Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP-thực trạng về thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 đến 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.35 KB, 31 trang )

ĐỀ TÀI THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ NĂM
2008 ĐẾN NĂM 2011
1. Sự cần thiết của đề tài.
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời đầu năm 2000. Thuật ngữ “Thị
trường chứng khoán” còn khá mới mẻ đối với công chúng Việt Nam. Trong khi đó ở
nhiều nước trên thế giới, thị trường chứng khoán đã phát triển rất sôi động. Đầu tư vào
thị trường chứng khoán đã trở nên quan trọng đối với mọi người.
Để tham gia vào thị trường chứng khoán, mọi người đều phải có các kiến thức nhất
định về thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát triển được
nếu có sự tham gia ngày càng đông của những người có đầy đủ kiến thức về thị
trường chứng khoán. Do đó, kiến thức của mọi người dân về thị trường chứng khoán ở
Việt Nam cần được nâng cao. Thị trường chứng khoán có sự hấp dẫn vốn có của nó.
Nó không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế của một nước mà nó còn quan trọng đối
với mỗi người bởi vì khả năng đầu tư sinh lợi của nó. Vì vậy, mỗi người tuỳ theo điều
kiện, khả năng của mình mà cần phải tiếp cận thật nhanh để tham gia đầu tư có hiệu
quả vào thị trường chứng khoán. Chính các hoạt động đó sẽ góp phần đưa thị
trường chứng khoán Việt Nam phát triển. Vì vậy em chọn đề “ thực trạng về thị
trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 đến 2011” làm đề án cho mình.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Do qui mô của bài viết và thời gian làm bài bị hạn chế, cho nên bài viết này chỉ tập
trung đề cập vào những nội dung cơ bản nhất của thị trường chứng khoán. Kiến thức về
thị trường chứng khoán rất lớn nhưng những kiến thức trong bài viết này cũng tương
đối đủ để hiểu về thị trường chứng khoán.
Về phần nói về thực trạng và một số giải pháp cho thị trường chứng khoán Việt
Nam, cũng do đó có nhiều hạn chế. Vì vậy, bài viết này cũng chỉ tập trung vào những
vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất đối với thị trường chứng khoán Việt Nam
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề án là thị trường chứng khoán. Phạm vi nghiên cứu là ở
Việt Nam trong giai đoạn năm 2008 đến 2011
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy


vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và các quan điểm của các nhà kinh tế hiện
đại của nước ngoài và Việt Nam, các quan điểm, , lý giải các chỉ số và đề xuát các giải
pháp can thiệp qua các phương pháp.
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp logic học và phương pháp thời gian trong
đó các công cụ phân tích thống kê và phân tích định lượng được sử dụng để giải quyết
vấn đề.
Nghiên cứu hệ thống lý thuyết và thực tiễn về vấn đề thị trường chứng khoán với các
giải pháp phù hợp cho việc thực trạng về thị trường chứng khoán ở Việt Nam từ năm
2008 đến 2011.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm các nội dung sau:
- Lời mở đầu
- Chương I. Cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán
- Chương II. Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay
- Chương III. Một số giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam.
Lời kết luận.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1.Khái niệm về thị trường chứng khoán
1.1.1 Khái niệm chứng khoán:
Chứng khoán là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó xác nhận quyền
đòi nợ hay quyền sở hữu về tài sản, bao gồm những điều kiện về thu nhập trong một
khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng.
1.1.2 Khái niệm thị Trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra hoạt động giao dịch, mua bán các loại chứng
khoán được tiến hành bởi những đối tượng khác nhau theo quy định của pháp luật.
1.1.3 Đặc điểm thị trướng chứng khoán:
Là môi trường đầu tư cho công chúng giúp chuyển tiết kiệm sở hữu thành vốn đầu tư.
Là kênh dẫn vốn trực tiếp để tài trợ các dự án phát triển kinh tế quốc gia.
Là nơi cung cấp thông tin hỗ trợ quản lý kinh tế vĩ mô cũng như quản lý kinh tế vĩ

mô.
1.2. Phân loại thị trường chứng khoán
1.2.1 Căn cứ vào tính chất pháp lý:
Thị trường chứng khoán chính thức hay còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán là nơi
mua bán loại chứng khoán được niêm yết có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt, giá cả
được xác định theo hình thức đấu giá hoặc đấu lệnh.
Thị trường chứng khoán phi chính thức hay còn gọi là thị trường OTC là nơi mua
bán chứng khoán bên ngoài Sở giao dịch, không có ngày giờ nghỉ hay thủ tục quyết
định mà do thoả thuận giữa người mua và người bán.
Thị trường chứng khoán chính thức có giá trị như “bộ mặt” thị trường chứng khoán
quốc gia, các bộ phận thị trường khác thể hiện sự đa dạng của các giao dịch có thể lựa
chọn. Hàng hoá của thị trường tập trung cũng là những hàng hoá có thể đánh giá có chất
lượng hơn so với hàng hoá của thị trường khác, do tính có tổ chức của nó; điều đó cũng
có nghĩa sự an toàn hay rủi ro, cơ hội kiếm lời là khác nhau trong các giao dịch trên thị
trường.
1.2.2. Căn cứ vào quá trình luân chuyển:
Thị trường phát hành hay còn gọi là thị trường sơ cấp là nơi các chứng khoán được
phát hành lần đầu bởi các nhà phát hành được bán cho các nhà đầu tư.
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp. Bộ phận thị trường này không làm tăng nguồn vốn mới cho nền kinh tế,
nhưng có thể hoạt động liên tục, tạo ra khả năng thanh khoản cho chứng khoán đã phát
hành. “Thị trường thứ cấp phục vụ cho hai mục đích chính: thúc đẩy sự tạo vốn cho các
doanh nghiệp, chính phủ và tạo ra các công cụ đầu tư có khả năng sinh lời cho các nhà
đầu tư
1.2.3. Căn cứ vào phương thức giao dịch:
Thị trường giao ngay là thị trường mua bán chứng khoán theo giá của ngày giao dịch
nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày
theo qui định.
Thị trường tương lai là thị trường mua bán chứng khoán theo một loạt hợp đồng định
sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao

chứng khoán sẽ diễn ra trong một ngày kỳ hạn nhất định trong tương lai.
1.2.4. Căn cứ vào đặc điểm hàng hóa:
Thị trường trái phiếu là nơi mua bán các trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua
bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty,
trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
Thị trường cổ phiếu là nơi mua bán các cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán
các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính
khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn
Hình1.1. : sơ đồ phân loại thị trường chứng khoán
1.3. Chức năng của thị trường chứng khoán.
1.3.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của
họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất
xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động
được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ
các nhu cầu chung của xã hội.
1.3.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa
chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời
Tính chất pháp lý
Quá trình luân chuyển
Phương Thức Giao Dịch
Đặc điểm hàng hóa
TTCK chính thức
TTCK OTC
TT phát hành
TT giao dịch
TT giao ngay
TT tương lai

