Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Ảnh hưởng của chế độ và phương thức nuôi dưỡng đến năng suất và hiệu quả kinh tế chăn nuôi bò sữa nông hộ trong mùa hè tại Ba Vì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.96 KB, 13 trang )



ảnh hưởng của chế độ và phương thức nuôi dưỡng đến năng suất và hiệu quả
kinh tế chăn nuôi bò sữa nông hộ
trong mùa hè tại Ba Vì
Đinh Văn Tuyền,
1
Nguyễn Hữu Lương, Nguyễn Viết Đôn, Nguyễn Xuân Thành
Bộ môn Dinh dưỡng, Thức ăn Chăn nuôi và Đồng cỏ;
1
Trung tâm nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì
Tãm t¾t
Một thí nghiệm nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của chế độ và phương thức nuôi dưỡng đến năng suất và hiệu
quả kinh tế chăn nuôi bò sữa nông hộ trong mùa hè tại Ba Vì đã được tiến hành trêntrên 15 bò cái lai HF ở lứa sữa
thứ 2 -5 và tháng vắt sữa 3-7. Bò thí nghiệm có khối lượng trung bình 487,5 kg và năng suất sữa 15,2 lít/ngày.
Trước khi ăn khẩu phần thí nghiệm bò ở tất cả các lô được theo dõi năng suất và đánh giá chất lượng sữa trong vòng
2 tuần làm số liệu đồng tham số (covariate) đối với các chỉ tiêu này.
Kết quả cho thấy: Phương thức và chế độ dinh dưỡng không có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả sinh học
đối với bò vắt sữa giai đoạn 3-7 tháng của chu kỳ sữa nuôi tại các nông hộ ở Ba Vì trong điều kiện mùa hè. Tuy
nhiên với giá cả nguyên liệu và thu mua sữa như hiện nay thì việc nuôi theo chế độ dinh dưỡng được xây dựng dựa
trên tiêu chuẩn của NRC (2001) kết hợp với tiêu chuẩn của NARO (2006) trong điều kiện mùa hè cho hiệu quả kinh
tế cao hơn nuôi theo chế độ dinh dưỡng do các hộ chăn nuôi tự xây dựng.
1. §Æt vÊn ®Ò
Kinh tế ngày càng phát triển kéo theo nhu cầu tiêu thụ sữa ngày càng tăng. Để đáp ứng
nhu cầu tiêu thụ sữa trong nước, hàng năm chúng ta phải chi phí hàng trăm triệu đô la để nhập
khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó năng suất và chất lượng sữa sản xuất trong nước vẫn còn thấp
và có tiềm năng lớn để phát triển thông qua cải tiến chế độ dinh dưỡng và phương thức chăn
nuôi. Với mục tiêu nâng sản lượng sữa sản xuất trong nước lên 701.200 tấn vào năm 2015 (Bộ
NN&PTNT, 2008), ngoài việc tăng cường nghiên cứu và sản xuất con giống thì việc nghiên cứu
để cải tiến dinh dưỡng và phương thức cho ăn nhằm làm tăng năng suất của đàn bò là việc làm
cấp thiết.


Hiện nay, tại các hộ chăn nuôi bò sữa Ba Vì cũng như nhiều địa phương khác trên cả
nước, việc lập khẩu phần cho ăn chỉ dựa chủ yếu vào kinh nghiệm với công thức đơn giản là cho
ăn thức ăn tinh ở mức 0,5 kg/lít sữa còn thức ăn thô cho ăn tùy theo khả năng sẵn có của cơ sở.
Các thức ăn thô và thức ăn tinh được cho ăn riêng biệt và thường khá tùy tiện, không theo trật tự
sắp xếp bữa ăn và khối lượng cho ăn mỗi bữa một cách khoa học. Chế độ dinh dưỡng và phương
thức cho ăn này có thể gây lãng phí nhiều thức ăn vì không đảm bảo được sự cân đối giữa nhu
cầu dinh dưỡng và khả năng cung cấp thức ăn cho bò. Để đáp ứng sát hơn nhu cầu cho bò sữa,
một số cơ sở chăn nuôi đã bước đầu áp dụng phương pháp xây dựng khẩu phần ăn theo nhu cầu
của gia súc ở các trạng thái sinh lý khác nhau và giá trị dinh dưỡng của các nguyên liệu thức ăn
dựa trên một trong số các tiêu chuẩn ăn như của Kearl (1982), NRC (1989) hoặc tiêu chuẩn đề
xuất bởi Pozy và cộng sự (2002) cho bò sữa ở miền Bắc Việt Nam dựa theo tiêu chuẩn của
INRA (1989). Tuy nhiên phương thức cho ăn vẫn theo dạng truyền thống, nghĩa là cho ăn các


loi thc n tinh v thụ riờng v do ú vn cú th gõy lóng phớ thc n do gia sỳc chn lc v b
i nhng loi chỳng khụng thớch.
khc phc tỡnh trng trờn, vic xõy dng khu phn n theo nhu cu ca gia sỳc v
cho n dng khu phn hon chnh (TMR) ó c mt s trang tri chn nuụi bũ sa tiờn tin
Vit Nam ỏp dng v mang li hiu qu kinh t cao. Tuy nhiờn theo Snowdon (1991), Neitz v
Dugmore (2005) v Lammer v cng s (2007), bờn cnh rt nhiu u im so vi phng thc
cho n riờng cỏc loi thc n nh lm tng nng sut sa 5-8%, tng hiu qu s dng thc n
4%, ci thin s n nh mụi trng d c, hn ch cỏc bnh v tiờu húa v trao i cht ca gia
sỳc vv thỡ phng thc chn nuụi bũ sa bng thc n TMR cng cú nhng nhc im nht
nh nh ũi hi u t trang thit b, k nng lp khu phn v phi trn, k nng qun lý n
Do ú hiu qu kinh t ca phng thc nuụi bng thc n TMR cú th cũn ph thuc vo iu
kin thc n v qui mụ chn nuụi c th ca tng khu vc. Kt qu nghiờn cu ca Nguyn Hu
Lng v cng s (2010) ó cho thy vic ỏp dng phng phỏp lp khu phn da trờn tiờu
chun n ca NRC v cho n theo phng thc TMR ó ci thin ỏng k nng sut v cht
lng sa cng nh hiu qu kinh t ca chn nuụi bũ sa nụng h ti Ba Vỡ. Tuy nhiờn nghiờn
cu trờn c tin hnh trong mựa ụng khi thiu c xanh v do ú ti ny c tin hnh

