Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Chuyên đề những bài văn hay về Đây thôn vĩ dạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.98 KB, 41 trang )

1
PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ -TUYỂN TẬP NHỮNG BÀI
MẪU HAY
Bài mẫu 1: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật
lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây
đau xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ,
những phút giây ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết
lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong
những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa
quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung mà hồn
thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử.
Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên
nhiên hòa với lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hòa vào nhau. Mở
đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
2
Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao
yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối
với người yêu vì đã bỏ qua không được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình
quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện
của cảnh Huế. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu tiên
đến đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt
người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng
mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy


những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng vàng buổi bình minh. Cái
“nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi một nỗi niềm làng mạc quê hương đến
thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài
Xuân lòng:
Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu
3
Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơđùa quả non trắng phếu
Và chảy tan qua kẻ lá cành chanh.
Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm
mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên
chiếu rọi xuống làng quê mà trước hết nó chiếu vào những vườn cau làm cho
những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính
vào chiếc áo choàng nhung xanh mịn:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
“Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc
nhiên đến thẩn thờ”. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống
thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm
mắt vào ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây.
Ta không chỉ cảm nhận ởđó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sự sống mơn
mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gội rửa trở thành cành vàng lá ngọc.
Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như
ngọc” mới diễn tả được vẻđẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh
cao quý, không một chút gợn, một màu xanh tỏa ánh tạo nên vẻđẹp óng ánh, lấp
4
lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều
tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề
nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh
sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn
đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như

vậy. Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt là ở xứ Huế thì mới thấm
thía những vần thơ này:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia nhánh lá trúc và khuôn mặt chữđiền sao lại có
mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che
ngang khuôn mặt chữđiền. “Mặt chữđiền” – khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thấp thoáng
sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.
Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả
cảnh làng quê ở khổ đầu đã hé mở tình yêu, tác gỉ chuyển sang tả cảnh sông, với
niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
5
Có chở trăng về kịp tối nay?
Gió và mây đã gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn:
gió đi theo đường của gió, mây đi theo đường của mây, gió và mây xa nhau; không
thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ với người yêu có
thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm quan của nhà thơ trong xa cách nhớ thương,
và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự
chia li, giã biệt đọng lại trong long người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm
xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát đầy sức sống nhưởđoạn trước
nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất:
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu
xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử
thì dòng sông trôi lửng lờ của xứ Huế chỉ là “dòng nước buồn thiu” gợi cảm giác
buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự
thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những con người sống trong vòng đời tối
tăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bến bờ xa vắng, những

mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp con người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt
buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạn khác sống
6
cùng thời với Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng
với cách diễn đạt thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật
thiên nhiên tràn ngập ánh trăng, một ánh vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông,
làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ
mộng quá! Và cũng đa tình quá! “Dòng nước buồn thiu” đã hóa thành dòng sông
trăng lung linh, con thuyền khách đã hóa thành thuyền trăng. Tác giảđã gửi gắm
một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả
dòng sông trăng. Ý thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài hoa, thật là thơđẹp với
xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín
nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai
câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình quê chưa bị
phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không
giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi: Gió rít
tầng cao trăng ngã ngửa Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô. hay:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
7
Đợi gió đông về để lả lơi
“Trăng trở thành một khí quyển bao la mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn
Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông”. Nó là ông, là trời đất, là người ta.
Trăng biến hóa vô lường trong thơ ông, khi hữu thế khi vô hình, khi mê hoặc khi
kinh hoàng. Trở lại với dòng sông trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ. Ở đây sông là sông
trăng nhưng thi nhân lại xót xa hỏi:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?


Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không
kịp chở trăng về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số
phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về
thời gian cuộc đời ngắn ngủi. Vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không
đợi được vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời. Nhưng
hiện tại, con người còn đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
8
Ai biết tình ai có đậm đà?
Trái tim khao khát yêu thương, nhưng nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã
gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ ước ao,
hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả thấy
choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người
yêu. Hình như giữ những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách
nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu thơ tả thực cảnh Huế, Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương
khói đó có như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh
mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong những câu thơ ấy. những cô gái Huế
kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu, họ có
đậm đà chăng? Tác giảđâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông
chỉ hỏi:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hi vọng, đó
chỉ là sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi
9

mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại
nhưng lòng người vẫn thẩn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ “ai”, mở đầu:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”; tiếp đến “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” và
kết thúc: “Ai biết tình ai có đậm đà?” càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói
hơn, huyền bí hơn.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền quê đất
nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với
nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người. Trải qua bao năm
tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi, lay động day dứt lòng
người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau thương ấy có sức bay bổng
lạ kì” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng, tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Xin thành
kính thắp một nén nhang trước một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời thổn
thức vì tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã thăng hoa nỗi đau thương, bất hạnh của đời
mình thành những đóa hoa thơ mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là Đây
thôn Vĩ Dạ.
Bài mẫu 2: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong "Tập thơ Điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà
thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con
10
người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mặc Tử đã
viết về một tình yêu - tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng
đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh
phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
1. Câu đầu của khổ thơ thứ nhất "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng
vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ.
Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mấy
xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ
niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người
xứ Huế mộng mơ:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?"
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi
nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới,
"nắng mới lên" rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ
bao đời nay. Hàng cau như chào mời, như vẫy gọi.
11
Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng
trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Sương
đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới
ánh mai hồng, trông "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu
thuận hòa, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc "xanh như ngọc" ấy. Thiên
nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích,
trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá " ("Thơ
duyên"). Hai chữ "vườn ai" gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu
thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền".
Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt
chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một
nét vẽ thần tình đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín
đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc
như tỏa bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:
"Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây"
("Mùa xuân chín")
Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với
một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và
12
ẩn dụ (xanh như ngọc , mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân
thuộc đáng yêu.
Vĩ Dạ - một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ

Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê
hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà
ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập
lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ
vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ
đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ
ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở
lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách
tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.
2. Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ
thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông
và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn
phiên cảnh hài hoà, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ,
tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm đềm trôi lững lờ, trong
tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp lay,
nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông
13
Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương
vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa như nỗi lòng, như tâm tình thi
nhân vậy:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới
hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành "sông
trăng". Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng
sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết:
"Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam
hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em
hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong "Đây thôn Vĩ
Dạ" là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp
thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ
14
mộng và thoáng buồn. ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thía một
nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.
3. Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà
thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông
Hương - Da thơm là phấn, má hường là son ". Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm
mai và chiều tà lắm sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với
tình cố hương. ở đây sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn
mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện,
trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn,
bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với
một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình
này?
"Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà"
"Mơ khách đường xa, khách đường xa ai biết ai có " các điệp ngữ và
luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi
15
buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc
thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối
tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.
Cũng cần nói một đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai"
xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" - "Thuyền ai
đậu bến sông trăng đó?" - "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói

đến là con người xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm
thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi
vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ ảo cùng sương khói?
Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và
người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ, bao hình
ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích.
"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn
ai, con thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hồn ta đi
về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương
nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong "Đây thôn Vĩ
Dạ" vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta:
"Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
16
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô".
Bài mẫu 3: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? "Trăng nằm sóng soãi trên cành
liễu - Đợi gió đông về để lả lơi " ("Bẽn lẽn") - Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng,
sông trăng, bến trăng Cả một trời trăng ảo mộng, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử
rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn "say trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời,
vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ
mới -9. Với 28 tuổi đời -18, ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và
một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình
tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ ("Mùa xuân
chín"), về Huế đẹp và thơ ("Đây thôn Vĩ Dạ") như Hàn Mặc Tử.
"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong tập "Thơ điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà
thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con
người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu - tình yêu thơ mộng
đắm say, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng

17
khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh
và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ
nhàng trách móc người thương biết bao thương nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu,
đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mấy xa xôi. Cảnh cũ
người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy
trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng
mơ:
"Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?"
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm
nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ.
Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút
là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá
nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ
Dạ: "Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu
xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá"
18
một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, con người cần cù
chăm bón mới có "màu xanh ngọc" ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức
sống. Cũng nói về mùa xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết:
"Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá " ("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn ai" đã gợi ra
nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với vườn xuân: "Lá trúc che
ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn mới đẹp. Mặt chữ điền,
gương mặt đầy đặn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình đã tô
đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn
Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che
chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:

"Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý nhị và thơ ngây".
(Mùa xuân chín)
Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng mới, tả vườn xuân, tả trúc và thiếu
nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so
sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc mặt chữ điền). Cảnh và người nơi thôn Vĩ Dạ thật
hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.
19
Vĩ Dạ - một làng quê nằm bên bờ sông Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô
Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa,
sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm
trúc, mà ở đấy thường dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn tam
thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ
Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật
thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và
hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, hài hòa và sống động. Gió mây đôi ngả như
mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ
lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác.
"Hoa bắp lay" nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng
của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi
nên nhiều vương vấn mộng mơ:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
20
Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con
đò mộng nằm trên bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành sông trăng. Hàn
Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương
với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa
một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần

thơ trăng độc đáo:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em
hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo "Đây thôn Vĩ Dạ" là
những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ làm ta rung động trước vẻ đẹp hữu
tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và
thoáng buồn.
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà thơ
Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông Hương -
Da thơm là phấn, má hường là son" Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và
chiều tà phủ mờ sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với
21
tình cố hương. Ở đây sương khói làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi
không ra hình dáng em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong,
kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa, thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng.
Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng ôm ấp mối tình với một thiếu nữ Huế mang tên một
loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này?
"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
"Mơ khách đường xa, khách đường xa ai biết ai có", các điệp ngữ luyến
láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm
thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình
tình nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn bệnh tật.
Cũng cần nói đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất
hiện đều mơ hồ ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" - "Thuyền ai đậu bến
sông trăng đó?" - "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói đến là
con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt

22
hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong
manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ đi cùng sương khói?
Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng
và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ bao hình ảnh và cảm
xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là
một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên
sông trăng, và màu trắng của áo em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của
Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng:
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Bài mẫu 4: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cảnh liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”.
23
Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao
trăng” nổi tiếng ấy của một nhà thơ cũng rất nổi tiếng trong những năm ba mươi
của thế kỉ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử – một tên tuổi mãi mãi in đậm trong
tấm lòng đọc giả. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn,
dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Ông
“đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với
cuộc đời thực”. Có lẽ vì vậy mà trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài
Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Tuy vậy,
bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ thường.
“Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong tập “Thơ Điên” là một bài thơ như thế. Đây chính là
sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng kia – là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình
yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả
một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ

Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi
tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp
của tâm hồn nhà thơ.
“Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ tuyệt bút này đã từng gây ra biết bao tranh luận
bởi cái hay của nó không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật từ âm
điệu, câu chữ, hình ảnh đến cả nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được vận dụng một cách
24
thành thạo và khéo léo, nhưng cảnh thì ít mà tình thì nhiều cho nên cả bài thơ là
một âm điệu du dương được gảy lên từ tiếng lòng của chính nhà thơ. Có tài liệu cho
rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của
Hoàng Cúc – người yêu đơn phương mà ông đã thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa –
một người con gái dịu dàng thướt tha của thôn Vĩ xứ Huế. Nhưng bức tranh thôn
Vĩ mà Hoàng Cúc gửi cho tác giả chỉ là cái cớ trực tiếp để nảy sinh thơ, còn động
lực và cội nguồn sâu xa làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn lâu rồi, chỉ
chờ đến cơ hội là nó sẽ bộc phát. Đó là vẻ đẹp của một dáng Huế yêu kiều – nơi đã
khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con gái và cũng là nơi để lại một
mối tình đơn phương trong lòng tác giả:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”
Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cho bao văn nghệ sĩ, không ít
người đã có những sáng tác xúc động về xứ Huế mộng mơ này: “Đã bao lần đến
với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay là “Trở lại Huế thương bài
thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông…”, Huế có trong câu
hát, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu
bài thơ là một câu hỏi mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc,
vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng
chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách
25
đấy mà sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Không phải của
Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết vối Huế của thi
nhân mà vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải này. Thật sự ở thôn Vĩ có cái gì đặc biệt

và hấp dẫn mà tác giả đã giục giã mọi người đến đấy? Ba câu thơ tiếp theo sẽ vẽ ra
một hình tượng chung – một mảnh vườn thông Vĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng
tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên
nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được
đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh
nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”
Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”,
“nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” đã tỏa sức nóng cho bức
tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong và sáng đang trải dài trên những tán cau còn

×