Cổ Phiếu
Trái Phiếu
Thị trường phái sinh
hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả
năng, mục tiêu và sở thích của mình.
1.3.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành
tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một
trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho
thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu
quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
1.3.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách
tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp
được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành
mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến
sản phẩm.
1.3.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và
chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng
trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh
tế. Vì thế, TTCK là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách
kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để
tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ
cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng
đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
1.4. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán:
1.4.1 Nguyên tắc cạnh tranh:
Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán
và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát

hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu
tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường
thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao
nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá.
1.4.2 Nguyên tắc công bằng:
Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui
định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các
hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
1.4.3 Nguyên tắc công khai:
Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở
hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải
cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên
quan.
1.4.4 Nguyên tắc trung gian:
Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ
chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư
không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị
trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán
mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua
việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
1.4.5 Nguyên tắc tập trung:
Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới
sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
1.5. Hàng hóa của thị trường chứng khoán:
1.5.1 Trái phiếu
Trái phiếu là giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và xác nhận quyền đòi nợ bao
gồm những điều kiện và thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng
chuyển nhượng.
Từ khái niệm trên ta thấy trái phiếu có đặc điểm là có thu nhập ổn định, có khả năng

chuyển nhượng, có thời gian đáo hạn. Đồng thời trái chủ không có quyền tham gia bầu
cử, ứng cử vào Hội đồng quản trị. Nhưng trái phiếu đem lại cho trái chủ quyền được ưu
tiên trong phân chia lợi nhuận cũng như thanh lý tài sản khi công ty phá sản.
1.5.1.1. Trái phiếu của Chính phủ
Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ phát hành trái phiếu để huy động
tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn được coi là Nhà
phát hành có uy tín nhất trên thị trường; Vì vậy, Trái phiếu Chính phủ được coi là loại
chứng khoán có ít rủi ro nhất.
1. 5.1.2 Trái phiếu của công ty:
Là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và công ty trách
nhiệm hữu hạn, ngân hàng và các tổ chức tài chính phát hành để tăng vốn hoạt động.
Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng.
1.5.2. Cổ phiếu
Cổ phiếu là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó xác nhận quyền sở
hữu về tài sản và những điều kiện về thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có
khả năng chuyển nhượng. Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
1. 5.2.1 Cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường là cổ phiếu không có thời gian đáo hạn, không có thu nhập ổn định
mà thu nhập của nó phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh hay chính sách chi trả cổ
tức của công ty. Cổ phiếu thường có khả năng chuyển nhượng dễ dàng. Người nắm giữ
cổ phiếu thường có quyền tham gia bầu cử vào Hội đồng quản trị nhưng không được ưu
tiên trong phân chia lợi nhuận cũng như thanh lý tài sản khi công ty phá sản. Ngoài ra
cổ phiếu thường còn đem lại quyền đặt mua cổ phiếu mới cho các cổ đông.
1. 5.2.2 Cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có sự ưu tiên hơn cổ phiếu thường trong việc phân
chia lợi nhuận cũng như chi trả cổ tức và thanh lý tài sản khi công ty phá sản.
Cổ phiếu ưu đãi cũng như cổ phiếu thường là nó không có thời gian đáo hạn. Nó tồn
tại ở sự tồn tại của công ty. Nó cũng có khả năng chuyển nhượng nhưng phải thêm một
số điều kiện nhất định. Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi lẫn cổ phiếu thường đều không phải
là nợ của công ty do đó không có thu nhập ổn định trong điều kiện bình thường và nó có

thể được mua lại bởi nhà phát hành.
Cổ phiếu ưu đãi còn có một số điều khoản kèm theo. Thứ nhất, cổ phiếu ưu đãi có
tính chất tham dự trong phân chia lợi nhuận khi công ty làm ăn có lãi, vượt một mức
nào đó. Thứ hai, cổ phiếu ưu đãi có tính chất bỏ phiếu. Trong điều kiện bình thường, cổ
phiếu ưu đãi không có tính chất bỏ phiếu. Nhưng khi công ty làm ăn thua lỗ, cổ phiếu
ưu đãi sẽ có tính chất bỏ phiếu. Thứ ba, cổ phiếu ưu đãi có tính chất tích luỹ hay không
tích luỹ tức là do côgn ty làm ăn không hiệu quả, công ty sẽ không trả cổ tức. Nhưng khi
công ty làm ăn có lãi công ty có thể trả cổ tức cho những năm bị thua lỗ trước đó hoặc
không trả cổ tức của những năm chưa trả được
1.5.3 Chứng khoán phái sinh và chứng chỉ quỹ
1. 5.3.1 Chứng khoán phái sinh:
Chứng khoán phái sinh: là những chứng khoán được phát hành trên cơ sở những
chứng khoán đã có như cổ phiếu, trái phiếu.
* Chứng khoán phái sinh gồm:
- Quyền mua cổ phần: là chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát
hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới
theo những điều kiện đã được xác định.( mua một số lượng cổ phần mới tương ứng với
tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty, tại một mức giá xác định thấp hơn mức giá
chào mời ra công chúng và trong một thời hạn nhất định).
- Chứng quyền: là chứng khoán cho phép người sở hữu được quyền mua một số lượng
xác định một loại chứng khoán khác (thường là cổ phiếu thường) với một mức giá xác
định và trong một thời hạn nhất định.
è Chứng quyền thường được phát hành khi tổ chức lại công ty, hoặc khi công ty muốn
khuyến khích các nhà đầu tư mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có những điều
kiện kém thuận lợi.
- Quyền lựa chọn: là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được
mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một số lượng chứng
khoán xác định với một mức giá xác định và trong một thời gian nhất định.
- Hợp đồng tương lai: là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng
khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào

ngày xác định trước trong tương lai.
1. 5.3.2 Chứng chỉ quỹ:
- Chứng chỉ quỹ đầu tư: là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với
1 phần vốn góp của quỹ đại chúng. Quỹ đại chúng: Quỹ mở (quỹ mua lại chứng chỉ do
quỹ phát hành) và quỹ đóng (quỹ không mua lại các chứng chỉ quỹ).
- Quyền của nhà đầu tư tham gia quỹ: hưởng lợi từ hoạt động của quỹ hoặc từ tài sản được chia
tương ứng với tỷ lệ góp vốn. Yêu cầu công ty quản lý quỹ hoặc ngân hàng giám sát mua lại
chứng chỉ quỹ mở. Tham dự quyết định tại đại hội nhà đầu tư. Chuyển nhượng chứng chỉ quỹ.
1.6. Các chủ thể của thị trường chứng khoán:
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các
nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
1.6.1 Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng
khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường
chứng khoán.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và
trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu,
chứng chỉ thụ hưởng phục vụ cho hoạt động của họ.
1.6.2 Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ
chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán
trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
- Các nhà đầu tư có tổ chức:là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với
số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này có thể là: công ty đầu tư, công ty bảo
hiểm, quỹ đầu tư, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, ngân hàng thương mại
và các công ty chứng khoán.

1.6.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán: CTCK là tổ chức tài chính trung gian thực hiện một hoặc
một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán bao gồm: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát
hành, lưu ký chứng khoán.
- Ngân hàng thương mại: ngân hàng thương mại có thể đầu tư kinh doanh chứng
khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
1.6.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý Nhà nước : UBCKNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
chứng khoán và thị trường chứng khoán
- Sở giao dịch chứng khoán: Sở giao dịch chứng khoán là cơ quan thực hiện vận hành
thị trường và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng
khoán trên Sở phù hợp với các quy định của luật pháp và UBCKNN
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán:
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng
khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá
năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản
đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
1.7. Cơ chế giao dịch trên thị trường chứng khoán
1.7.1. Các loại giao dịch trên thị trường chứng khoán
Cho đến nay, có năm loại hình giao dịch đã và đang được sử dụng phổ biến trên thị
trường chứng khoán các nước.
1.7. 1.1. Giao dịch bằng tiền mặt sẵn có
Theo loại hình giao dịch này, nhà đầu tư được yêu cầu phải thanh toán đủ số chứng
khoán mua được bằng nguồn tiền riêng có vào ngay hoặc trước ngày thanh toán các
giao dịch. Đối với phần lớn các giao dịch, ngày thanh toán rơi vào 2-5 ngày làm việc
sau ngày giao dịch.
1.7. 1.2. Giao dịch bằng nguồn tiền vay mượn

