bộ đảng viên.
- Trình độ kiến thức năng lực lãnh đạo cảu đảng chưa theo kịp yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới.
- Tổ chức cơ sở đảng nhiều nơi yếu kém tê liệt phương thức lãnh đạo và
sinh hoạt lung túng
- Công tác kiểm tra việc chấp hành chỉ thị của đảng chưa đc chú trọng.
d Nội dung công tác xây dựng đảng
- Toàn bộ thành tựu khuyết điemr của công cuộc đổi mới gắn với trách
nhiệm lãnh đạo và hoạt động của đảng ta. Sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết
định tạo ra những thanh tựu lớn. Trong qua trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới Đảng
ta ngày càng trưởng thành và cũng nhận thức rõ hơn trong thành tựu và những

khuyết điểm khắc phục những nhược điểm.
- Đổi mới về tư duy lý luận tu duy kinh tế nâng cao năng lực trí tuệ đề ra
cương lĩnh đúng đắn.Đó là đảng trung thành với ly tưởng thôi chưa đủ đảng ấy
cần có đủ trí tuệ đẻ nhận thức được quy luật kahsh quancon dường đi đúng đắn
cho CM.
12
- Phát huy dân chủ trong Đảng thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt của Đảng, nhà nước và các đoàn thể.
- Đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo của đảng.
- Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đảng đủ năng lực và phẩm chất.
- Đội ngũ cán bộ đảng viên phải trung thành tận tụy có phẩm chất đạo đức
tốt
- Thường xuyên làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng viên,đồng thời kết nạp
những ng ưu tú vào đảng
Như vậy đảng cộng sản VN đảng do chủ tịch HCM sáng lập và rèn luyện là đội
tiên phong chiến đấu đầy đặn kinh nghiệm của giai cấp công nhân , đại biểu trung
thành cho lợi ích của gc CN, nhân dân lao động và cả dân tộc, được vũ trang bằng
CN Mác - Lênin, tư tưởng HCM và những truyền thống tốt đẹp.
ĐẢNG LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH
câu nói của Hồ Chí Minh “Đảng ta là văn minh” có thể bao gồm một số nội dung
sau đây:
- Đảng ta là văn minh bởi vì ở thời điểm khó khăn, đen tối, bế tắc nhất của xã hội
Việt Nam (đầu thế kỷ 20), Đảng đã ra đời với tư cách là tổ chức chính trị tiền tiến
có tính vượt trội (văn minh) so với mọi tổ chức chính trị đã xuất hiện trong cùng
thời kỳ đó. Nó là con đẻ của sự vận động lịch sử và sự xuất hiện của bản thân nó
chính là để đáp ứng yêu cầu khách quan, tất yếu của lịch sử dân tộc, gánh vác sứ
mệnh dẫn dắt nhân dân đoàn kết đứng lên đấu tranh tự giải phóng cho mình khỏi
cuộc đời nô lệ, khỏi mọi ách áp bức, bất công và tàn bạo, giành lấy chủ quyền.
Đảng tự nguyện nhận làm bộ tham mưu tối cao và đội tiền phong dũng cảm trong
cuộc đấu tranh ấy của nhân dân.

