Tải bản đầy đủ (.doc) (229 trang)

giáo trình kinh tế học của trường cao đẳng kinh tế kế hoạch đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.9 KB, 229 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Giáo trình tài chính học được biên soạn những vấn đề lý thuyết và thực
tiễn mới về tài chính của kinh tế thị trường trong nước và quốc tế để người học
và người đọc dễ hình dung những vấn đề tài chính của nền kinh tế Việt Nam
đang trong quá trình phát triển, mở cửa và hội nhập.
Giáo trình tài chính học được biên soạn nhằm cung cấp những vấn đề lý
luận cơ bản về tài chính, hệ thống tài chính, thị trường tài chính và những nội
dung chủ yếu ở các lĩnh vực khác nhau của hoạt động tài chính như: Ngân sách
nhà nước, bảo hiểm, tín dụng, tài chính doanh nghiệp, tài chính quốc tế. Qua đó
giúp cho người học và người đọc có phương pháp tiếp cận dễ dàng về vấn đề lý
thuyết và thực tiễn mới về tài chính của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang
trong quá trình phát triển, mở cửa và hội nhập. Đồng thời giúp cho người học có
nền tảng kiến thức cơ sở để tiếp cận học các môn học thuộc chuyên ngành kinh
tế.
Do đó, Tập thể tác giả đã tiến hành biên soạn “Giáo trình tài chính học”,
nhằm phù hợp với mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo của Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kế hoạch Đà Nẵng là phục vụ chủ yếu cho giảng dạy của giáo
viên và việc học tập của sinh viên trong trường.
Giáo trình tài chính học có 6 chương. Tham gia trực tiếp biên soạn các
chương gồm có:
NCS. Ths. Nguyễn Văn Huỳnh biên soạn chương 3 và chương 4
NCS.Ths. Nguyễn Thị Quỳnh Nhi biên soạn chương 1 và chương 2
TS. Nguyễn Thị Thu Đông biên soạn chương 5 và chương 6
Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng sưu tầm tài
liệu, tổng hợp và chắt lọc toàn bộ nội dung liên quan đến tài chính trong thời đại
mới. Tuy nhiên vấn đề tài chính là một vấn đề phức tạp, chứa đựng nhiều nội
dung phong phú vì vậy, thiếu sót trong quá trình biên soạn là khó tránh khỏi.
Nhóm tác giả mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc để tiếp tục
hoàn thiện.
1
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn!


2
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH
I. Khái quát sự ra đời và phát triển của tài chính
Tài chính ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử nhất
định khi mà ở đó xuất hiện nền sản xuất hàng hóa – tiền tệ và xuất hiện Nhà
nước.
Kinh tế chính trị Mác-LêNin đã chỉ rõ, tài chính là một phạm trù kinh tế
khách quan, thuộc phạm trù phân phối. Quá trình tái sản xuất xã hội gồm 4
khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Tài chính thuộc về phạm trù
phân phối, các quan hệ phân phối được thực hiện dưới hình thức giá trị. Như
mọi phạm trù kinh tế khách quan khác, tài chính có lịch sử phát sinh, phát triển
của nó. Như vậy, tài chính cũng đồng thời là một phạm trù lịch sử. Qua việc
tổng kết các quá trình phát sinh, phát triển của tài chính gắn liền với nhiều hình
thái kinh tế- xã hội khác nhau cho phép xác định tài chính ra đời, tồn tại và phát
triển gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, tiền tệ và hoạt động của Nhà nước. Nói
cách khác, tài chính ra đời và phát triển dựa trên hai tiền đề, đó là tiền đề nền
sản xuất hàng hoá - tiền tệ và tiền đề Nhà Nước.
1. Tiền đề sản xuất hàng hoá và tiền tệ
Trước khi nền kinh tế hàng hóa xuất hiện, nền kinh tế hoạt động theo mô
hình tự cung tự cấp, do vậy không có hoạt động trao đổi các sản phẩm tạo ra,
phạm trù tài chính chưa xuất hiện. Khi có sự phân công lao động xã hội, chế độ tư
hữu xuất hiện, quá trình chuyên môn hóa trong sản xuất đã dẫn đến sự hình thành
nền kinh tế hàng hóa từ đó nẩy sinh hoạt động trao đổi các sản phẩm tạo ra. Quá
trình trao đổi đầu tiên được thực hiện dưới hình thức trực tiếp - hàng đổi hàng,
tức phân phối bằng hiện vật.
Khi nền kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển, thì hình thức trao đổi trực
tiếp không còn phù hợp. Hoạt động trao đổi hàng hóa đòi hỏi phải có vật đơn
nhất, đồng nhất đóng vai trò đo lường giá trị của tất cả hàng hóa. Ban đầu để
trao đổi hàng hóa được dễ dàng thì con người đã biết chọn thứ gì đó để làm vật