Khác với loại hình giao dịch bằng tiền mặt sẵn có, trong loại hình giao dịch bằng
nguồn tiền vay mượn (giao dịch bằng tín dụng), để mua một số lượng chứng khoán nhất
định, nhà đầu tư chỉ phải đặt cọc trước một phần tiền tối thiểu theo một tỷ lệ ký quỹ bắt
buộc so với tổng trị giá tính theo giá thị trường của các chứng khoán định mua (Luật các
nước quy định tỷ lệ này là 30 - 50%) và vay từ các công ty chứng khoán phần tiền còn
lại.
Theo loại hình giao dịch này, tất cả các chứng khoán được mua bằng nguồn tiền vay
mượn đều phải được giữ tại các công ty chứng khoán và được đăng ký dưới tên của các
công ty chứng khoán (cũng gọi là street name) bởi vì chính những chứng khoán này lại
được sử dụng như vật thế chấp. Mặc dù loại hình giao dịch bằng tín dụng cho phép nhà
đầu tư có thể mua nhiều hơn khả năng hiện có, nghĩa là tạo ra một đòn bẩy tài chính,
nhưng loại hình giao dịch mày có kỹ thuật khá phức tạp và không phải là loại hình thích
hợp với mọi nhà đầu tư. Về mặt kỹ thuật, nếu thị giá của chứng khoán sụt giảm nhanh
và tỷ lệ tiền ký quỹ so với tổng giá trị chứng khoán thấp so với tỷ lệ ký quỹ bắt buộc,
công ty chứng khoán sẽ yêu cầu nhà đầu tư thêm tiền và tài khoản để duy trì tỷ lệ ký quỹ
tối thiểu, nếu nhà đầu tư đặt thêm tiền vào tài khoản sẽ bán số cổ phiếu đó và tiền thu
được để hoàn trả khoản vay này.
1.7. 1.3. Bán khống
Loại hình giao dịch này cho phép nhà đầu tư bán các chứng khoán không thuộc sở
hữu của mình (chứng khoán vay mượn) ở thời điểm bán với kỳ vọng là sẽ mua lại các
chứng khoán đó ở giá thấp hơn trong một thời điểm nào đó trong tương lai để hoàn trả
lại cho người sở hữu.
1.7. 1.4. Giao dịch khối
Giao dịch khối (giao dịch lô lớn) là giao dịch gắn liền với hoạt động đầu tư chứng
khoán của các tổ chức đầu tư. Đó là giao dịch với số lượng lớn một loại chứng khoán
nhất định.
1.7. 1.5. Giao dịch bằng chương trình
Các nhà đầu tư là các tổ chức cũng có thể mua, bán đồng thời một số lượng lớn các
cổ phiếu của các công ty khác nhau trong một kỹ thuật giao dịch khác được gọi là giao
dịch bằng chương trình. Đó là loại giao dịch sử dụng các chương trình vi tính phức tạp,

có thể ra quyết định mua bán một cách tự động.
1.7.2. Các loại lệnh được sử dụng trong giao dịch
Việc mua bán chứng khoán trên các thị trường chứng khoán để dựa vào các nhà môi
giới và nhà kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện việc giao dịch, nhà đầu tư phải cung
cấp cho nhà môi giới những thông tin nhất định. Một trong những thông số mà nhà đầu
tư phải cung cấp cho nhà môi giới là các loại lệnh mua bán. Trên thực tế, mặc dù có rất
nhiều loại lệnh được sử dụng trên thị trường chứng khoán các nước những lệnh thị
trường, lệnh giới hạn, lệnh dừng vẫn là 3 loại lệnh cơ bản được áp dụng phổ biến tại các
sở giao dịch chứng khoán.
1.7. 2.1. Lệnh thị trường
Lệnh thị trường (lệnh mua bán theo giá thị trường) là lệnh chỉ thị cho nhà môi giới
mua hoặc bán một chứng khoán theo giá tốt nhất có thể có được trên thị trường (giá cao
nhất đối với lệnh bán hoạc giá thấp nhất đối với lệnh mua).
Lệnh thị trường là loại lệnh phổ biến nhất được áp dụng trong mua bán chứng khoán.
Hầu hết các lệnh thực hiện trên thị trường chứng khoán là lệnh thị trường.
1.7. 2.2. Lệnh giới hạn
Lệnh giới hạn là chỉ nhà môi giới không được mua một chứng khoán quá mức giá ấn
định trước hoặc bán một chứng khoán thấp hơn mức giá đã chỉ định. Lệnh giới hạn là
một lệnh có điều kiện: khi nhận được lệnh này người môi giới phải mua và bán một số
lượng chứng khoán nhất định theo giá đã được ấn định hoặc tốt hơn.
Một lệnh mua có giới hạn chỉ có thể được người môi giới thực hiện ở mức giá đã
được ấn định hoặc thấp hơn. Ngược lại, một lệnh bán có giới hạn chỉ được thực hiện ở
mức giá đã được ấn định hoặc ở mức giá cao hơn. Khi thực hiện lệnh này, trong mọi
truờng hợp, người môi giới có trách nhiệm tìm kiếm giá tốt hơn so với giá được ấn định
cho khách hàng của mình.
1.7. 2.3. Lệnh dừng
Một loại lệnh có điều kiện khác là lệnh dừng. Lệnh dừng là lệnh chỉ cho người môi
giới không được thực hiện việc mua bán cho đến khi giá thị trường lên xuống phù hợp
với giá đã ấn định. Có hai loại lệnh dừng mua khi giá chưa lên đến giá ấn định và lệnh
dừng bán khi giá chưa tụt xuống tới mức ấn định.

Lệnh dừng mua khi giá chưa đến mức ấn định chỉ định rằng lệnh sẽ không được thực
hiện cho đến khi giá thị trường lên tới hoặc cao hơn mức giá đã được ấn định. Ngược
lại, lệnh dừng bán khi giá chưa tụt xuống tới mức ấn định hoặc thấp hơn.
Như vậy, về bản chất, cả hai loại lệnh dừng đều là loại lệnh thị trường có điều kiện.
Đó là loại lệnh mua bán theo thời giá được tạm thời hoãn thực hiện. Lệnh này chỉ có
hiệu lực thực hiện khi giá chứng khoán trượt đến hoặc vượt qua một mức giá ấn định.
Một khi giá ấn định trong lệnh dừng được thoả mãn, lệnh dừng trở thành lệnh thị
trường.
1.7.3. Chu trình giao dịch
Trước khi thực hiện giao dịch, nhà đầu tư phải mở một tài khoản tại công ty chứng
khoán. Sau khi đã có tài khoản và đã lưu ký tiền hoặc chứng khoán vào tài khoản, nhà
đầu tư có thể đặt lệnh mua bán theo nhiều phương thức khác nhau. Phương thức cổ điển
nhất có lẽ là trực tiếp đến công ty chứng khoán để đặt lệnh. Cùng với những tiến bộ của
kỹ thuật, lệnh có thể được đặt thông qua điện thoại, qua hệ thống máy vi tính cá nhân
vàqua mạng internet. Mặc dù lệnh có thể được thực hiện thông qua nhiều phương thức
khác nhau, chu trình thực một lệnh giao dịch ở các hệ thống giao dịch đều tương tự
nhau.
Tất cả các lệnh được thực hiện trên cơ sở giao dịch phải được thanh toán trong tổng n
ngày nhất định. Yêu cầu này thường được gọi là T + n, tức là ngày giao dịch (T) cộng
thêm n ngày. Tuỳ thuộc vào sự phát triển của hệ thống giao dịch mà n có thể thay đổi
khác nhau trong thị trường chứng khoán của các nước. Trong khi thị trường chứng
khoán Hồng Kông áp dụng hệ thống thanh toán T + 2 thì Mỹ, Đài Loan, Thái Lan sử
dụng hệ thống T + n, người mua phải chuyển tiền mua chứng khoán đến các công ty
chứng khoán và công ty chứng khoán phục vụ người bán chuyển tiền bán chứng khoán
vào tài khoản người giao chứng khoán. Các thông tin giao dịch cũng được thông báo tới
các công ty thanh toán bù trừ
Hình 1.2. Lộ trình thực hiện một lệnh mua bán qua các hệ thống giao dịch
Nhà đ u tầ ư
Công ty môi gi iớ
Máy đi n toán c aệ ủ