nhm ỏnh giỏ hiu qu ca cỏc ch v phng thc nuụi dng khỏc nhau ỏp dng cho n
bũ sa nụng h ti Ba Vỡ, H Ni trong iu kin mựa hố.
2. Vật liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu
2.1. i tng, a im v thi gian thớ nghim
Thớ nghim tin hnh ti cỏc hc chn nuụi bũ sa thuc Trung tõm Nghiờn cu bũ v
ng c Ba Vỡ trong thi gian 2 thỏng, t thỏng 7 n thỏng 9 nm 2009 trờn 15 bũ cỏi lai HF
la sa th 2 -5 v thỏng vt sa 3-7. Bũ thớ nghim cú khi lng trung bỡnh 487,5 kg v nng
sut sa 15,2 lớt/ngy. Trc khi n khu phn thớ nghim bũ tt c cỏc lụ c theo dừi nng
sut v ỏnh giỏ cht lng sa trong vũng 2 tun lm s liu ng tham s (covariate) i vi
cỏc ch tiờu ny.
2.2. Thit k thớ nghim
Thớ nghim c thit k theo dng ụ vuụng latin khuyt vi 3 nghim thc v 2 t thớ
nghim. Mi t thớ nghim kộo di 30 ngy gm 2 giai on l giai on thớch nghi trong 20
ngy u v giai on thu thp s liu trong 10 ngy cui. Trong mi t thớ nghim gia sỳc
c b trớ theo dng khi nhu nhiờn hon chnh (CRBD) trong ú bũ thớ nghim c phõn
chia vo 5 khi, mi khi 3 con da vo yu t thỏng sa v nng sut sa. Gia sỳc thớ nghim
trong mi khi li c phõn ngu nhiờn vo 1 trong 3 nghim thc (lụ thớ nghim) khỏc nhau v
ch dinh dng hoc phng thc cho n. Bũ lụ 1 c n khu phn i chng (gi
nguyờn khu phn v cỏch cho n hin ang c c s chn nuụi s dng); bũ lụ 2 n khu
phn cú mc nng lng v protein ỏp ng nhu cu cho tng cỏ th theo tiờu chun ca
NRC (2001) cú tham kho tiờu chun ca Nht Bn (NARO, 2006) v AFRC (1993) nhng cho
n theo phng thc truyn thng (tinh thụ riờng bit); v bũ lụ 3 n khu phn cú mc nng


lượng và protein đáp ứng đủ nhu cầu cho từng cá thể theo tiêu chuẩn của NRC (2001) có tham
khảo tiêu chuẩn của Nhật Bản (NARO, 2006) và AFRC (1993) và áp dụng phương thức cho ăn
khẩu phần dạng thức ăn hoàn chỉnh TMR. Bò ở tất cả các lô thí nghiệm được nuôi nhốt cá thể,
mỗi con có máng ăn và máng uống riêng. Sơ đồ bố trí gia súc thí nghiệm vào các lô trong mỗi
đợt thí nghiệm được trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1. Sơ đồ bố trí gia súc thí nghiệm


Lô TN 1 (lô đối
chứng)
Lô TN 2 (lô ăn
truyền thống)
Lô TN 3 (lô ăn
TMR)
Đợt TN 1
Bò số 140; 214;
909; 243; 916
Bò số 001; 115; 530;
707; 697
Bò số 220; 278;
708; 911; 990
Đợt TN 2
Bò số 001; 115;
990; 707; 708
Bò số 220; 214; 909;
278; 911
Bò số 140; 243;
530; 916; 697

2.3. Khẩu phần của bò thí nghiệm và cách cho ăn
Khẩu phần thí nghiệm bao gồm khẩu phần cho lô 1 (đối chứng- cho ăn chế độ dinh
dưỡng của hộ chăn nuôi tự xây dựng), lô 2 (cho ăn theo phương thức truyền thống) và lô 3 ăn
thức ăn hoàn chỉnh TMR, trong đó khẩu phần cho bò ở lô 2 và 3 được xây dựng giống nhau (đều
dựa trên nhu cầu của từng cá thể và từ các nguyên liệu giống nhau). Như vậy khẩu phần ăn cho
lô 1 khác lô 2 và 3 ở chế độ dinh dưỡng (chế độ cho ăn theo kinh nghiệm và chế độ cho ăn theo
tính tóan dựa vào nhu cầu NRC) còn giữa lô 2 và lô 3 khác nhau về phương thức cho ăn (theo
dạng truyền thống và dạng thức ăn hoàn chỉnh TMR). Do đặc điểm này mà khẩu phần của lô đối

chứng chỉ được xác định sau khi kết thúc thí nghiệm còn khẩu phần lô 2 và lô 3 được xây dựng
trước khi bắt đầu thí nghiệm.
Khẩu phần ăn của bò trong các lô thí nghiệm (trừ lô đối chứng) được xây dựng dựa trên
năng suất, chất lượng sữa và khối lượng cơ thể tại thời điểm bắt đầu mỗi đợt thí nghiệm và kết
quả xác định thành phần hóa học của các nguyên liệu thức ăn. Thành phần hóa học của các
nguyên liệu thức ăn sử dụng trong thí nghiệm được trình bày ở Bảng 2 còn công thức khẩu phần
(tính trung bình cho cả 2 đợt thí nghiệm) của các nghiệm thức được trình bày tại Bảng 3. Do bò ở
lô 1 được cho ăn theo hiện trạng của các hộ trong đó có hộ không cho ăn bã bia còn có hộ không
cho ăn bột ngô nên giá trị trung bình nhỏ hơn giá trị độ lệch chuẩn. Cách trộn thức ăn và cho ăn
được tiến hành giống như trong thí nghiệm của Nguyễn Hữu Lương và cộng sự (2010). Các chỉ
tiêu theo dõi bao gồm lượng thức ăn ăn vào, năng suất sữa, chất lượng sữa, thay đổi khối lượng
cơ thể, chi phí thức ăn cho sản xuất sữa và hiệu quả kinh tế; cách xác định như trong báo cáo của
Nguyễn Hữu Lương và cộng sự (2010).
Bảng 2. Thành phần hóa học các nguyên liệu thức ăn dùng trong thí nghiệm
1
(%)
Tên mẫu
DM
CP
Mỡ