3
ngang giá chung. Chính yêu cầu đó đã làm xuất hiện tiền tệ. Ban đầu người ta sử
dụng các loại hàng hóa thông thường như vỏ sò, vỏ hến, hay bộ lông thú, sau đó
sử dụng các kim loại như đồng, chì, kẽm, bạc và vàng…làm vật ngang giá, đóng
vai trò là tiền tệ. Nói cách khác, trao đổi hàng hóa gắn liền với sự phát triển của
các hình thái giá trị đã dẫn tới sự xuất hiện của tiền tệ. Tiền tệ ra đời nhanh
chóng thúc đẩy các hoạt động giao lưu kinh tế, đồng thời làm nên cuộc cách
mạng trong phân phối từ phân phối hiện vật sang phân phối giá trị.
Trên cơ sở trao đổi hàng hoá gắn liền với sự phát triển của các hình thái giá
trị, tiền tệ trở thành phương tiện không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của
nền sản xuất đó. Với chức năng thước đo giá trị của thế giới hàng hoá, tiền tệ
giúp các sản phẩm sản xuất ra được mang đi trao đổi một cách dễ dàng, thông
qua giá cả. Sản phẩm được trao đổi liên tục nên dẫn đến sự vận động của tiền tệ
làm phát sinh thu nhập của người sản xuất hàng hoá, các khoản thu nhập là
nguồn hình thành các quỹ tiền tệ của các chủ thể kinh tế.
Sự phát triển liên tục của quá trình sản xuất hàng hoá đòi hỏi các quỹ tiền tệ
phải được tạo lập, phân phối, sử dụng và đây chính là cơ sở làm nảy sinh phạm
trù tài chính. Tiền đề sản xuất hàng hóa và tiền tệ là tiền đề đầu tiên cho sự ra
đời của tài chính. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa và sự đa
dạng các hình thái tiền tệ, hoạt động phân phối tài chính diễn ra thường xuyên
hơn, rộng hơn ở các chủ thể trong nền kinh tế, thỏa mãn nhiều lợi ích, nhu cầu
khác nhau của các chủ thể đó đã thúc đẩy tài chính phát triển. Vì vậy, tiền đề
nền sản xuất hàng hóa - tiền tệ là tiền đề khách quan cho sự ra đời và phát triển
phạm trù tài chính của mỗi quốc gia.
2. Tiền đề Nhà nước
Lịch sử phát triển của xã hội còn cho thấy rằng, khi chế độ tư hữu xuất
hiện, xã hội loài người có sự phân chia giai cấp và có sự đấu tranh giai cấp,
chính sản xuất và trao đổi hàng hóa – tiền tệ là nguyên nhân thúc đẩy mạnh mẽ
sự phân chia giai cấp và từ đó phạm trù Nhà nước xuất hiện. Nhà nước ra đời đã
làm nảy sinh quan hệ kinh tế gắn với việc hình thành, phân phối và sử dụng các