Công ty môi gi iớ
Th tr ng OTCị ườ
S giao d ch ở ị
ch ngứ
khoán qu c ố
gia
S giao d ch ở ị
ch ngứ
khoán qu c ố
tế
Kh p ớ
l nhệ
đi n tệ ử
Nhân
viên
kinh
doanh
Kh p ớ
l nhệ
đi n tệ ử
Kh p ớ
l nhệ
đi n tệ ử
Nhân
viên
kinh
doanh
Nhân
viên
kinh

doanh
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
2.1 Mô hình chứng khoán Việt Nam.
2.1.1. Về cơ quan quản lý thị trường chứng khoán.
Đối với Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã được thành lập để quản lý và
giám sát thúc đẩy cho thị trường phát triển theo định hướng XHCN và bảo vệ quyền lợi
cho các nhà đâu tư. Đây là bước đi đúng phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu
hướng quốc tế.
2.2.2. Về trung tâm giao dịch chứng khoán.
Trung tâm giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh đã được thành lập.
Còn trung tâm giao dịch chứng khoán tại Hà Nội đang được xem xét thành lập. Hệ
thống giao dịch của trung tâm tự động hoá với trạm làm việc có công suất nhỏ.
2.2.3. Về sở giao dịch chứng khoán.
2.2.3.1 Hình t h

ức sở h

ữ u

.
Đối với Việt Nam, Sở giao dịch chứng khoán sẽ do Nhà nước sử hữu,
để đảm bảo an toàn, công bằng theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Việc thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Sở giao dịch chứng khoán do Thủ
tướng chính phủ quyết định theo đề nghị của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Sở giao
dịch chứng khoán Việt Nam là một tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận đặt dưới
sự quản lý trực tiếp của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
2.2.3.2. S

ố lượ n


g S

ở giao dị

ch c h

ứng khoán.
Để tránh những bất lợi của việc tồn tại nhiều Sở giao dịch chứng khoán mà các
nước đang gặp phải, chúng ta cũng chỉ nên xây dựng một Sở giao dichj chứng
khoán thống nhất với các sàn giao dịch tại một, hai thành phố được nối mạng với nhau.
2.2.3.3. Đ ị

a đ

i ể

m th i

ết l ậ

p S

ở giao d

ị ch c h

ứ n

g khoán.

Sở giao dịch chứng khoán được đặt ở thành phố Hồ Chí Minh vì hiện nay thành
phố Hồ Chí Minh là trung tâm thương mại tài chính lớn nhất trongnước và để cho Sở
giao dịch phát triển. Với hệ thống giao dịch điện tử, các công ty môi giới tại Hà Nội
vẫn có thể dễ dàng sẽ được tiếp cận thị trường.
2.2.3.4.Giao dị

ch ngoài S

ở.
Đối với Việt Nam, để công khai hoá tất cả các hoạt động giao dịch, Nhà nước đang
xem xét thành lập Sở giao dịch chứng khoán tập trung cho tất cả các chứng khoán
(kể cả công ty và và nhỏ) có đủ điều kiện niêm yết, hay không đủ điều kiện niêm yết
được mua bán tại Sở giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, việc giao dịch những chứng
khoán của công ty lớn (đủ điều kiện niêm yết) tách biệt với khu vực giao dịch những
chứng khoán của những công ty vừa và nhỏ không đủ điều kiện niêm yết.
2.2.3.5. H ệ t hố

ng giao dị

c h

.
Việt Nam áp dụng hệ thống ghép lệnh. Hệ thống này đơn giản cho phép có được
giá cả, cạnh tranh tốt nhất nên đang được nhiều nước mới nổi áp dụng. ở Việt Nam
trong thời gian đầu khi thị trường chưa phát triển, khối lượng giao dịch còn nhỏ, nên
áp dụng phương thức ghép lệnh từng đợt để giảm bớt sự biến động của giá cả.
2.2.3.6. M ứ

c đ


ộ tự độ

ng hoá.
Trong điều kiện chi phí cho hệ thống tự động hoá ngày càng có xu hướng
giảm thì Việt Nam cần thiết và sử dụng chương trình tự động hoá ngay từ đầu. Nếu
bắt đầu bằng giao dịch thủ công, sau đó lại thay thế bằng hệ thống tự động thì sẽ
tốn kém. Để tiết kiệm chi phí cho thời gian đầu ở Việt Nam chỉ lắp đặt thiết bị với
công suất xử lý thấp. Các thiết bị lắp đặt ở trạng thái mở để khi khối lượng giao dịch
tăng lên có thể lắp đặt thêm nhằm mổ rộng công suất xử lý của hệ thống.
2.3.4. Về lĩnh vực đăng ký, thanh toán - bù trừ và lưu giữ chứng khoán.
Hệ thống đăng ký, thanh toán - bù trừ và lưu giữ chứng khoán. Các chức năng đăng
ký, thanh toán, bù trù và lưu giữ được kết hợp vào một trung tâm duy nhất trong cả
nước. Các công ty chứng khoán và các ngân hàng được cho phép trở thành công ty lưu
ký.
2.3.5. Về các tổ chức trung gian.
Ở Việt Nam, các ngân hàng chỉ được phép kinh doanh chứng khoán dưới hình thức
thành lập các công ty độc lập, hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh
đó, Nhà nước cũng cho phép cả các công ty chứng khoán độc lập hình thành từ các
công ty tài chính, các tổng công ty lớn.
Ở Việt Nam các công ty chứng khoán được phép thực hiện tất cả các hình thức
như : bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán, tư doanh chứng khoán,
tư vấn chứng khoán và quản lý quỹ đầu tư. Riêng hình thức quản lý quỹ đầu tư, yêu
cầu phải hoạt động tách rời dưới hình thức một công ty độc lập nhằm bảo vệ lợi ích của
những cổ đông của quỹ.
Ngoài ra hiện nay, Nhà nước còn cho phép hai loại doanh nghiệp tham gia kinh
doanh chứng khoán là công ty cổ phần và doanh nghiệp liên doanh.
Trên thế giới có hai loại quỹ đầu tư chứng khoán chủ yếu là quỹ đóng, vaf quỹ
mở. Trong thời gian đầu Việt Nam dự kiến áp dụng hình thức quỹ đầu tư chứng
khoán dạng quỹ đóng (quỹ không mua lại cổ phần của cổ đông muốn rút vốn) để đảm
bảo an toàn trong điều kiện khả năng thanh toán của thị trường còn thấp.

2.3.6. Về sự tham gia của bên nước ngoài.
Việt Nam cho phép bên nước ngoài được sở hữu một tỷ lệ phần trăm nhất
định và cho phép công ty chứng khoán nước ngoài được liên doanh với công ty
chứng khoán trong nước theo một tỷ lệ liên doanh nhất định
2.2.Những cột mốc đáng nhớ và chỉ số chứng khoán Việt Nam:
2.2.1 Những cột mốc đáng nhớ:
Ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và
TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban
Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành lập
theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động
thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời vào
ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch chứng
khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN nhỏ và vừa
(với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
2.2.2 Chỉ số chứng khoán Việt Nam:
* Chỉ số VN – Index
VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây dựng căn
cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ thống chỉ số này,
nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát.
Chỉ số VN -Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào
ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động.
Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các trường
hợp như niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn niêm yết.
Công thức tính chỉ số VN - Index:
Chỉ số VN-Index=(Giá trị thị trường hiện hành/Giá trị thị trường cơ sở)x100
Hoặc Chỉ số VN-INDEX

Trong đó:
Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i
Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i
Pi0: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i
Qi0: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu i
2.3.Các giai đoạn phát triển của TTCK Việt Nam:
2.3.1 Giai đoạn 2008:
Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam khép lại năm 2008
với sự sụt giảm mạnh.
Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường: Index
giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã CP rơi xuống dưới mệnh
giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các cơ quan
điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.Tính từ đầu năm đến hết ngày
31/12/2008, TTCKVN trải qua 03 giai đoạn chính.
Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính
phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả
và việc bán bớt CP Nhà nước trong các DN đã CPH, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công
ty chứng khoán, doanh nghiệp phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn
đến tình trạng thị trường CK có nguy cơ thừa "hàng".
Biểu đồ VN-Index năm 2008 - Nguồn: VNDS.
• Giai đoạn 1: Từ tháng 01 tới tháng 06 - Thị trường giảm mạnh do tác động từ tác
động của kinh tế vĩ mô
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VNIndex đã mất đi gần 60% giá trị và trở
thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa đầu năm
2008.
Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu xuất
phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính sách thắt chặt
tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng
đối với các khoản đầu tư vào TTCK.
Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều hành bắt

đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ:
(1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch;
(2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu;
(3) NHTM được vận động ngừng giải chấp;
(4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn, và thị
trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác động tới tâm lý
các nhà đầu tư. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới 71 phiên VNIndex
giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN-Index giảm điểm liên tiếp từ giữa tháng 04
đến đầu tháng 06/2008. Sau 103 phiên giao dịch,VNIndex giảm mất 550,52 điểm- tương
đương 59,77%. Bình quân trong mỗi phiên, toàn thị trường có 8,02 triệu CP&CCQ
được chuyển nhượng, tương đương khoảng 482 tỷ đồng.
Trong đợt suy giảm này, nhóm cổ phiếu chịu nhiều tác động nhiều nhất là nhóm cổ
phiếu tài chính ngân hàng, công nghệ và công nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp
BĐS).
Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải can thiệp vào
thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008. Tổng cộng trong năm
2008, UBCKNN đã có 04 lần thay đổi biên độ dao động giá trên cả 2 sàn chứng khoán.
Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị trường, ngăn đà suy giảm mạnh của các chỉ số
chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị
trường: Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên thị trường, kêu gọi và tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp niêm yết mua vào cổ phiếu quỹ
Sự tăng trưởng nóng trong năm 2007, đặc biệt vào những tháng cuối năm đã đưa
đến những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. Chỉ số tiêu dùng băt đầu gia tăng với mức
trung bình 2,07%/tháng trong 02 cuối năm 2007. Tiếp nối xu thế này, trong quý I/ 2008,
chỉ số CPI tiếp tục gia tăng với tốc độ bình quân 3,06%/tháng và đạt đỉnh vào tháng
05/200822 với mức tăng 3,91%.
Trong chu kỳ tăng giá nửa đầu năm 2008, tại đa số thời điểm, lương thực được coi
là yếu tố tác động chủ yếu đến chỉ số giá. Tính đến tháng 06, giá lương thực đã tăng
57,22% so với tháng 12/2007.

Chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự biến động
mạnh của giá cả hàng hóa trên thế giới, thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ Việt
Nam tiếp tục có những biến động mạnh.
Trên thị trường hàng hóa, xăng dầu - loại hàng hóa cơ bản thuộc sự kiểm soát của
Chính phủ - đã được điều chỉnh mạnh. Trên thị trường tiền tệ, lãi suất từ NHNN và
NHTM liên tiếp xác định các mặt bằng mới. Chịu tác động sức ép từ lạm phát, l ãi suất
từ các NHTM tăng mạnh trong cuối quý II, dao động từ 16 - 18% đối với huy động tiền
gửi và 20-21% đối với các khoản vay. Đặc biệt các sản phẩm huy động vốn với kỳ hạn
ngắn, lãi suất cao là tiêu điểm của hệ thống NH trong giai đoạn này. Sự căng thẳng về
thanh khoản và sự xáo trộn về dòng chảy của tiền gửi huy động là nỗi lo của các NHTM
trong giai đoạn này. Thâm hụt thương mại cao nhất vào trong năm tháng đầu năm với
mức trung bình là khoảng 2,6 tỷ USD/tháng.
Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp vào tháng 3/2008 với
mục tiêu kiềm chế lạm phát và thâm hụt thương mại. Các chính sách chủ yếu được thực
hiện thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi suất cơ bản và thắt chặt đầu tư công
để hạn chế nguồn cung tiền trên thị trường.
• Giai đoạn 2: Tháng 06 tới đầu tháng 09 - Phục hồi trong ngắn hạn :
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue -chip như STB, FPT, DPM…và đặc
biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài, cả hai sàn chứng khoán đã có được
những phiên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này. VNIndex và Hastc-Index liên tiếp
vượt qua các ngưỡng cản tâm lý quan trọng và thường xuyên có đư ợc những chuỗi tăng
điểm kéo dài. Đây cũng là giai đoạn thị trư ờng hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh,
kéo theo khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch thường xuyên ở mức cao. VNIndex
tăng được 168,55 điểm, tương đương 45,52%. Khối lượng giao dịch bình quân đạt 16,9
triệu CP&CCQ, tương đương 599,18 tỷ đồng/phiên.
Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa thích nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí
(tăng 80,33%), nguyên vật liệu v à công nghệ (tăng 89,78%). Các đại diện tiêu biểu cho
nhóm cổ phiếu này bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG, FPT…
• Giai đoạn 3: Từ tháng 09 tới tháng 12 - Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm do tác
động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu

Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy thiết lập
được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này, VNIndex mất
223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung bình đạt 15,82 triệu
CP&CCQ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên.
Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự lan tỏa
mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Hòa cùng xu thế giảm điểm của
TTCK các nước, 02 chỉ số chứng khoán tại sàn HoSE và HaSTC liên tiếp giảm điểm.
Trong 86 phiên giao dịch tại HoSE, 49 phiên VNIndex mất điểm. Đáy mới thiết lập
trong giai đoạn này là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008.
Cùng với nỗ lực giải cứu nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ NHNN, xen lẫn
giữa những phiên giảm điểm , TTCK Việt Nam vẫn có những phiên phục hồi mạnh.
Tuy nhiên, các “con sóng” trên thị trường thường rất ngắn và không ổn định. Kết thúc
giai đoạn này, VNIndex giảm mất 239,52 điểm, tương đương 43,15%.
Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai đoạn này thuộc nhóm cổ phiếu các ngành nguyên
vật liệu, công nghiệp, tài chính và công nghệ. Nguyên nhân của sự suy giảm trong giai
đoạn này được nhận định một phần do sự tác động của xu thế chung thị trường, ngoài
ra, cũng là hệ quả của việc tăng khá chóng mặt của các các cổ phiếu n ày trong giai đoạn
trước đó. Một trong những đề tài nóng hổi và được báo giới chú ý trong những tháng
cuối năm là phong trào trả cổ tức bằng tiền mặt, với tỷ lệ khá cao của các công ty niêm
yết.
Nguồn vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư. Tuy nhiên, kể từ
cuối tháng 08/2008 cùng với sự sụt giảm của TTCK thế giới nói chung, TTCK Việt
Nam cũng giảm mạnh. Tính đến tháng 12/2008, những dấu hiệu về khả năng nhà đ ầu tư
nước ngoài rút vốn ra khỏi thị trường chứng khoán cũng bắt đầu xuất hiện, thể hiện qua
việc bán ròng của khối ngoại trong những tháng cuối năm.
Ngoài ra, mặc dù lạm phát được kiềm chế nhưng lại có sự lo ngại về giảm phát do
chỉ số CPI tăng trưởng âm trong những tháng cuối năm.
Trong quý cuối năm, CPI đã giảm 0,23% trong tháng 10 và tăng lên thành 0,81%
trong tháng 12 (so từng tháng). Tính cả năm 2008 , tỷ lệ lạm phát là 19,89% (so với
tháng 12/2007) và xấp xỉ 23% (so với bình quân 2007)

Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực hiện thông
qua việc điều chỉnh giảm lãi su ất cơ bản nhằm kíchcầu sản xuất tiêu dùng, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn, đồng thời giảm áp lực tín
dụng cho các ngân hàng thương mại.
2.3.2. Từ năm 2009 đến năm 2010 Giai đoạn phục hồi và phát triển
Trên sàn HoSE, chỉ số VN-Index đã tăng 57% trong năm 2009, từ mức 315.62 điểm
vào ngày 31/12/08 lên mức 494.77 điểm vào ngày 31/12/09. So với mức đáy 235.5 điểm
được thiết lập ngày 24/02, VN-Index đã tăng 110%.
Trong năm 2009, TTCK Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ nhờ các chính
sách kích thích kinh tế của Chính phủ, đặc biệt là chính sách hỗ trợ lãi suất, miễn
giảm và hoãn thuế thu nhập. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao trong năm 2009 một
mặt góp phần thúc đẩy tăng trưởng nhưng cũng góp phần giúp TTCK tăng mạnh trở
lại. Ngoài ra, lạm phát giảm bớt trong năm này cũng tạo thêm lòng tin về ổn định
kinh tế vĩ mô.
Thanh khoản của thị trường cũng dần được cải thiện. Khối lượng cổ phiếu khớp
lệnh từ mức 7.8 triệu đơn vị/phiên vào 2 tháng đầu năm đã tăng lên mức 17.58 triệu đơn
vị/phiên vào tháng 3; 35.86 triệu đơn vị vào tháng 4 và 51.75 triệu đơn vị/phiên vào
tháng 6. Đỉnh điểm của tính thanh khoản của thị trường rơi vào tháng 10 khi khối lượng
khớp lệnh phiên cao nhất lên tới 133.48 triệu đơn vị. Tính trung bình trong tháng 10,
khối lượng giao dịch lên tới 78.3 triệu đơn vị. Tính thanh khoản của thị trường tăng
mạnh không chỉ do lượng cổ phiếu niêm yết tăng mà còn do dòng tiền đã đổ vào thị
trường một cách mạnh mẽ trong giai đoạn này.
Sự thăng trầm của TTCK trong năm 2009 có quan hệ khá chặt chẽ với những chính
sách tiền tệ và dòng tiền đổ vào thị trường. Kể từ lúc phục hồi từ mức thấp nhất vào
tháng 2, thị trường đã trải qua 2 lần điều chỉnh mạnh. Sự phục hồi của thị trường từ mức
235.5 lên 512 đểm vào tháng 6 gắn liền với cung tiền trong nền kinh tế tăng nhanh do
các chính sách kích cầu của chính phủ. Dư nợ từ gói hỗ trợ lãi suất tăng lên nhanh
chóng, người tiêu dùng được khuyến khích vay tiền.
Từ mức đỉnh 512 điểm vào tháng 6, VN-Index giảm xuống còn 412.88 điểm vào
20/7. Sự sút giảm của đợt này trùng khớp với sự kiện NHNN đưa ra những tuyên bố

mạnh mẽ trong việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng ở mức 25-27%. Nhiều NHTM vượt
trần tăng trưởng tín dụng bị “tuýt còi”.
Cơn sóng phục hồi thứ 2 của thị trường từ mức 421.88 lên mức 624.1 điểm vào
ngày 20/10, cũng xuất phát từ việc tăng trưởng tín dụng quá mức. Vào cuối quý 3 mức
tăng trưởng tín dụng đã lên tới trên 32%. Thêm vào đó, các ngân hàng và công ty chứng
khoán cũng khuyến khích nhà đầu tư thực hiện các nghiệp vụ repo và thế chấp chứng
khoán. Đòn bẩy tài chính được tận dụng một cách tối đa đã đẩy thị trường lên cao.
Thanh khoản, của thị trường cũng tăng lên mạnh mẽ.
Từ mức đỉnh cao thứ 2 ở mức 624.1 vào này 20/10, thị trường sau đó giảm xuống
mức 434.87 vào ngày 12/11 (gần bằng mức đáy hồi tháng 7). Đợt giảm này cũng bằt
nguồn từ những hoạt động siết chặt tín dụng của NHNN. NHNN đưa ra một loạt các
biện pháp hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán, kiểm soát chặt đối tượng cho vay tiêu
dùng. Ngoài ra, NHNN cũng hạn chế cung tiền qua thị trường mở.
Hình 1.1. VN-Index năm 2009
Năm 2010 Vn Index đã giảm 11.93 điểm, tương đương 2.3% . Trong những phiên
giao dịch của tháng 6, dù thị trường vẫn đang giao động trong biên độ hẹp, nhưng nỗi lo
của các nhà đầu tư trước diễn biến khủng hoảng nợ Châu âu hay những biến động trên
thị trường chứng khoán thế giới… đang tạm lắng.
Đứng trước nguy cơ lạm phát quay trở lại trong năm 2010, chính sách thắt chặt tín
dụng được áp dụng trong những tháng cuối năm 2009. Dòng tiền hạn chế bơm vào nền
kinh tế nói chung và thị tường chứng khóan nói riêng, Vn Index điều chỉnh giảm mạnh
vào cuối năm 2009. Tuy nhiên, với nổ lực kèm chế lạm phát đồng thời duy trì đà tăng
trưởng kinh tế sáu tháng đầu năm 2010, chính sách tiền tệ dần được nới lỏng. Điều này
là một trong những nguyên nhân chính đã góp phần tạo nên đợt hồi phục trong giai đoạn
vừa qua, từ mức 477 điểm lên 549,51 điểm của Vn Index.
Năm 2010 do áp lực lạm phát và lãi suất tăng cao, nhập siêu cao, trong khi đó
tăng trưởng tín dụng, cung tiền giảm so với năm 2009 nên chỉ số VNIndex đã giảm
2,04%. Mặc dù vậy, TTCK Việt Nam tiếp tục đạt được những kết quả rất tích cực
trên các mặt quan trọng: giá trị vốn hóa đạt 39% GDP, tăng 17,1% so với
năm2009; huy động vốn thực tế đạt 98,7 nghìn tỷ đồng, gấp 3 lần so với năm 2009;

giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 2.480 tỷ đồng; dòng vốn nước ngoài vào
thuần trên 1 tỷ USD; số lượng tài khoản các nhà đầu tư tăng 38%
2.3.3. Giai đoạn năm 2011
TTCK năm 2011 có nhiều cơ hội và cũng có nhiều thách thức, yêu cầu các nhà đầu
tư phải vô cùng tỉnh táo khi quyết định đầu tư vào một cổ phiếu nào đó, và kiên quyết
không đầu tư vào một cổ phiếu mà mình chưa có nhiều thông tin về tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của Cty đó. Hãy tự tin và luôn tuân thủ lời khuyên: “Hãy tham lam
khi người ta hoảng sợ và hãy hoảng sợ khi người ta tham lam”.
Trong những tháng đầu năm 2011, TTCK có xu hướng sụt giảm. Cho đến hết
tháng 4, chỉ số VNIndex giảm 4,58 điểm, tương đương 0,9% nhưng riêng tháng 5
có sự sụt giảm mạnh, giảm 58,71 điểm tương đương 12,2% do lo ngại về vấn đề giải
chấp nhằm đáp ứng yêu cầu về giảm dư nợ tín dụng phi sản xuất của Ngân hàng
Nhà nước xuống 22% vào cuối tháng 6. Trong tháng 6, chỉ số có sự phục hồi so với
tháng 5, VNIndex tăng 5,2% do áp lực giải chấp đã được giải tỏa phần nào. Tuy
nhiên, tính từ đầu năm cho tới cuối tháng 6, VNIndex giảm 10,5% so với cuối
năm2010. Giá trị giao dịch bình quân cổ phiếu, chứng chỉ quỹ mỗi phiên trong trong 6
tháng đầu năm là 1.164,6 tỷ đồng, bằng 47% so với mức bình quân năm 2010. Mức
vốn hóa cuối tháng 6 đạt 686 nghìn tỷ đồng, giảm 40 nghìn tỷ đồng, tương đương
trên 5,5% so với cuối năm 2010; mức vốn hóa so với GDP giảm xuống 36% từ
mức39% cuối 2010. Huy động vốn qua TTCK cũng gặp khó khăn do TTCK giảm sút
và mặt bằng lãi suất cao. Tính chung 6 tháng, vốn huy động qua trái phiếu Chính phủ
và Chính phủ bảo lãnh đạt 35,1 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 2,7 lần so với cùng kỳ
năm2010, chiếm gần 90% tổng vốn huy động qua TTCK từ đầu năm. Tuy nhiên, vốn
huy động qua phát hành thêm cổ phiếu chỉ đạt 4,5 nghìn tỷ đồng, tương đương 16%
và vốn huy động qua đấu giá cổ phần hóa đạt 0,56 nghìn tỷ đồng, bằng 68% so với
cùng kỳ năm trước. Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng sụt giảm. Cho đến
cuối tháng 6, có khoảng 46% các công ty niêm yết có giá thị trường thấp hơn mệnh
giá và74% các công ty niêm yết có giá thị trường thấp hơn giá trị sổ sách; có 45% các
công ty niêm yết có hệ số P/E thấp hơn 5. Do giá chứng khoán và khối lượng giao dịch
sụt giảm mạnh nên nhiều công ty chứng khoán thua lỗ; hoạt động tự doanh và hoạt