- Đảng ta là văn minh bởi vì nó là một tổ chức chính trị chân chính, trung thực,
trung thành, quang minh chính đại, chung thuỷ, trước sau như một đều nhất quán
một tinh thần yêu chuộng hoà bình, tôn trọng công lý và chính nghĩa, vì độc lập
cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào mình và có quan hệ chân thành, bình
đẳng, hữu nghị, hợp tác cùng có lợi với các dân tộc và tất cả các quốc gia trên thế
giới. Đảng văn minh là bởi Đảng kiên quyết cự tuyệt thói cơ hội, mị dân, giáo
điều, bảo thủ, dối trá, lừa gạt, thất tín, tiền hậu bất nhất, nói không đi đôi với làm,
nói một đằng làm một nẻo
- Đảng ta là văn minh là bởi vì Đảng là một tổ chức cách mạng, kiên trì cải tạo xã
hội cũ, phá bỏ mọi cái lạc hậu; kiên trì chống lại cuộc sống mất nhân tính; nó
nhân danh chính nghĩa và vì chính nghĩa mà chống phi nghĩa, tức là đấu tranh
chống mọi biểu hiện của cái ác. Vì vậy, bản thân Đảng là một lực lượng tiên tiến,
là bộ phận tinh hoa của xã hội, là một tập thể đại diện cho văn minh và nhân danh
văn minh để chống dã man, tàn bạo.
- Đảng ta là văn minh là bởi vì bản chất của Đảng, mục tiêu lý tưởng của Đảng
không phải chỉ nhằm đập tan, phá bỏ cái cũ xấu xa, lạc hậu mà chủ yếu là kiến tạo
và dựng xây một xã hội mới tốt đẹp, nhân đạo hoàn bị tiến tới một nền văn minh
mới - văn minh cộng sản chủ nghĩa - với ba yếu tố đảm bảo:
Tự nhiên được bảo vệ và tái tạo hoà hợp với con người, tự nhiên nhờ có con
người mà nhân đôi mình lên và cùng với con người là chủ thể của cái đẹp;
13
Một xã hội mà nền khoa học và công nghệ phát triển cao (nền kinh tế tri thức),
sản phẩm được làm ra bởi trí tuệ con người hướng tới mức của cải ngày càng thoả
mãn cho mọi nhu cầu của toàn xã hội;
Nhân dân hoàn toàn làm chủ xã hội; con người được tự do phát triển toàn diện cả
về thể lực, trí lực và nhân cách, con ngưòi thực sự được làm chủ vận mệnh của
mình trong một xã hội “người yêu người sống để yêu nhau”.
Như vậy là toàn bộ hoạt động của Đảng thực chất là đều hướng vào làm cho “văn
hoá súc tích, tiên tiến tới mức đã trở thành văn minh”.
- Đảng ta là văn minh là bởi vì Đảng bao gồm những phần tử ưu tú của xã hội kết

thành một tổ chức có năng lực trí tuệ cao, có trình độ văn hoá tiêu biểu của thế
giới đương đại, có trình độ lý luận tiên phong đủ sức làm một đảng tiên phong dẫn
đường cho quần chúng trong các giai đoạn phát triển của lịch sử, tức là trong
những bước ngoặt của phong trào cách mạng Đảng phải đủ sức đưa ra những kiến
giải đúng đắn, hợp tình, hợp lý về những vấn đề mà thực tiễn đang đòi hỏi phải
giải quyết. Nói cách khác, Đảng là văn minh có nghĩa là Đảng như người thuyền
trưởng và các thủy thủ thông tuệ, đủ trí khôn và lòng dũng cảm chèo lái con
thuyền cách mạng qua mọi thác ghềnh để hoà vào dòng chảy chung của nhân loại,
đưa dân tộc phát triển bền vững, sánh vai cùng các cường quốc 5 châu. Một đảng
như thế tức là bản thân nó phải là một tập thể bao gồm hầu hết những đảng viên
hồng thắm, chuyên sâu, vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, tài đức vẹn toàn,
gương mẫu cho quần chúng, dẫn dắt quần chúng, “lo trước thiên hạ, vui sau mọi
người”.
Đảng văn minh chính vì Đảng không ngừng phấn đấu để luôn xứng đáng là người
dẫn đường cho quần chúng đồng thời “là người con hiếu thảo của nhân dân”.
- Đảng ta là văn minh là bởi vì trong tổ chức và hoạt động, Đảng phải không
ngừng rèn luyện cho mình cách ứng xử văn minh.
Trước khi qua đời Hồ Chí Minh đã dự báo về thời gian giải phóng hoàn
toàn miền Nam và Người đã để lại một bản Di chúc với những căn dặn sâu sắc,
toàn diện có giá trị như là linh hồn và đề cương thu gọn của bản Cương lĩnh xây
dựng đất nước sau ngày thống nhất. Hai vấn đề quan trọng bậc nhất của một Đảng
cầm quyền được viết rõ trong Di chúc của Hồ Chí Minh đều thuộc về cách ứng xử
văn minh của Đảng: “Trước hết nói về Đảng” và “Đầu tiên là công việc đối với
con người”.
Biểu hiện quan trọng nhất của văn minh là cách con người ứng xử với nhau
như thế nào. Dưới đây xin điểm lại mấy nét cơ bản trong cách ứng xử của Đảng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
……………
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ” trong đó khẳng định:

“Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động". Đây là kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc
thực tiễn lịch sử của Đảng và của cách mạng Việt Nam trong suốt quá trình cách
14
mạng từ khi thành lập Đảng đến nay. Đó là một quyết định có tầm lịch sử quan
trọng thể hiện bước tiến trong tư duy lý luận của Đảng ta.
Hơn 70 năm qua, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân
tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tổng kết 15 năm đổi mới ở nước ta,
Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu, trong đó bài học hàng đầu là
phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ thực tiễn phong phú và những thành tựu to lớn đã đạt được, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm
xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng của
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, biết vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ và trách nhiệm
hàng đầu của mỗi cán bộ, đoàn viên và thanh niên Việt Nam.