NDF
ADF
Khoáng
Ca
P
ME


Cỏ voi

15,7
6,4
1,5
35,4
76,2
38,2
9,0
0,46
0,59
8,1
Cám Hygro 005
89,6
20,6
5,2
10,6
32,0
15,3
11,5
1,82
0,96
11,5
Bột ngô
89,1
8,9
4,0
3,5
20,1
3,5
1,6
0,11

0,19
12,8
Bột sắn
89,2
2,9
1,6
8,5
25,6
8,7
4,7
0,15
0,21
12,8
Bã bia
22,7
30,6
7,1
15,6
31,9
25,1
4,0
0,15
0,63
10,7
Đậu tương
91,2
41,8
15,5
8,5
14,9

6,9
5,2
0,20
0,48
12,5
Rỉ mật
67,0
5,4




13,2
1,4
0,13
9,6
1
: Cỏ voi và bột sắn được phân tích trực tiếp, các nguyên liệu khác từ kết quả phân tích của Nguyễn Hữu
Lương và cộng sự (2010)
Bảng 3. Công thức khẩu phần cho bò ở các lô thí nghiệm
a
(kg/con/ngày)
Nguyên liệu
Lô TN 1
b
(Mean±SD)
Lô TN 2 (Mean±SD)
Lô TN 3 (Mean±SD)
Cỏ voi
39,2±2,9

43,0±8,69
45,6±14,03
Cám 005
6,20±1,48
3,1±0,67
3,1±0,44
Bã bia
1,9±1,82
3,1±0,22
2,9±0,22
Ngô
1,4±1,92
0,4±0,65
0,3±0,48
Đậu tương
-
1,1±0,85
1,4±0,41
Sắn
-
1,9±1,09
1,8±0,9
Rĩ mật
-
1,0±0,0
1,0±0,0
Dầu ăn
-
0,10±0,12
0,13±0,05

Urea
-
0,05±0,01
0,05±0,02
Tổng thức ăn tinh
9,5±5,2
10,8±3,6
11,0±2,6
a
: kg/con/ngày theo khối lượng dạng sử dụng
b
: Lô TN 1 (lô đối chứng) được xác định sau khi kết thúc theo dõi thí nghiệm

2.4. Phương pháp phân tích thành phần hoá học
Thành phần hoá học của các mẫu thức ăn được phân tích tại phòng Phân tích thức ăn và
sản phẩm chăn nuôi, Viện chăn nuôi theo các phương pháp phân tích hiện đang được áp dụng tại
phòng phân tích này.
2.5. Xử lý số liệu
Số liệu được tính toán sơ bộ trên bảng tính Excel 2003 và sau đó xử lý thống kê
bằng phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) với mô hình phân tích tổng quát trên phần
mềm Genstat phiên bản Discovery 3 (Lawes Agricultural Trust, 2007) với các tham số trong mô
hình là lô, khối và đợt thí nghiệm. Khi kết quả phân tích ANOVA cho thấy có sự sai khác có ý
nghĩa thống kê giữa các giá trị trung bình của chỉ tiêu theo dõi thì giá trị sai khác có ý nghĩa nhỏ
nhất (LSD) được sử dụng để xác định sự sai khác giữa các giá trị trung bình này. Riêng các chỉ
tiêu về năng suất và chất lượng sữa, các giá trị đồng tham số cũng được đưa vào trong mô hình
thống kê để loại trừ ảnh hưởng của sự khác nhau về các chỉ tiêu này trước khi đưa vào thí
nghiệm.


3. KÕt qu¶ vµ th¶o luËn

3.1. Thu nhận thức ăn của bò thí nghiệm
Bảng 4. Lượng thức ăn thu nhận của bò ở các lô thí nghiệm

Lô 1
Lô 2
Lô 3
SEM
LSD
P
Vật chất khô (kg/ngày)
14,65
15,72
15,05
0,777
2,394
0,624
Vật chất khô (% KLCT)
3,04
3,33
3,11
0,27
0,831
0,735
Protein thô (kg/ngày)
1,45
a

1,77
ab


1,95
b

0,176
0,443
0,046
NDF(kg/ngày)
8,90
8,53
8,49
0,599
1,845
0,868
Chất hữu cơ (kg/ngày)
13,63
14,59
13,71
0,716
2,206
0,591
Năng lượng trao đổi (MJ/ngày)
144.2
152,3
146.6
7,39
22,78
0,530
Chất khô thức ăn tinh (kg/ngày)
7,10
ab


7,93
b

6,20
a

0,536
1,577
0,042
Chất khô thức ăn thô (kg/ngày)
7,57
7,79
8,85
0,797
2,454
0,592
Tỷ lệ thức ăn tinh (% tổng DMI)
48,9
a