quỹ tiền tệ riêng có của mình để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình,
4
hình thành lĩnh vực hoạt động tài chính theo nguyên tắc bắt buộc hay tự nguyện.
Bằng các chính sách, cơ chế, luật pháp luôn tác động, thúc đẩy kinh tế hàng hoá
- tiền tệ phát triển, tác động tới sự vận động độc lập của các nguồn tài chính và
tạo ra môi trường thuận lợi cho sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các
chủ thể trong xã hội. Ngoài ra, Nhà nước xuất hiện với tư cách là người có
quyền lực chính trị, Nhà nước nắm lấy việc in tiền, đúc tiền và lưu thông đồng
tiền, đã tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ,
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động phân phối dưới hình thức giá trị của tài chính.
Như vậy có thể nói, đây là tiền đề chủ quan có tính chất định hướng, tạo môi
trường pháp lý cho hoạt động phân phối của tài chính gắn với việc tạo lập và sử
dụng quỹ tiền tệ của chủ thể kinh tế - xã hội.
Sự ra đời và tồn tại của nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ và Nhà nước được
coi là những tiền đề phát sinh và phát triển của tài chính, tài chính cũng đã phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Các quan hệ tài chính ngày càng
phát triển đa dạng, biểu hiện dưới nhiều hình thức và bắt rễ sâu rộng trong đời
sống kinh tế xã hội. Nhà nước bằng chính sách, văn bản, cơ chế, luật pháp luôn
tác động tới sự vận động của tiền tệ và tạo môi trường thuận lợi cho sự hình
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội, từ đó thúc đẩy các
quan hệ tài chính nẩy sinh, tồn tại và phát triển.
II. Bản chất của tài chính
1. Biểu hiện bên ngoài của tài chính
Đó là sự vận động độc lập tương đối của các nguồn tài chính gắn liền với
việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Tài chính luôn gắn liền với sự vận động của các quỹ tiền tệ. Hoạt động
phân phối của tài chính nhất định phải kèm theo sự vận động của vốn tiền tệ và
có hình thức biểu hiện đặc biệt là các nguồn tài chính. Nguồn tài chính là một
yếu tố cơ bản của phạm trù tài chính. Đó là toàn bộ của cải xã hội được biểu
hiện dưới hình thức giá trị. Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể

trong xã hội có thể khai thác, sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình.
Nguồn tài chính không chỉ biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị của cải xã hội mà
5
còn biểu hiện toàn bộ tài sản quốc gia, tổng sản phẩm quốc dân ở dạng vật chất
tiềm năng có khả năng tiền tệ hoá. Nguồn tài chính thường xuyên vận động
trong nền kinh tế quốc dân giúp cho các chủ thể thực hiện quan hệ tài chính và
tạo nên các dòng vật chất và sự vận động này là độc lập, mang tính tất yếu khách
quan.
Khi vận động, các nguồn tài chính đó được hình thành ở các chủ thể kinh tế
và Nhà nước dưới hình thức các quỹ tiền tệ, các khoản thu nhập. Các quỹ tiền tệ,
khoản thu nhập này lại tiếp tục được sử dụng cho những mục đích nhất định của
các chủ thể để đáp ứng nhu cầu của mình. Nói cách khác, việc hình thành và sử
dụng các nguồn tài chính được thực hiện về cơ bản thông qua các quỹ tiền tệ có
những mục đích nhất định.
Bởi vậy, dấu hiệu đặc biệt quan trọng của phạm trù tài chính, khác biệt với
các phạm trù phân phối khác là ở chỗ, các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền
với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ gắn liền với sở hữu và tính
mục đích của các chủ thể trong nền kinh tế, như: Nhà nước, doanh nghiệp, hộ
gia đình, các ngân hàng và các công ty tài chính, tổ chức chính trị, xã hội
Chính các chủ thể đó đã tham gia trực tiếp vào quá trình phân phối các nguồn tài
chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền, thông qua đó hình thành các
quỹ tiền tệ gắn liền với chủ sở hữu nhất định và được sử dụng theo mục đích
riêng của chủ sở hữu đó. Trong một xã hội bao gồm các quỹ tiền tệ như sau:
Quỹ tiền tệ của Nhà nước
Quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Đây
là quỹ tiền tệ của khâu trực tiếp sản xuất kinh doanh
Quỹ tiền tệ của các tổ chức tài chính trung gian
Quỹ tiền tệ của hộ gia đình và cá nhân
Quỹ tiền tệ của các tổ chức chính trị, xã hội …

