Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 13 trang )

Phân tích bài thơ Bên kia sơng Đuống của Hồng Cầm
I . ĐẶT VẤN ĐỀ .
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Mỗi một con người ai cũng có một q hương. Và Hồng Cầm cũng vậy, mảnh đất
ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Nhớ về quê hương
là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà
thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống”.
Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót
khi nghe tin q hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ơng .Đứng
bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sơng Đuống, mảnh
đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng. Một dịng sơng mà
giờ đây đơi bờ cách biệt .
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .
Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau
đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sơng Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
“Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cơ
gái cùng q bên kia sơng Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hồng Cầm ta thường gặp
một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một
cách chân thành nhất .


Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà
thơ. Trong niềm hồi niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sơng q hương với bờ cát
trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như
một dịng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi


mía, nương dâu:
Sơng Đuống trơi đi
Một dịng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Dáng nằm nghiêng nghiêng của dịng sơng Đuống là một phát hiện, một sáng tạo
độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp
nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian
và thời gian, ám ảnh hồi tâm trí người đọc.
Từ bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết
thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Hồng Cầm đã
mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh
thần. Phải là người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến
như vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình.
Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận
trước cảnh tượng q hương thanh bình, đơng vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Từ
cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.
Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng –
biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ – biểu tượng của đời sống tinh thần
lành mạnh.
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp


Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà
thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới:
ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khơ, nhà cháy, con người chia li, cả lồi vật cũng thành
ra tan tác:
Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Ở đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh
tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn
gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của q hương Kinh Bắc.
Khơng chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền
chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc,
bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ.
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu
Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên
bơ vơ, tan tác. Cũng khơng cịn nữa những hội hè đơng vui, nhơn nhịp. Chỉ cịn tiếng
chng chùa văng vẳng từ thuở bình n xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang
vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.
Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán
đông vui, sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cơ gái Kinh Bắc dăng tơ dệt
lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết
bao tình tứ.


Ai về bên kia sơng Đuống
Có nhớ từng khn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa, khơng biết đi đâu, về đâu.
Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương,
Hoàng Cầm đã dành tình cảm sâu nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ

già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới.
Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người
khơng sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng khơng chốn
nương thân.
Có con cị trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dịng sơng Đuống về đâu
Mẹ ta lịng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Hình ảnh cánh cị lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng khơng phải là cánh cị bay lả
bay la của thời bình nữa mà là cánh cị hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên
lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.
Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hồng Cầm gợi lên
trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi
thức lẫn khi ngủ, cái chết ln rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà
thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngươi hờn


Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh
tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang
uất hận, căm thù.
Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng
ở đoạn kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng
quê Kinh Bắc. Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa khơng khí tưng
bừng của ngày hội .
Em đi trẩy hội non sơng
Cười mê ánh sáng mn lịng xn xanh
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ .
Bên kia sông Đuống là những dịng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong

sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương u dấu của mình, và qua đó đánh
thức trong mỗi chúng ta tình u q hương đất nước. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng
cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.
Bài văn mẫu 2:
Nhà thơ Hoàng Cầm sinh ra ở Bắc Ninh – quê hương quan họ với những làn điệu
dân ca ngọt ngào đằm thắm chính là suối nguồn ni dưỡng tâm hồn thơ ca của ông.
Mảnh đất Kinh Bắc đã gợi thương gợi nhớ cho Hồng Cầm, nó giống như một ám ảnh
nghệ thuật trong thơ ông. Đọc thơ ông, thấy hiện lên cảnh vật và con người Kinh Bắc –
một vùng đất trù phú, hữu tình với biết bao di tích lịch sử, đền đài, miếu mạo, biết bao
những sinh hoạt, những truyền thống văn hóa lâu đời: Hội Gióng, hội Lim.. Bài thơ
Bên km sơng Đuống là một kết tinh nghệ thuật tiêu biểu của nhà thơ.
Mỗi khổ thơ trong bài thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dịng sơng Đuống – một
sinh thể hữu hình tiềm ẩn sức sống, văn hóa, tâm hồn Kinh Bắc, tạo cho bài thơ như
một bản giao hưởng trầm hùng thấm đượm chất trữ tình, cảm hứng ấy được bộc lộ khá