50,0
a

41,6
b

2,51
6,88
0,046

Kết quả trình bày ở Bảng 4 cho thấy không có sự sai khác về lượng chất khô, chất hữu
cơ, NDF và ME ăn vào giữa các lô thí nghiệm (P<0,05). Trung bình mỗi ngày bò ở lô 1 ăn 14,65
kg chất khô, lô 2 ăn 15,72 kg và lô 3 ăn 15,05 kg, tương đương với 3,04; 3,33 và 3,11% khối
lượng cơ thể ở các lô tương ứng. Hàm lượng ME ăn vào ở lô 2 cao nhất (152 MJ/ngày) và ở lô 1
thấp nhất (140,2 MJ/ngày) nhưng do hàm lượng thu nhận của các cá thể trong mỗi lô biến động
lớn (Bảng 4) nên sự sai khác giữa các lô là không có ý nghĩa về mặt thống kê (P>0,05).
Mặc dù tổng lượng chất khô ăn vào ở lô 3 không cao hơn các lô còn lại nhưng lượng
protein thô ăn vào (1,95 kg/ngày) lại cao hơn đáng kể (P<0,05) so với lô 1 (1,45 kg/ngày) trong
khi tỷ lệ thức ăn tinh trong tổng chất khô ăn vào (41,6%) lại thấp hơn rõ rệt (P<0,05) so với lô 1
(48,9%) và lô 2 (50,0%). Tổng lượng proten thô ăn vào ở lô 3 cao hơn là do hỗn hợp thức ăn tinh
trong khẩu phần của lô này có hàm lượng protein cao hơn so với các lô còn lại. Trong khi đó
tổng lượng chất khô ăn vào từ thức ăn tinh của lô 3 (6,2 kg) là thấp nhất còn giá trị này của lô 2
là cao nhất (7,93 kg); tổng chất khô ăn vào từ thức ăn tinh của bò ở lô 1 là 7,1 kg/ngày (Bảng 4).
So sánh thống kê cho thấy giữa lượng chất khô ăn vào từ thức ăn tinh của lô 2 và lô 3 có sự sai
khác mức có ý nghĩa thống kê (P<0,05); tuy nhiên sự sai khác giữa lô 1 và 2 lô còn lại là không
đáng kể.
Tỷ lệ thức ăn tinh trong tổng lượng chất khô ăn vào ở lô 2 cao hơn ở lô 3 là do bò ở lô 2
được cho ăn theo phương thức truyền thống tinh-thô riêng biệt nên lựa chọn ăn thức ăn tinh và
để thừa thức ăn thô. Trong thí nghiệm này, khẩu phần được lập cho bò ở lô 2 có tỷ lệ thức ăn tinh
chiếm 40,6% tổng chất khô. Tuy nhiên trong thời gian theo dõi chúng tôi nhận thấy bò ăn hết
toàn bộ phần thức ăn tinh cho ăn nhưng lại để thừa rất nhiều thức ăn thô và do đó tỷ lệ thức ăn
tinh trong tổng lượng chất khô ăn vào đã tăng lên đáng kể (từ 40,6% lên 50%) so với tỷ lệ trong
khẩu phần dự kiến cho ăn. Hiện tượng lựa chọn thức ăn này cũng đã được lưu ý trong báo cáo
của Nguyễn Hữu Lương và cộng sự (2010). Trong báo cáo trên các tác giả đã tính toán và cho
thấy khi cho ăn theo phương thức truyền thống tinh thô riêng biệt đã gây lãng phí lượng thức ăn


thô tương đương khoảng 14,5% tổng lượng thức ăn thô cho ăn hoặc 8,06% tổng chất khô khẩu
phần cho ăn. Tính toán lượng thức ăn thô bị bò ở lô 2 bỏ lại trong thí nghiệm này cũng cho kết
quả tương tự: tương đương 17,6% tổng lượng thức ăn thô hoặc 9,1% tổng chất khô trong khẩu

phần cho ăn. Kết quả này phù hợp với nhận xét của Snowdon (1991), Neitz và Dugmore (2005)
và Lammer và cộng sự (2007), rằng phương thức sử dụng TMR trong chăn nuôi bò sữa cao sản
làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn so với phương thức cho ăn các loại thức ăn riêng biệt.
Tương tự như trong nghiên cứu của Nguyễn Hữu Lương và cộng sự (2010), mức protein
và ME tiêu thụ cao hơn so với nhu cầu của NRC (2001) và NARO (2006) áp dụng cho bò HF
thuần có mức khối lượng, năng suất sữa và tăng trọng tương tự. Theo các tiêu chuẩn này thì bò
khối lượng 450-500 kg cho năng suất sữa và tăng trọng như ở lô 1 sẽ cần 1,373 kg protein thô và
111,89 MJ ME, lô 2 cần 1,645 kg CP và 117,8 MJ ME còn lô 3 cần 1,793 kg CP và 127,6 MJ
ME để tăng trọng 0,07; 0,43; 0,41 kg/ngày và sản xuất lượng sữa tiêu chuẩn 12,8; 11,6 và 13,7
kg tương ứng cho lô 1, 2 và 3. Thực tế cho thấy bò ở lô 1 ăn vào 144,2 MJ và 1,45 kg protein thô
(nhiều hơn so với tiêu chuẩn là 32,3 MJ và 0,076 kg CP), còn bò lô 2 là 152,3 MJ và 1,77 kg CP
(cao hơn lần lượt 34,5 MJ và 0,125 kg CP) và bò lô 3 là 146,6 MJ và 1,95 kg CP, nhiều hơn 19
MJ ME và 0,159 kg CP so với tiêu chuẩn. Nếu tính trung bình cho cả 3 lô thì hàm lượng ME
thực tế ăn vào cao hơn xấp xỉ 24% so với nhu cầu, trong khi nếu tính riêng cho bò ở từng lô thì
tỷ lệ này cao nhất ở lô 2 (29,3%), tiếp đến là lô 1 (28,9%) và cuối cùng là lô 3 (14,9%). Như vậy
kết quả thí nghiệm này góp phần củng cố thêm cho nhận định của Nguyễn Hữu Lương và cộng
sự rằng nhu cầu năng lượng và protein của bò sữa lai HF nuôi tại Ba Vì cao hơn so với các nhu
cầu đưa ra bởi các tiêu chuẩn trên và nguyên nhân là do sự khác nhau về kiểu gen và vùng sinh
thái giữa bò ở thí nghiệm này và bò được sử dụng để xác định nhu cầu dinh dưỡng trong các tiêu
chuẩn trên. Agnew và cộng sự., (2003) cho rằng quá trình chọn giống đã dẫn đến nhu cầu năng
lượng trao đổi cho duy trì của bò sữa hiện nay cao hơn 25% so với giá trị xác định cách đây
khoảng 20 năm bởi AFRC (1993). Ngoài ra điều kiện nắng nóng trong mùa hè tại Ba Vì cũng có
thể là một phần nguyên nhân dẫn đến nhu cầu của bò sữa ở đây cao hơn so với tiêu chuẩn. NRC
(2001) ước tính tùy vào mức độ nặng nhẹ mà stress nhiệt có thể làm tăng nhu cầu năng lượng
cho duy trì từ 7 đến 25%.
3.2. Năng suất và chất lượng sữa của bò thí nghiệm
Năng suất sữa của bò ở các lô thí nghiệm được trình bày ở Bảng 5 cho thấy mặc dù có sự
khác nhau về trị số tuyệt đối nhưng không có sự sai khác về mặt thống kê ở bất cứ chỉ tiêu phân
tích nào giữa các lô thí nghiệm. Tính trung bình cả ngày bò lô 1 có năng suất 12,5 kg/con trong
khi bò ở lô 2 là 12,9 kg và lô 3 là 13,3 kg/con. Khi qui ra sữa tiêu chuẩn (4% mỡ sữa) thì năng