Câu hỏi 1: Chủ nghĩa Mác-Lênin là gì?
Trả lời:
a. C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa học
và nhân đạo.
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, quần chúng lao động
luôn luôn ước mơ, mong muốn được sống trong một xã hội bình đẳng, công bằng,
có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Vì vậy, họ liên tục đấu tranh để thực hiện ước
mơ, khát vọng đó. Nhiều tư tưởng tiến bộ và nhân đạo đã hình thành và phát triển
để dẫn dắt cuộc đấu tranh của quần chúng.
Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động chống lại sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ,

đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng dẫn. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng đòi
hỏi cấp bách đó.
C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895) đã kế thừa có phê phán
những thành tựu khoa học và những giá trị tư tưởng của nhân loại đạt được trước
đó, bằng lao động khoa học và sáng tạo hai ông đã phân tích xã hội tư bản, tổng
kết thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa học và nhân đạo
để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Trong học thuyết
của mình, hai ông đã chứng minh sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự quá
độ sang một xã hội mới không còn chế độ người bóc lột người. Đó là chủ nghĩa xã
hội, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
b. Lênin đã bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển toàn diện lý luận của
Mác-Ăngghen trong điều kiện mới.
Đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới đã xuất hiện những đặc điểm mới: Chủ
nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc. Sự phát
triển không đều của chủ nghĩa đế quốc tạo tiền đề cho cách mạng vô sản có thể nổ
ra và thắng lợi ở một số nước, thậm chí ở một nước.
Trong hoàn cảnh đó, Lênin (1870–1924) đã vận dụng sáng tạo và phát triển
toàn diện học thuyết của Mác-Ăngghen để giải quyết những vấn đề cơ bản của
15
cách mạng vô sản. Lênin đã ra sức bảo vệ lý luận Mác, phê phán không khoan
nhượng với mọi loại kẻ thù tư tưởng: Xét lại, cơ hội… Đồng thời, ông chú trọng
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân thế
giới, dựa trên những kết quả mới của khoa học, bổ sung, phát triển cơ sở lý luận
của Mác-Ăngghen với tinh thần biện chứng duy vật.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa đế quốc và thực tiễn
phong trào của giai cấp công nhân Nga, Lênin đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng
Mười Nga thành công, mở ra thời đại mới: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Những cống hiến vĩ đại của Lênin cả về lý luận và thực tiễn đã góp phần làm

cho hệ thống lý luận của Mác, Ăngghen ngày càng hoàn chỉnh. Để ghi nhận công
lao và những đóng góp to lớn của Lênin, những người cộng sản và giai cấp công
nhân quốc tế trân trọng gọi học thuyết đó là chủ nghĩa Mác-Lênin.
c. Chủ nghĩa Mác-Lênin là gì?
Có thể nói một cách ngắn gọn: Chủ nghĩa Mác-Lênin là thế giới quan và
phương pháp luận khoa học, nó cung cấp cho con người một công cụ để nhận thức
và cải tạo thế giới; nó chỉ ra quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về sự giải phóng và phát triển. Nó không
những nêu ra mục tiêu, đối tượng, những quy luật của sự giải phóng và phát triển,
mà còn chỉ ra những lực lượng cách mạng có khả năng thực hiện được sự giải
phóng và phát triển. Đó là giai cấp công nhân.