rõ ngay từ mở đầu bài thơ, khi người con của quê hương đứng ở "Bên này" nhìn về
Bên kia sông Đuống:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về Bên kia sông Đuống
Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, câu thơ vừa như lời gọi vừa như một lời an ủi, vỗ về.
Hai câu thơ chủ yếu sử dụng toàn thanh bằng, tạo ra được độ mênh mang, dàn trải
trong cảm xúc. Nó làm cho bài thơ nhẹ nhàng, như ru như hát gợi dậy trong lòng người
bao nỗi niềm bâng khng. Tác giả trị chuyện tâm tình với người em gái Kinh Bắc hay
cũng chính là giãi bày lịng mình, an ủi em cũng chính là an ủi mình, đó chỉ là cái cớ để
bộc lộ cảm xúc của tác giả. Sông Đuống là điểm đến trong tâm tưởng của Hoàng cầm.
Ngay cả lời an ủi người em gái cũng hướng về dịng sơng đầy kỉ niệm ấy.
Rõ ràng hình ảnh sơng Đuống là một ám ảnh trong ký ức của Hoàng Cầm về quê
hương Kinh Bắc. Sau khi giới thiệu, nhà thơ tiếp tục làm rõ bức tranh tồn cảnh của
dịng sơng này:

Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sơng Đuống trơi đi
Một dịng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
“Ngày xưa cát trắng phẳng lì" giống như một câu thơ bản lề. Từ "ngày xưa” làm
cho thời gian hiện tại như bị đẩy lùi về quá khứ, người ta ngỡ như bắt gặp đâu đó thế
giới cổ tích huyền diệu. Câu thơ ắp đầy hồi niệm bâng khng. Hình ảnh Kinh Bắc
thanh bình phẳng lặng cịn được gợi tả khá tài tình qua "cát trắng phẳng lì" – chỉ cần
gợi ra một chi tiết mà giúp người đọc nhận ra thần thái của cả bức tranh. Ở đây, hình
ảnh sơng Đuống được miêu tả cụ thể, đẹp đẽ, sống động, nó giống như một chinh thể
đẹp mà ở góc nhìn nào người ta cũng cảm nhận được và kiêu hãnh với vẻ đẹp của nó.
Khơng những thế, sơng Đuống cịn được nhìn trong trạng thái động "Sơng Đuống trôi
đi” nhưng quan trọng hơn nữa, người đọc cảm nhận dịng chảy của nó, sự trơi chảy của


dịng sơng cũng chính là sự trơi chảy của thời gian lịch sử. Nhà thơ còn sử dụng từ láy
"lấp lánh" tạo ra sự lung linh, rực rỡ, mỹ lệ cho dịng sơng. Trong cái lấp lánh ấy người
đọc cảm nhận được ánh sáng của nó, lúc này đây dịng sơng đã trở thành dịng ánh sáng,
khơng những thế dường như chúng ta còn cảm thấy niềm tự hào kiêu hãnh của tác giả
gửi gắm trong câu thơ này. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa là cho dịng
sơng có dáng "nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì", sơng Đuống giống
như một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến của dân tộc. Cái hay của câu
thơ là ở từ "nghiêng nghiêng" – từ láy tạo hình chúng ta như cảm nhận được vóc dáng
của dịng sơng mềm mại uốn lượn và rất nhịp nhàng, gợi cảm. Có lẽ phải có cái dáng
"nằm nghiêng nghiêng" ấy con sơng mới như một sinh thể có hồn, có tâm trạng hơn,
phải chăng vì thế mà có ý kiến cho rằng: hình ảnh sơng Đuống trong cảm nhận của
Hoàng Cầm được miêu tả như một người thiếu nữ trong nỗi niềm trăn trở, lo âu. Tiếp
đó, hình ảnh một chốn q thanh bình, một khơng gian n ả đã hiện ra:
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngơ khoai biêng biếc

Đây là những nét vẽ điển hình của làng quê Việt Nam, đây là bãi mía bờ dâu, kia là
ngơ khoai. Tất cả đều là những hình ảnh quen thuộc, bình dị đối với con người Việt
Nam. Hồng Cầm viết về những hình ảnh ấy bằng tất cả sự gắn bó và niềm yêu mến
tha thiết. Bao trùm lên tồn bộ khơng gian là một mầu xanh nhưng với những sắc độ
khác nhau, "xanh xanh", "biêng biếc". Người đọc cảm nhận được nét trù phú tốt tươi,
khoáng đạt, trong sáng của cảnh vật, chúng như ánh lên một sự sống mạnh mẽ. Bài thơ
này được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương, mê mải với quá khứ thanh bình rồi ngỡ
ngàng với nỗi đau ở hiện tại. Hai câu thơ tiếp theo như vỡ òa nước mắt:
Đứng bên này sơng sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên này – bên kia, một dịng sơng chia cách hai khoảng trời, chia cách đôi bờ Kinh
Bắc một bên là vùng tự do, một bên đã bị giặc chiếm đóng. Cấu trúc "sao nhớ tiếc"
"sao xót xa" ẩn chứa đầy tâm trạng đớn đau, mà nhớ, tiếc nuối xót xa. Chữ "sao" như