suất của lô 1 là 11,9 kg, lô 2 là 12,5 kg và lô 3 là 13,5 kg/con/ngày. Bò ăn khẩu phần lô 3 cho
năng suất sữa tiêu chuẩn cao hơn lô 1 là 13,4% và cao hơn lô 2 là 8,0%; năng suất của bò lô 2
cao hơn lô 1 là 5,1%. Kết quả này cũng phù hợp kết quả của nhiều nghiên cứu trước trong đó cho
ăn theo phương thức TMR có thể tăng năng suất sữa 5-8% cao hơn so với nuôi theo phương thức


cho ăn thức ăn riêng biệt (Neitz và Dugmore, 2005; Lammer và cộng sự., 2007; Nguyễn Hữu
Lương và cộng sự., 2010).
Nếu chỉ tính tổng lượng dinh dưỡng ăn vào chia cho năng suất sữa của bò ở các lô thí
nghiệm thì chi phí chất khô cho 1 kg sữa tiêu chuẩn của bò ở lô 2 cao nhất (1,258 kg), kế đến là
lô 1 (1,231 kg) và thấp nhất là lô 3 (1,204 kg). Tuy nhiên sự sai khác giữa các lô là không có ý
nghĩa về mặt thống kê (P>0,05) và đều cao hơn so với kết quả trong thí nghiệm tương tự của
Nguyễn Hữu Lương và cộng sự (2010), trong đó chi phí chất khô thức ăn cho 1 kg sữa tiêu
chuẩn dao động trong khoảng 0,93-1,06 kg. Tương tự, chi phí năng lượng trao đổi trong thí
nghiệm này (12,2; 12,2; 11,8 MJ ME cho lô 1, lô 2 và lô 3 tương ứng) cũng cao hơn khá nhiều so
với mức chi phí 10,2-11,2 MJ ME/kg sữa tiêu chuẩn trong thí nghiệm trước của các tác giả trên.
Tuy nhiên chi phí protein thô cho 1 kg sữa trong thí nghiệm này chỉ ở mức tương đương so với
trong thí nghiệm trước của Nguyễn Hữu Lương và cộng sự (2010). Sự khác nhau về hiệu quả sử
dụng năng lượng cho duy trì và sản xuất sữa giữa 2 thí nghiệm có thể là do yếu tố môi trường và
năng suất sữa của gia súc thí nghiệm. Thí nghiệm trước được tiến hành trong mùa đông nên bò
không bị ảnh hưởng bởi stress nhiệt độ cao như trong thí nghiệm này. Ngoài ra, trong thí nghiệm
trước, khi bắt đầu thí nghiệm bò đang ở tháng sữa 1-5 và có năng suất sữa trung bình 16 kg/ngày
còn trong thí nghiệm này bò chủ yếu ở tháng thứ 3-7 của chu kỳ sữa và năng suất trung bình chỉ
là 15,2 kg.
Bảng 5. Ảnh hưởng của chế độ và phương thức nuôi dưỡng đến năng suất sữa và tiêu tốn thức
ăn cho tạo sữa của bò lai HF tại Ba Vì

Lô 1
Lô 2
Lô 3

SEM
LSD
P
Năng suất sữa sáng (kg)
5,9
6,0
6,3
0,53
1,23
0,97
Năng suất sữa chiều (kg)
6,7
6,9
7,0
0,18
0,57
0,98
Năng suất sữa ngày (kg)
12,5
12,9
13,3
0,33
1,10
0,97
Năng suất sữa tiêu chuẩn (kg
sữa 4% mỡ/ngày)
11,9
12,5
13,5
0,67

2,10
0,93
Năng suất chất khô không mỡ
sữa (kg)
0,97
1,06
1,07
0,034
0,107
0,96
Năng suất protein sữa (kg)
0,36
0,40
0,41
0,012
0,089
0,96
Năng suất mỡ sữa (kg)
0,48
0,48
0,54
0,032
0,100
0,90
Chi phí chất khô thức ăn (kg
chất khô/kg sữa tiêu chuẩn)
1,231
1,258
1,204
0,157

0,482
0,577
Chi phí protein thô (kg/kg sữa
tiêu chuẩn)
0,122
0,142
0,156
0,015
0,045
0,267
Chi phí năng lượng (MJ ME/kg
sữa tiêu chuẩn)
12,2
12,2
11,8
1,39
4,30
0,568