Câu hỏi 2: Chủ nghĩa Mác - Lênin được cấu thành từ những bộ phận nào?
Nội dung cơ bản của những bộ phận đó là gì?
Trả lời:
Chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết hoàn chỉnh, một hệ thống lý luận và
phương pháp luận chặt chẽ được cấu thành từ ba bộ phận: Triết học Mác-Lênin,
kinh tế chính trị Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Triết học Mác-Lênin (bao gồm cả chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử) là khoa học chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó
đem lại cho con người thế giới quan khoa học và phương pháp luận đúng đắn để
nhận thức và cải tạo thế giới.
- Kinh tế chính trị Mác-Lênin: Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, vạch trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư (m) của giai cấp tư sản với giai
cấp công nhân và người lao động dưới chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư sản dùng mọi
thủ đoạn để áp bức, bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm giàu cho
chúng. Đây chính là nguồn gốc, nguyên nhân cơ bản dẫn tới cuộc đấu tranh giai
cấp nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Đồng thời, chỉ ra những tiền đề và quy luật kinh tế chủ yếu để
đưa tới chỗ diệt vong của chủ nghĩa tư bản.

- Chủ nghĩa xã hội khoa học: Nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng xã hội mới xã hội
chủ nghĩa. Việc xã hội hoá lao động trong chủ nghĩa tư bản đã tạo tiền đề cho sự
ra đời của chủ nghĩa xã hội.
16
Giai cấp có sứ mệnh lịch sử thực hiện sự chuyển biến cách mạng đó là giai
cấp công nhân, Lênin chỉ rõ: "Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó
làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, là người xây dựng xã hội
xã hội chủ nghĩa". Bởi vì: "Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng
với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản
thân nền đại công nghiệp".

Câu hỏi 3: Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin
được thể hiện ở những nội dung nào?
Trả lời:
Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống các quan điểm lý luận và phương pháp
khoa học được kết tinh và là đỉnh cao thành tựu trí tuệ của loài người, của tinh hoa
văn hoá mà nhân loại đã sáng tạo ra.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã kế thừa có chọn lọc những thành tựu khoa
học, những giá trị tư tưởng và văn hoá, những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội mà
nhân loại đã đạt được; bằng thiên tài của trí tuệ cộng với sự lao động nghiêm túc,
vượt lên mọi trở ngại, khó khăn, những cám dỗ của vật chất và vòng cương toả hà
khắc của chế độ chính trị đương thời, các ông đã để lại cho nhân loại một di sản
vô cùng quý báu, một cơ sở lý luận khoa học để giải phóng con người, giải phóng
xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho con người.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục
tiêu, chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột,
thoát khỏi đói nghèo và tha hoá về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực
lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp

công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và sức
mạnh của chính mình.
Học thuyết đó cũng đã chỉ ra quy luật của sự giải phóng và phát triển xã hội.
Đó là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về sự
chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác
không phải diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp
gay go quyết liệt. Từ đó, Mác-Ăngghen và Lênin đã trực tiếp nghiên cứu sự vận
động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra quy luật về sự diệt vong
của chủ nghĩa tư bản cũng như thắng lợi của chủ nghĩa xã hội như một tất yếu
thông qua cuộc cách mạng xã hội.
- Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện ở
chỗ: Đó là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn được bổ
sung, tự đổi mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các
ông không phải là cái đã xong xuôi, bất biến, không phải là giáo điều mà chỉ là
kim chỉ nam cho hành động. Nó gắn liền với sự phát triển của phong trào cách
mạng, với thực tiễn vận động của lịch sử, hay nói cách khác, học thuyết đó chỉ
đưa ra cơ sở và phương pháp luận cho suy nghĩ và hành động. Điều đó hoàn toàn
xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng.
17
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về sự phát triển, bao hàm cả sự phát triển
của chính học thuyết đó với tinh thần phê phán và tự phê phán. Bởi lẽ, có nhiều
vấn đề mà các ông chưa có điều kiện, thời gian nghiên cứu, làm sáng tỏ hoặc do
hạn chế của lịch sử nên những luận điểm của các ông cần phải điều chỉnh cho phù
hợp với thực tiễn. Các ông đòi hỏi những người cách mạng đời sau bổ sung và
phát triển làm cho học thuyết đó hoàn chỉnh.
Toàn bộ học thuyết Mác-Lênin có giá trị bền vững xét trong tinh thần biện
chứng của nó, với bản chất cách mạng, khoa học và nhân đạo, chủ nghĩa Mác-
Lênin sống mãi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên thế giới và là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của

Đảng và cách mạng Việt Nam.
1

×