xốy vào lịng người đọc một nỗi nhức nhối, đau đáu, khơn ngi, xưa là thanh bình
đẹp đẽ, nay là đau đớn chia lìa. Ở đây nỗi đau đã lên đến tột cùng và được cụ thể hóa
như là có thể cảm giác được quê hương như là một phần máu thịt, bởi thế quê hương bị
chia cắt cũng giống như con người mất đi một phần cơ thể mình. "Như rụng bàn tay –
một hình ảnh so sánh thật tự nhiên, giản dị nhưng rất sâu sắc đã tiếp thêm tình u nỗi
nhớ khơn ngi của Hồng Cầm đối với mảnh đất Kinh Bắc. Nỗi nhớ này là điểm xuất
phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương Kinh Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch
thơ của ông. Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một điệp khúc giàu sức gợi hình tượng:
Bèn kia sơng Đuống
Q hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Bằng nhữg câu thơ trên, nhà thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động và
điển hình nhất bức tranh làng quê Kinh Bắc. Một bức tranh đầy màu sắc, ánh sáng và
hương vị. Lời giới thiệu "quê hương ta lúa nếp thơm nồng" hết sức mộc mạc, nó như

một nét vẽ bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi dậy bao ám ảnh trong lòng
người đọc về một quê hương thanh bình yên ả. Những bức tranh Đơng Hồ là hình ảnh
đặc trưng của q hương Kinh Bắc thể hiện được bản sắc văn hóa tinh hoa của con
người trên từng nét vẽ. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc sống tinh thần người
Kinh Bắc. Những bức tranh Đông Hồ do những nghệ sĩ dân gian sáng tác bao gồm
những đề tài quen thuộc phản ánh tâm tư khát vọng trong sáng lãng mạn và khơng kém
phần dí dỏm của người liên doanh: đám cưới chuột, đàn lợn, hứng dừa, đánh ghen…
chúng được vẽ trên giấy dó, giấy điệp, vẽ bằng chất liệu cỏ cây, hoa lá, đất cát quê
hương. Như vậy nét tươi trong của tranh Đông Hồ không chỉ gợi ra cái tươi tắn trong
trẻo mà còn chứa nét đẹp rạng ngời tinh khôi. Chữ "sáng bừng" được dùng khá độc đáo,
nó khơng cịn là tính từ mà đã được sử dụng như một động từ không chỉ để chỉ ánh
sáng mà còn khẳng định sức sống kỳ diệu của dân tộc. "Màu dân tộc" trở thành một ẩn
dụ độc đáo của Hồng cầm, qua đó thể hiện niềm kiêu hãnh của nhà thơ về bản sắc văn


hóa của dân tộc mình. Bởi q hương xiết bao yêu dấu, tự hào sống trọn trong trái tim
khói lửa, nhà thơ đã diễn tả nồi đau xót căm hờn xen lẫn sự tiếc nuối xót thương với
những hình ảnh đầy ấn tượng:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khơ
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đơi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Câu thơ đầu giống như câu thơ bản lề làm chuyển đổi mạch cảm xúc của bài thơ.

Tác giả gọi những ngày giặc xâm chiến là những ngày "khủng khiếp” cho thấy sự khốc
liệt của chiến tranh. Nhiều hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để gọi tả sự khốc liệt này, hình
ảnh “lửa hung tàn” gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thịi là tiếng nói tố cáo phê phán
gay gắt chiến tranh. Nếu ở khổ thơ phía trên nhịp thơ đều đặn dàn trải ổn định thì đến
khổ thơ này những câu thơ ngơn ngắt nhịp mạnh dồn dập liên tiếp chỉ tội ác chồng chất
của kẻ thù cùng với niềm căm thù ngút tròi và nổi đau tột cùng của con người Từ láy
"ngùn ngụt" khơng chi là từ gợi hình chi ngọn lửa mà chính là lịng căm thù của con
người bị đốt cháy – những câu thơ của Hoàng cầm rất giàu sắc thái biểu cảm, bao trùm
lên không gian là sự hoang tàn, vắng lạnh, xơ xác, khơng cịn cái vẻ thanh bình, cái nét
trù phú tươi tắn. Tất cả chi là một cảnh tượng chia li chết chóc. Chữ kiệt cùng được
dùng rất hay – không gian càng trở nên sâu thẳm, nỗi đau được biểu hiện tột cùng.
Điều đặc biệt là tác giả khơng miêu tả cụ thể hình ảnh con người nhưng dấu ấn về cuộc
sống chia li hoang tàn vẫn được biểu hiện rõ, ông đã mượn hình ảnh nhũng con vật vơ