Kết quả phân tích chất lượng sữa trình bày ở Bảng 6 cho thấy trong thí nghiệm này chế
độ và phương thức nuôi dưỡng không gây ảnh hưởng đáng kể đến hàm lượng mỡ, protein và chất


rắn không mỡ của bò thí nghiệm. Tính trung bình, bò ở lô 3 cho hàm lượng mỡ sữa (4,02%) cao
hơn bò lô 1 (3,95%) và lô 2 (3,96%). Tuy nhiên hàm lượng chất rắn không mỡ của bò ở lô 2 lại
cao hơn so với 2 lô còn lại do đó tỷ lệ chất khô trong sữa của lô 2 là cao nhất (12,12%), còn của
lô 1 là thấp nhất (11,85%). Hàm lượng chất khô trong sữa là chỉ tiêu chất lượng có ảnh hưởng
đáng kể đến giá thu mua sữa của công ty Vinamilk. Do đó mặc dù không có sự sai khác về mặt
thống kê nhưng sự khác nhau về trị số tuyệt đối của chỉ tiêu này giữa các lô thí nghiệm vẫn được
coi là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế của chăn nuôi bò sữa ở mức độ

nông hộ. Tỷ lệ mỡ sữa ở cả 3 lô trong thí nghiệm này là khá cao, một phần là do năng suất sữa
của bò thí nghiệm thấp (Bảng 5).
Bảng 6. Ảnh hưởng của chế độ và phương thức nuôi dưỡng đến chất lượng sữa của bò lai HF
nuôi tại Ba Vì

Lô 1
Lô 2
Lô 3
SEM
LSD
P
Tỷ lệ mỡ sữa (%)
3,95
3,96
4,02
0,221
0,687
0,92
Tỷ lệ protein sữa (%)
2,96
3,04
3,11
0,054
0,168
0,92
Tỷ lệ chất rắn không mỡ sữa (%)
7,93
8,13
8,04
0,101

0,312
0,94
Tỷ lệ vật chất khô sữa (%)
11,85
12,12
12,06
0,298
0,929
0,91
Tỷ trọng sữa
27,5
28,1
27,5
0,63
1,95
0,722
3.3. Mức thay đổi khối lượng và hiệu quả kinh tế
Kết quả xác định mức thay đổi khối lượng cơ thể của bò ở các lô thí nghiệm cho thấy bò
ở lô đối chứng tăng trung bình 2,0 kg/con/tháng còn bò lô 2 tăng 13,0 kg/con/tháng và bò lô 3
tăng 12,4 kg/con/tháng (Bảng 7). Mức tăng khối lượng này cao hơn đáng kể so với dự kiến ban
đầu, trong đó bò ở lô 2 có mức tăng trung bình 2,4 kg/con/tháng còn bò lô 3 không tăng trọng.
Như vậy một phần đáng kể chất dinh dưỡng trong khẩu phần đã được bò ở các lô thí nghiệm 2 và
3 sử dụng để tăng trọng lượng thay vì sản xuất sữa. Mức tăng trọng thực tế cao hơn dự kiến cho
thấy dinh dưỡng không phải là nguyên nhân dẫn đến việc năng suất sữa của bò trong giai đoạn
thí nghiệm (12-13,9 kg/ngày; Bảng 4) giảm đi khá nhiều so với giai đoạn trước khi thí nghiệm
(15,2 kg/ngày). Yếu tố thời tiết có thể là tác nhân chính gây nên hiện tượng này. Trong thời gian
thí nghiệm chúng tôi quan sát thấy vào những ngày nắng nóng, bò thường có biểu hiện stress
nhiệt và cho năng suất sữa thấp hơn đáng kể so với những ngày thời tiết mát mẻ. Tuy nhiên việc
đánh giá mức độ ảnh hưởng của stress nhiệt đến năng suất sữa nằm ngoài phạm vi của nghiên
cứu này.

Bảng 7. Ảnh hưởng của chế độ và phương thức nuôi dưỡng đến tăng trọng của bò thí nghiệm

Lô 1
Lô 2
Lô 3
SEM
LSD
P
Khối lượng trước thí nghiệm (kg)
479,9
476,3
490,0
35,1
108,20
0,950
Khối lượng sau thí nghiệm (kg)
481,9
489,3
502,4
37,5
115,5
0,963
Mức tăng giảm khối lượng (kg/tháng)
2,0
13,0
12,4
6,3
19,4
0,954



Mức tăng khối lượng dự kiến (kg/tháng)

2,4
0,0



Chênh lệch giữa mức tăng dự kiến so với
thực tăng (kg)

10,6
12,4




Để xác định hiệu quả kinh tế của việc nuôi dưỡng theo chế độ và phương thức TMR so
với chế độ nuôi theo kinh nghiệm của các hộ bò sữa tại Ba Vì trong điều kiện mùa hè, chúng tôi
tiến hành xác định chi phí thức ăn cho 1 con/ngày (Bảng 8) và hiệu quả về kinh tế cho mô hình 5
bò vắt sữa như trong thí nghiệm này (Bảng 9). Kết quả cho thấy với chế độ cho ăn như trong
nghiên cứu này thì chi tiền thức ăn cho bò ở lô 1 là 61.958 đồng/ngày, ở lô 2 là 61.822
đồng/ngày và lô 3 là 64.856 đồng/ngày; chi phí tiền thức ăn cho bò ở lô 3 cao hơn lô 1 là 2898
đồng và cao hơn lô 2 là 3.034 đồng/con/ngày. Với năng suất sữa trung bình của các lô lần lượt là
12,8; 12 và 13,9 kg/con/ngày thì chi phí tiền thức ăn trung bình là 5206,6 đồng, 4945,8 đồng và
4804,1 đồng/kg sữa cho bò ở các lô 1, 2, 3 tương ứng. Như vậy mặc dù tổng chi phí tiền thức ăn
trên ngày cho bò ở lô 3 cao hơn lô 1 và lô 2 nhưng giá thành thức ăn khi tính trên 1 kg sữa lại
thấp hơn đáng kể với lần lượt là 402 đồng và 142 đồng thấp hơn.