động môi giới cũng không hiệu quả do thu không đủ bù chi; hoạt động tư vấn đầu tư,
phát hành, niêm yết, bảo lãnh cũng bị thu hẹp.
2.3. Thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
2.3.1. Thuận lợi
Có thể nói thuận lợi đầu tiên và cũng là một ưu điểm ở Việt Nam đó là có một nền
chính trị ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty phát triển ổn định. Hơn nữa
nền kinh tế nước ta đang trong thời gian cất cánh, tức là một nền kinh tế đang trên đà
phát triển với tốc độ tăng trưởng thực tế trong những năm gần đây bình quân là hơn 8%
tạo những đIều kiện vĩ mô cho thị trường chứng khoán phát triển và việc phát triển thị
trường chứng khoán cũng là một yêu cầu cần thiết với sự phát triển của nền kinh tế nước
ta.
Thuận lợi thứ hai với chúng ta đó là chính sách cổ phần hoá các doanh nghiệp của
nhà nước. Sau một thời gian dàI nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động không thật sư
hiệu quả và để đáp ứng yêu cầu nền kinh tế thị trường thì nhà nước đã thực hiện chính
sách cổ phần hoá doanh nghiệp trong đó thực hiện trước tiên với các doanh nghiệp nhà
nước là thuận lợi cho sự phát triển của thị trường chứng khoán
Thuận lợi thứ ba với sự phát triển của thị trường chứng khoán là mội trường đầu tư
của Việt Nam ngày càng cải thiện và chúng ta đã thu hút được một lượng lớn đầu tư
nước ngoài trong thời gian qua cùng với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của chính
phủ thì sự phát triển của thị trường chứng khoán là cần thiết đồng thời với việc đầu tư
của các nhà đầu tư nước ngoàI thông qua thị trường chứng khoán sẽ làm thị trường
chứng khoán phát triển nhanh và lành mạnh.
Thứ tư nữa là quá trình phát triển kinh tế nước ta trong thời gian qua đã hình thành
nên một hệ thống các ngân hàng thường mại, các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư . Đây là
các tác nhân quan trọng cho sự phát triển của thị trường chứng khóan. Và đặc biệt với
việc gia nhâp WTO ngày 9/11 vừa qua thì thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có nhiều
thuận lợi để phát triển.
2.3.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi thì khó khăn với sự phát triển của thị trường chứng khoán
Việt Nam còn rất nhiều. Khó khăn trước tiên và cũng là khó khăn của hầu hết các nước

đang phát triển khi mới phát trỉên thị trường chứng khoán đó là thu nhập của đại bộ
phận dân chúng còn thấp, chênh lệch giữa tiết kiệm và thu nhập cao. Chính do thu nhập
thấp mà đại bộ phận dân chúng sau khi đã chi tiêu thì số dư còn lại từ thu nhập là không
đáng kể nên việc đầu tư vào chứng khoán của người dân là rât ít. Cũng vì phần dư của
thu nhập sau khi chi tiêu còn ít mà hơn nữa đầu tư vào chứng khoán còn có nhiều rủi ro,
cộng với kiến thức của người dân về chứng khoán chưa nhiều nên phần lớn tiền của họ
gửi vào tiết kiệm. Điều này sẽ làm giảm sự phát triển của thị trường chứng khoán
Khó khăn thứ hai đối với thị trường chứng khoán đó là không có một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động
hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung
còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về
thị trường chứng khoán vẫn còn trong dự thảo
Khó khăn thứ ba cho sự phát triển của thị trường chứng khoán là mới thành lập được
khoảng 7 năm, đây là một quãng thời gian tương đối dài nhưng những nhà đầu tư tham
gia trên thị trường chứng khoán còn nhiều người chưa có đầy đủ kiến thức về chứng
khoán, do đó mà dẫn đến một quá trình đầu tư theo phong trào. Điều đó dẫn đến việc thị
trường không thật sự phản ánh đúng chất lượng của mỗi loại cổ phiếu và trái phiếu
Có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều nhiều khó khăn bên cạnh
những thuận lợi khách quan. Do đó chúng ta cần chuẩn bị và tạo ra mọi đIều kiện để thị
trường chứng khoán cỏ thể phát triển lành mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của
đất nước
2.2.3. Một số hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời cho nên không tránh khỏi có những
hạn chế. Thị trường chứng khoán có tầm quan trọng vốn có của nó cho nền thị trường
chứng khoán Việt Nam sẽ được quan tâm một cách đáng kể để phát triển một cách
hoàn thiện.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đang có ít chứng khoán được giao dịch cả về
số lượng và giá trị. Hiện có năm cổ phiếu của SAM, REE, TMS, HAP và LAFOOCO
và trái phiếu của Ngân hàng đầu tư phát triển cùng với trái phiếu chính phủ đang
được giao dịch. Việc có ít loại chứng khoán được giao dịch là do có ít doanh nghiệp có

đủ điều kiện để niêm yết trên thị trường chứng khoán làm cho trên thị trường luôn xuất
hiện tình trạng cầu lớn hơn cung, giá cả vượt quá giá trị thực của chứng khoán. Hơn
nữa, các lý do còn là các doanh nghiệp không có nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh hay nếu phát hành cổ phiếu mới thì tỉ lệ nắm giữ cổ phiếu sẽ giảm và
giảm vị trí trong Hội đồng quản trị hay do việc định giá gặp phải khó khăn vì do tổ
định giá của Bộ tài chính tiến hành hay do Ban lãnh đạo thích vay ngân hàng hơn. Đó
còn là do quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước chậm hay chưa cổ
phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay các công ty chứng khoán đang bị thua lỗ vì có quá ít chứng khoán giao
dịch cả về số lượng và giá trị. Đó là vì khuôn khổ pháp lý chưa được nới rộng để các
nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia mua bán chứng khoán. Thông tư của Uỷ ban
chứng khoán Nhà nước từ 29/11/2000 qui định phí dịch vụ môi giới mua, bán chứng
khoán nhỏ hơn hoặc bằng 0,5% giá trị giáo dịch cổ phiếu làm cho việc hoạt động của
các công ty chứng khoán càng khó khăn hơn do phí giảm đi trong khi có ít chứng
khoán được giao dịch trên thị trường. Lãi suất của trái phiếu chính phủ chưa hấp dẫn
so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm là nguyên nhân làm cho trái phiếu ít được giao dịch
(lãi suất của trái phiếu chính phủ là 6,5%/năm của đợt phát hành thứ nhất và
6,6%/năm của đợt phát hành thứ hai).
Thị trường chứng khoán phi chính thức là nơi giao dịch các chứng khoán của các
công ty cổ phần vưà và nhỏ không đủ điều kiện niêm yết trên thị trường chứng thức.
Thị trường chứng khoán phi chính thức sẽ tạo điều kiện để phát triển thị trường
chứng khoán chính thức. Thế nhưng ở Việt Nam vẫn chưa có thị trường chứng khoán
phi chính thức để các công ty vừa và nhỏ tham gia.
Ở Việt Nam do thị trường chứng khoán nước ta ra đời cho nên còn thiếu nhiều đội
ngũ có kiến thức sâu về thị trường chứng khoán để công tác tốt trong việc quản lý
Nhà nước, trong công tác kinh doanh chứng khoán, tư vấn kinh doanh chứng khoán và
sẵn sàng chấp nhận rủi ro tham gia thị trường.
Để thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh lâu dài thì cần thiết phải có
các qui định pháp luật đúng đắn về lĩnh vực chứng khoán. Nhưng ở Việt Nam, hệ
thống pháp luật về thị trườngchứng khoán chưa được hoàn thiện vì chưa có sự góp ý