tri trong bức tranh Đơng Hồ để nói về nỗi đau của con người, đây là một dụng ý nghệ
thuật sâu xa của nhà thơ Hoàng Cầm. Đằng sau nỗi đau là hình ảnh quê hương Kinh
Bắc với những phong tục tập quán, những hội hè, đình đám, được gợi nhắc lại hết sức
sống động:
Ai về Bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thơi
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Ở đây ta bắt gặp một phong tục đẹp đẽ vùng Kinh Bắc. Tấm the đen gửi về may áo.
Nó khơng chỉ là nét vẽ truyền thống mà con là hành động gửi thương gửi nhớ của con

người, qua đó thể hiện niềm trân trọng yêu mến sâu sắc của tác giả với con người Kinh
Bắc. Các địa danh Thiên Thai, Bút Tháp, Lang Tài được gợi nhắc đã thể hiện niềm
kiêu hãnh và tự hào sâu sắc của nhà thơ về vẻ đẹp quê hương mình. Mặt khác các địa
danh này lại đi liền với các từ có ý nghĩa định vị về mặt khơng gian là "trên", "trong",
"giữa". Nhà thơ Hồng cầm đã mở ra trước mắt người đọc một không gian rộng lớn
mênh mơng, khơng gian của "mộng bình n" đẹp đẽ, thơ mộng. Thêm nữa có một nét
vẽ cổ điển của âm thanh tiếng chuông chùa văng vẳng lại như điểm nhịp cho cuộc sống
yên ả, bình dị của Kinh Bắc. Hình ảnh con người Kinh Bắc được phác họa bằng những
câu thơ cụ thể:
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt áo nâu


Chỉ bằng vài nét phác họa, Hoàng cầm đã dựng nên trước mắt người đọc từng bức
chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc, họ đều rạng ngời với vẻ đẹp truyền thống,
những người thiếu nữ, có vẻ đảm đang tháo vát, nhũng cụ già phúc hậu, những em nhỏ
ngây thơ tinh nghịch. Rõ ràng ở đây ta thấy niềm yêu mến sâu sắc của tác giả. Những
nỗi ám ảnh trong Hồng cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh người con gái Kinh Bắc.
Ơng đã dùng những câu thơ đẹp nhất, tài hoa nhất để gợi tả họ:
Có nhớ từng khn mặt búp sen
Những cơ hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chữ "Có nhớ" đặt ở đầu câu thơ là lời gợi nhắc đầy ám ảnh, hình ảnh "khn mặt
búp sen" gợi tả khn mặt người con gái vừa đoan trang, trong trắng, phúc hậu vừa dịu
dàng, và đây cũng là nét vẽ điển hình nhất của người con gái Kinh Bắc nói riêng và của
người con gái Việt Nam nói chung. Và gắn liền với hình ảnh "cơ hàng xén ràng đen”,
đây lại là một phong tục tập quán cổ truyền, một nét vẽ truyền thống người con gái
Kinh Bắc. Cái hay nhất của đoạn thơ trên là biện pháp tu từ so sánh giữa nụ cười thiếu
nữ Kinh Bắc với ánh nắng mùa thu. Dường như ở đây có một sự giao hịa giữa vẻ đẹp

con người và vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Nét rạng ngời tươi tắn trong nụ cười cô gái
cũng giống với nét rạng ngời tươi tắn của nắng mùa thu chứ khơng phải cái nắng nóng
bỏng gay gắt của mùa hè hay yếu ớt ảm đạm của mùa đơng, nắng thu như tỏa trong nó
một sức sống mạnh mẽ. Đến đây người đọc như khơng cịn thấy dấu tích của chiến
tranh, bởi vậy câu thơ ẩn chứa một niềm tin tưởng lạc quan của con người. Một không
gian Kinh Bắc nhộn nhịp, tấp nập được gợi tả qua một loạt những câu thơ tiếp, hình
ảnh người người đơng đúc trong một khơng khí tưng bừng náo nức đã khẳng định một
sức sống mạnh mẽ của quê hương Kinh Bắc. Tình yêu quê hương Kinh Bắc tràn đầy
trong những vần thơ. Trong hoài niệm của Hoàng cầm về con người Kinh Bắc có hình
ảnh người mẹ:
Mẹ già nua cịm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô


Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Những câu thơ đậm màu sắc tả thực. Từ láy "còm cõi" đã diễn tả rất tinh tế vóc
dáng khổ hạnh của người mẹ đồng thời chỉ rõ những vất vả, nhọc nhằn, lo toan mà
người mẹ phải chịu đựng, trong lòng người đọc như dâng lên sự cảm thương sâu sắc.
Gian hàng của người mẹ chẳng có gì, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng, vài thếp
giấy đã hoen vàng. Các từ "dăm", "vài" là các từ chỉ số nhiều nhưng trong cảm nhận
của người đọc, người ta ngỡ như chỉ những thứ hàng hóa ít ỏi, sơ sài của người mẹ, chữ
"hoen" được sử dụng rất hay, "hoen" không chỉ là sương thấm vào giấy mà như thấm
cả giọt nước mắt, mồ hôi của mẹ. Đi liền với hình ảnh người mẹ là tội ác của kẻ thù:
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy qn gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Tác giả gọi kẻ thù là "lũ quỷ mắt xanh" – một hình ảnh ẩn dụ chỉ tội ác tàn bạo và
dã man của kẻ thù, từ láy "trừng trợn" không chỉ gợi dáng vẻ nạt nộ, dọa dẫm của kẻ

thù mà con góp phần lột tả sống động chân dung của kẻ khát máu, qn cướp bóc.
Khơng những thế, chữ "chợt" chỉ gót giày quân xâm lược đột ngột, bất ngờ, khơng gian
thanh bình bỗng chốc bị phá vỡ. Tác giả sử dụng những từ mạnh mang sắc thái biểu
cảm cao "khua" "đạp", "xì xồ", "tan", "gầy teo" diễn tả những hành động dã man liên
tiếp của kẻ thù những tội ác chồng chất. Hình ảnh con người hàng xóm, q hương như
bị thu hẹp lai dưới gót giày tàn bạo của quân xâm lược. Qua đó ta thấy tội ác kẻ thù
càng tăng, niềm căm thù càng trở nên mạnh mẽ, nỗi đau càng trở nên sâu thẳm. Tột
cùng nỗi đau thương trong tâm hồn thi sĩ được đúc kết, gửi gắm qua hai câu thơ lục bát
đầy xúc động:
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vét máu loang chiều mùa đông


Không gian hoang sơ hiu quạnh được gọi tả với vài chiếc lá đa thưa thớt, một chiều
mùa đông nhuộm đỏ: đỏ của mầu máu, đỏ của ráng chiều. Câu thơ có khả năng gây ấn
tượng cực mạnh đối với người đọc. Câu “lá đa lác đác trước lều” gợi âm điệu buồn tẻ,
rời rạc, điểm nhịp cho không gian vắng vẻ, thưa thớt, hiu quạnh của làng quê Việt Nam
trong những ngày tháng kẻ tù xâm lược các từ “vài ba”, “loang” được sử dụng rất đắt
giúp người đọc cảm nhận được từng vết máu đang loang dần, từng chứt từng chút vào
cảnh vật cũng như vào con người. Mùa đông vốn ảm đạm, thời gian chiều mùa dông
càng khắc sâu thêm sự ảm đạm ấy. Câu thơ đã gọi tả sực khốc liệt của chiến tranh.
Những vết máu của chiến tranh thấm đỏ khung trời hay ráng chiều nhuộm đỏ. Tất cả
đều gợi sự bi thương tang tóc. Như vậy, hai câu thơ tả ít mà gợi nhiều, nó khơng chỉ
đánh thức người đọc niềm căm thù sơi sục quân xâm lược mà con gợi dậy một nỗi đau
khôn cùng. Câu thơ tràn ngập một màu máu và thấm đẫm nỗi khóc thương nhỏ lệ.
Khơng có cuộc sống gắn bó máu thịt vói q hương, khơng tha thiết với vẻ đẹp tinh
túy của truyền thống quê hương thì nhà thơ Hồng cầm có lẽ khơng thể có những mẫn
cảm kỳ diệu như vậy. Đọc những dòng thơ nhà thơ viết về Kinh Bắc, chúng ta lại bồi
hồi liên tưởng đến quê hương mình và cảm ơn nhà thơ đã nói đúng phần hồn linh
nghiêm nhất của chúng ta mỗi khi trào dâng cảm xúc hoài niệm về quê hương.




×