Bảng 8. Chí phí tiền thức ăn
Nguyên
liệu
Đơn giá
(đ/kg)
Số lượng (kg/con/ngày)
Thành tiền (đ)
Lô 1
Lô 2
Lô 3
Lô 1
Lô 2
Lô 3
Cỏ voi
400
39,2±2,9
43,0±8,69
45,6±14,03
15.648±1.161
17.200±3.476
18.240±5.611
Hygro 005
6.000
6,20±1,48
3,1±0,67
3,1±0,44
37.200±8.889
18.840±4.016
18.720±2.663
Bã bia

800
1,9±1,82
3,1±0,22
2,9±0,22
1.520±1.453
2.480±179
2.320±179
Bột ngô
5.500
1,4±1,92
0,4±0,65
0,3±0,48
7.590±10.539
2.200±3.586
1.870±2.626
Đậu tương
11.000
-
1,1±0,85
1,4±0,41
-
12.540±9.321
15.180±4.562
Bột sắn
1800
-
1,9±1,09
1,8±0,9
-
3.348±1.966

3.312±1.613
Rỉ mật
3.000
-
1,0±0,0
1,0±0,0
-
3.000±0
3.000±0
Dầu ăn
18.000
-
0,1±0,12
0,1±0,05
-
1.800±2.205
1.800±1.273
Urea
9.000
-
0,05±0,01
0,05±0,02
-
414±80
414±136
Tổng chi






61.958±20.882
61.822±21.352
64.856±13.052

Với giả thiết chi phí cố định (con giống, chuồng trại) của các lô thí nghiệm là như nhau,
thì để nuôi theo phương thức cho ăn TMR người chăn nuôi phải đầu tư thêm máy thái cỏ và máy
trộn TMR với tổng chi phí khoảng 30 triệu đồng. Nếu tính khấu hao máy trong thời gian 6 năm
và mức lãi suất vay ngân hàng 14%/năm thì chi phí cố định ở lô 3 sẽ cao hơn 2 lô còn lại là
25.205 đ/ngày (bao gồm khấu hao máy móc 13.698 đ và lãi suất ngân hàng 11.507 đ/ngày).
Ngoài ra việc vận hành các loại máy này cũng làm chi phí tiền điện cho bò ở lô 3 tăng thêm 1073
đ/con/ngày (ở mức giá điện 1000 đ/KWh). Như vậy tổng các khoản chi phí phải đầu tư thêm khi
nuôi bằng phương thức TMR ở qui mô 5 bò vắt sữa so với lô 1 (chế độ dinh dưỡng của hộ chăn
nuôi tự xây dựng và cho ăn theo phương thức truyền thống tinh-thô riêng biệt) và lô 2 (chế độ
dinh dưỡng theo tiêu chuẩn NRC và cho ăn theo phương thức truyền thống tinh-thô riêng biệt)
lần lượt là 45.060 đ/ngày và 45.740 đ/ngày. Với giá bán sữa theo cơ chế thu mua của Công ty
sữa Vinamilk có tính đến chất lượng sữa là khoảng 7950 đ/kg đối với sữa bò lô 1 (mỡ trên 3,5%
và chất khô dưới 12%), 8300 đ/kg sữa bò lô 2 (3,5% <mỡ <4%) và chất khô trên 12%) và 8400
đồng/kg sữa bò lô 3 (mỡ trên 4% và chất khô trên 12%) thì tổng thu từ bán sữa của lô 3 cao hơn
lô 1 và lô 2 lần lượt là 61.720 đồng và 23.250 đồng/ngày. Như vậy với hiệu số tăng thu trừ tăng
chi của lô 3 so với lô 1 và lô 2 lần lượt là 16.650 đồng và -22.490 đồng/ngày (Bảng 9), việc đầu
tư máy móc và cho ăn theo phương thức TMR không đem lại hiệu quả kinh tế cho hộ chăn nuôi
bò sữa tại khu vực Ba Vì trong mùa hè khi qui mô đàn nhỏ (5 bò vắt sữa). Kết quả ở Bảng 9
cũng cho thấy mặc dù tổng chi phí biến động (thức ăn và năng lượng) cho bò ở lô 2 thấp hơn
680đ/ngày nhưng tổng thu tiền bán sữa lại cao hơn 38.475 đồng/ngày so với lô 1. Do đó với qui
mô 5 con vắt sữa/ngày thì việc xây dựng khẩu phần theo tiêu chuẩn của NRC (2001) và NARO
(2006) có thể làm tăng lợi nhuận cho hộ chăn nuôi bò sữa.
Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu trước của Nguyễn Hữu Lương và
cộng sự (2010) khi tiến hành thí nghiệm tương tự tại các hộ chăn nuôi bò sữa ở Ba Vì trong mùa



đông. Trong nghiên cứu trên các tác giả cũng đã tính toán cho thấy chỉ khi qui mô đàn vắt sữa
trên 22 con thì việc đầu tư máy móc và cho ăn theo phương thức TMR mới mang lại hiệu quả
kinh tế hơn so với phương thức cho ăn truyền thống. Ở nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy với
điều kiện như trong thí nghiệm thì để phương thức TMR mang lại hiệu quả kinh tế hơn so với
phương thức chăn nuôi truyền thống (tinh – thô riêng biệt) thì qui mô đàn vắt sữa phải đạt ít nhất
47 con. Tuy nhiên cần nhấn mạnh ở đây là hiệu quả kinh tế chỉ mang tính tương đối và không
thật sự ổn định vì phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố thường xuyên biến động như giá thức ăn, thiết
bị máy móc, giá thu mua sữa vv….Hơn nữa việc áp dụng phương thức cho ăn TMR không đem
lại hiệu quả sinh học (năng suất, chất lượng sữa) một cách rõ rệt cũng góp phần làm giảm mức
độ tin cậy của việc xác định hiệu quả kinh tế đối với mô hình chăn nuôi này.
Bảng 9. Tổng hợp chi phí và thu nhập (mô hình 5 con)