của các công ty phát hành và các công ty chứng khoán để ban hành ra hành lang pháp
lý trên lĩnh vực chứng khoán.
Với các hạn chế chủ yếu trên, trong những năm tới, thị trường chứng khoán Việt
Nam cần được thay đổi để trở thành một thị trường chứng khoán lớn và sôi động.
2.2.4. Một số nhận định của các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán Việt Nam
Hầu hết các nhà đầu tư nhận định rằng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay
qua ít hàng hoá và bị khống chế bởi sự quản lý hành chính của nhà nước, nên chăng
giảm nhẹ những chỉ tiêu và điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng khoán, có
như vậy thị mới tạo ra được nhiều hàng hoá cho thị trường, từ đó tạo điều kiện tốt nhất
cho nhà đầu tư lựa chọn hàng hoá tốt nhất cho mình và phân tán rủi ro
Nhận định thứ hai khá phổ biến đó là tiến trình xây dựng các sở giao dịch ở các địa
phương còn quá chậm. Hiện nay mới chỉ có trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội, do vậy làm hạn chế những nhà đầu tư ở các địa phương khác
muốn tham khảo các tàI liệu, bản cáo bạch và mua cổ phiếu của các công ty hiện đang
niêm yết và trong tương lai sẽ niêm yết trên sàn. Tuy nhiên các nhà đầu tư cũng nhận
định rằng việc phát triển thị trường chứng khoán ở hai trung tâm giao dịch trên là hợp lí
và cũng phù hợp với sự phát triển của nền kinh tê. Trung tâm giao dịch đầu tiên được
thành lập trong thành phố Hồ Chí Minh nơi có nền kinh tế phát triển năng động nhất
Việt Nam, đây sẽ là nơi thích hợp cho sự phát triển thử nghiệm với thị trường chứng
khoán vì thị trường tài chính ở đây khá phát triển. Sau đấy là tới trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội được thành lập và năm ngoài. Đó cũng là bước đi quan trọng và
hợp lí cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam vì đây là trung tâm kinh
tế thứ hai của đất nước. Có chằng là khoảng thời gian để thành lập trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội cách qua xa thời gian thành lập trung tâm giao dịch thành phố Hồ
Chí Minh, có cần một khoảng thời gian thử nghiệm dài như vậy để thành lập một trung
tâm giao dịch thứ hai không?
Một vấn đề thứ ba trên thị trường chứng khoán đó là các thông tin trên thị trường đã
thật sự phản ánh đúng tình hình phát triển của thị trường chưa. Đầu năm 2006 chỉ số VN
index đã lên một mức rất cao hơn 500 điểm, thị trường rất sôi động nhưng tại sao lại
như vậy? Phải chăng các công ty đang trên đà phát triển? Nhưng tại sao chỉ ngay sau đó

khoảng 2 tháng chỉ số lại tụt rất nhanh, điều này cho thấy sự phát triển của thị trường
không lành mạnh. theo các nhà đầu tư thì tình trạng sôi động cuả thị trường là ảo, chỉ số
VN index trong thời gian đó không phản ánh đúng sự phát triển của thị trường. Sự sôi
động đó là do cầu về chứng khoán vượt quá cung làm giá các chứng khoán tăng cao nên
dẫn đến chỉ số VN index tăng rất nhanh. Điều này rất có thể làm cho thị trường chứng
khoán sụp đổ.
Một nhân định khác về phía các nhà đầu tư là họ đầu tư nhiều lúc là theo phong trào,
không có sự phân tích về chứng khoán do đó cũng dẫn đến tình trạng giá của một loại
chứng khoán nào đó lên cao mà không phản ánh đúng tình trạng kinh doanh của công ty
phát hành
Hay tình trạng các quan chức tài chính còn can thiệp qua sâu và thị trường. Lấy một
trường hợp ví dụ như sau khi ông phó chủ tịch ủy ban chứng khoán nhà nước tuyên bố
kể từ nay thị họ sẽ không can thiệp biện pháp hành chính vào thị trường chứng khoán
nữa nhưng ngay sau đó chính phủ phát hành công trái giáo dục kèm theo văn bản quyết
định :” cấm mọi tổ chức, cá nhân mua lại công trái giáo dục này dưới 90% mệnh giá sau
1 năm, 100% sau 2 năm do ông bộ trưởng tài chính ký”. Giá cả trên thị trường chứng
khoán là “thuận mua vừa bán” chứ đâu phải “cấm” hay “không cấm”
Có thể thấy theo nhận định của các nhà đầu tư về thị trường chứng khoán thì thị
trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều khuyết tật cần khắc phục bên cạnh những
thành công đã đạt được. Do đó cần có những biện pháp cần thiết từ phía chính phủ và
các bên tham gia thị trường chứng khoán cho sự phát triển của thị trường để thật sự đây
là một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp nói chung và nền kinh tế nói
riêng.
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM HIỆN NAY.
3.1. Định hương phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng, quản lý, khuyến khích và tạo
điều kiện cho thị trường phát triển theo đúng đường lối và định hướng của Đảng và
chính phủ.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan nhà nước quản lý thống nhất, nhằm tạo

điều kiện cho thị trường hoạt động thông suốt, hiệu quả và an toàn.
Việt Nam sẽ xây dựng một thị trường chứng khoán có tổ chức, hoạt động công bằng,
hiệu quả an toàn, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể của đất nước, từng bước hội nhập với thị trường chứng khoán của các nước trong
khu vực và thế giới.
Việt Nam sẽ xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán từ qui mô nhỏ đến
qui mô lớn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện phù hợp với điều kiện và tình hình cụ
thể của đất nước.
3.2 Một số giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế, các mối quan hệ về huy
động và luân chuyển vốn trên thị trường chứng khoán được hình thành và biến đổi trên
cơ sở phản ánh của các điều kiện kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, các chính sách nhằm
đảm bảo tính vững chắc và ổn định của nền kinh tế có tầm quan trọng rất lớn đối với sự
phát triển của thị trường chứng khoán.
Sự ổn định kinh tế vĩ mô và sự nhất quán trong chiến lược phát triển, vai trò của hệ
thống quản lý có tính chất quyết định đối với sự thành bại của một thị trường. Vì vậy,
chúng ta cần sớm xem xét các văn bản pháp quy hiện hành để điều chỉnh một cách
đồng bộ, phù hợp các mâu thuẫn trong các văn bản pháp qui đó. Điều thực sự cần thiết
khi soạn ra các văn bản pháp qui là các cơ quan quản lý nên tham khảo ý kiến của các
công ty phát hành, các công ty chứng khoán hay của các chuyên gia trên lĩnh vực
chứng khoán.
Sự phát triển thị trường chứng khoán và chương trình cổ phần hoá có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Do đó, cần đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá để lựa chọn một số
doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Để đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá
thì chúng ta cần phải có các văn bản pháp lý đủ mạnh để làm căn cứ buộc các doanh
nghiệp phải cổ phần hoá. Ngoài ra, Nhà nước còn phải tạo ra môi trường kinh doanh
thuận lợi, “bình đẳng”, có hcính sách ưu đãi thuế cho các công ty cổ phần để các công
ty này có thể phát triển được. Hơn nữa, Nhà nước phỉa có thêm các giải pháp như giúp
đỡ người lao động vay vốn để mua cổ phần, xoá bỏ qui định hạn chế mua cổ phần,
tăng cường kiểm tra tiến độ cổ phần hoá và tăng cường tuyên truyền ưu điểm của cổ

phần hoá. Chúng ta không chỉ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước mà còn nên
xúc tiến việc cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán đều là các thị trường được sử dụng để
thực hiện việc huy động và luân chuyển các nguồn vốn, hai thị trường này mang tính

×