Lô 1
Lô 2
Lô 3
Chi phí cố định
1

A
A
A+25205
Chi phí biến đổi




Chi thức ăn (đ/ngày)
314.790
314.110

334.645

Chi phí điện (đ/ngày)
5000
5000
10366
Thu bán sữa (đ/ngày)
2

496.875
535.350
558.600
Tăng chi cố định (đ/ngày)
0
0
25205
Tăng chi biến động (TĂ + năng lượng; đ/ngày)




Lô 3 (TMR) so với lô 2


20.535

Lô 3 (TMR) so với lô 1


19.855


Lô 2 so với lô 1

-680

Tổng tăng chi (đ/ngày)




Lô 3 (TMR) so với lô 2


45.740

Lô 3 (TMR) so với lô 1


45.060

Lô 2 so với lô 1

-680

Tổng tăng thu (đ/ngày)




Lô 3 (TMR) so với lô 2



23.250

Lô 3 (TMR) so với lô 1


61.725

Lô 2 so với lô 1

38.475

Tăng thu – Tăng chi (đ/ngày)




Lô 3 (TMR) so với lô 2


-22.490

Lô 3 (TMR) so với lô 1


16.665

Lô 2 so với lô 1


39.155

1
: A là phần chi phí cố định giống nhau giữa các lô thí nghiệm
2
: Theo giá thu mua của công ty Vinamilk có tính đến chất lượng sữa (7950 đ/kg sữa lô 1, 8300 đ/kg sữa lô 2
và 8400 đ/kg sữa lô 3).

4. KÕt luËn vµ ®Ò nghÞ


4.1. Kết luận
Phương thức và chế độ dinh dưỡng không có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả sinh học
đối với bò vắt sữa giai đoạn 3-7 tháng của chu kỳ sữa nuôi tại các nông hộ ở Ba Vì trong điều
kiện mùa hè. Tuy nhiên với giá cả nguyên liệu và thu mua sữa như hiện nay thì việc nuôi theo
chế độ dinh dưỡng được xây dựng dựa trên tiêu chuẩn của NRC (2001) kết hợp với tiêu chuẩn
của NARO (2006) trong điều kiện mùa hè cho hiệu quả kinh tế cao hơn nuôi theo chế độ dinh
dưỡng do các hộ chăn nuôi tự xây dựng.
4.2. Đề nghị
Do bò thí nghiệm trong nghiên cứu này có năng suất sữa tương đối thấp và chủ yếu ở giai
đoạn sau của chu kỳ sữa nên cần tiến hành thêm các thí nghiệm trên những nhóm bò có năng
suất sữa cao và đặc biệt là nhóm bò trong giai đoạn đầu chu kỳ tiết sữa để đánh giá đầy đủ hơn
hiệu quả kinh tế và sinh học của chế độ dinh dưỡng và phương thức cho ăn khác nhau khi áp
dụng cho đàn bò sữa nông hộ.
Tµi liÖu tham kh¶o
1. AFRC (1993). Energy and protein requirement of ruminants. An advisory manual prepared by the AFRC
Technical Committee on Responses to Nutrients. CAB intẻnational, Wallingford, UK.
2. Agnew, R.E., Yan, T., Murphy, J.J., Feirris, C.P. and Gordon, F.J (2003). Development of maintenance
energy requirement and energetic efficiencyfor lactation from production data of dairy cows. Livestock
Production Science 82: 151-162.

3. ARC (1984). The Nutrient Requirements for Ruminant Livestock. Suppl 1. Commonwealth Agricultural
Bureau, Slough, UK.
4. Bộ NN&PTNT. 2008. Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020. Hà Nội, 2008.
5. INRA (1989). Ruminant Nutrition recommended allowance and Feed Tables, INRA, Paris, France.
6. Kearl, L. C. (1982). Nutrient Requirements of Ruminants in Developing Countries. International Feedtuffs Institute.
Utah Agricultural Experiment Station. Utah State University, Logan, USA.
7. Lammers, B.P., Heinrichs, A.J., Ishler, V.A (2007). Use of total mixed rations (TMR) for dairy cows.
www.das.psu.edu/dairynutrition/documents/tmr.pdf .
8. Lawes Agricultural Trust (2007). Genstat Discovery Edition 3.
9. NARO (2006). Japanese Feeding Standard for Dairy Cattle. Japan Livestock Industry Association.
10. Neitz, M.H and Dugmore, T. J (2005). Total mixed rations for dairy cattle.
/>xedRationsforDairyCattle/tabid/254/Default.aspx
11. NRC (1989). Nutrient requirements of dairy cattle: Sixth Revised Edition. National Academy Press
Washington D.C.
12. NRC (2001). Nutrient requirements of dairy cattle: Seventh Revised Edition. National Academy Press
Washington D.C.
13. Pozy, P., Dehareng, D và Vũ Chí Cương (2002). Nuôi dưỡng bò ở Miền Bắc Việt nam; Nhu cầu dinh
dưỡng của bò và giá trị dinh dưỡng của thức ăn. 124 trang, Nhà xuất bản Nông nghiệp.


14. Snowdon, M (1991). Total Mixed Rations for Dairy Cattle. Livestock Nutrition. Issue 91.3, July, 1991.
www.gnb.ca/0170/01700007-e.asp
15. Viện Chăn nuôi (2001). Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc gia cầm Việt nam. Nhà
xuất bản Nông nghiệp.
16. Nguyễn Hữu Lương, Đinh Văn Tuyền, Ngô Đình Tân, Nguyễn Xuân Thành (2010). Ảnh hưởng của chế độ
dinh dưỡng và phương thức cho ăn đến hiệu quả sinh học và hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò sữa nông
hộ tại Ba Vì. Báo cáo khoa học trình bày tại Hội nghị khoa học năm 2009 của Viện Chăn nuôi.

×