Các quỹ tiền tệ có các đặc trưng sau:
Một là, Các quỹ tiền tệ luôn luôn biểu hiện quan hệ sở hữu.
6
Sự vận động của các quỹ tiền tệ có thể diễn ra trong phạm vi một hình thức
sỡ hữu hoặc giữa các hình thức thức sở hữu nhưng khi kết thúc quá trình tạo lập
và sử dụng thì mỗi chủ thể của hình thức sở hữu này hay hình thức sở hữu khác
sẽ nhận được cho mình một phần nguồn lực tài chính, được xem là kết quả tất
yếu của quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Còn quá trình
phân phối bao giờ cũng chịu sự chi phối quyền sở hữu như là yếu tố cơ bản của
quan hệ sản xuất xã hội. Việc sử dụng quỹ tiền tệ cũng phụ thuộc quyền sở hữu,
phụ thuộc vào quy ước, nguyên tắc sử dụng quỹ, ý chí chủ quan của người sở
hữu trong quá trình phân phối.
Hai là, Các quỹ tiền tệ luôn mang tính mục đích của nguồn tài chính.
Đây là đặc điểm chủ yếu của các quỹ tiền tệ, phần lớn các quỹ tiền tệ đều
có mục đích sử dụng cuối cùng là tích luỹ hay tiêu dùng. Việc hình thành các
quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế là nhằm thõa mãn các nhu cầu khác
nhau của từng chủ thể. Ví dụ:
Đối với Nhà nước, tài chính được sử dụng để huy động các nguồn thu cho
Chính phủ và chi tiêu để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Các doanh nghiệp huy động các nguồn thu tài chính để đầu tư cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh hay dịch vụ để tạo ra thu nhập tăng thêm.
Các hộ gia đình cũng cần các khoản thu nhập tài chính để thõa mãn nhu cầu
tiêu dùng về vật chất và tinh thần.
Như vậy, có thể thấy tài chính là cách thức phân bổ nguồn lực của các chủ
thể trong nền kinh tế để thỏa mãn nhu cầu.
Ba là, Các quỹ tiền tệ thường xuyên vận động. Biểu hiện của sự vận động
là các quỹ tiền tệ luôn được tạo lập, bổ sung và sử dụng. Sự vận động của quỹ
tiền tệ chủ yếu gắn với việc thực hiện chức năng phương tiện lưu thông của
đồng tiền, còn việc thực hiện chức năng phương tiện cất trữ của đồng tiền chỉ
mang tính chất tạm thời.

Sự vận động của các quỹ tiền tệ luôn gắn với mục đích cụ thể của nó, các
quỹ lớn được chia thành các quỹ nhỏ hơn hoặc các quỹ nhỏ hơn có thể được
khuếch trương nhờ tập trung các quỹ tiền tệ nhỏ tương ứng. Ví dụ ngân sách
7
Nhà nước được chia thành các quỹ dùng cho phát triển kinh tế, văn hoá, giáo
dục, y tế xã hội, quốc phòng an ninh…; các quỹ tập trung của các tổng công ty
được tạo nên từ các quỹ tương ứng của các xí nghiệp trực thuộc hạch toán kinh
tế độc lập.
Tóm lại, biểu hiện bên ngoài của nguồn tài chính là gắn liền với việc tạo lập
và sử dụng những quỹ tiện tệ nhất định. Sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
nêu trên cho mục đích tích lũy và tiêu dùng phản ánh kết quả của quá trình phân
phối. Quá trình đó phát sinh hàng loạt các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị
dựa vào sự vận động độc lập tương đối của đồng tiền trong phân phối các nguồn
tài chính.
2 Nội dung kinh tế - xã hội của tài chính
Qua việc phân tích hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính ta thấy, các
nguồn tài chính vận động gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
không phải diễn ra một cách ngẫu nhiên mà luôn chứa đựng những mối quan hệ
kinh tế - xã hội nhất định. Nguồn tài chính trong xã hội luôn vận động một cách
liên tục trong mối quan hệ đan xen, đa dạng giữa các chủ thể trong xã hội dẫn
tới việc làm thay đổi lợi ích kinh tế của các chủ thể đó. Các hiện tượng - biểu
hiện bên ngoài của tài chính là sự thể hiện và phản ánh các quan hệ kinh tế giữa
các chủ thể trong quá trình phân phối các nguồn tài chính, quá trình phân phối
của cải dưới hình thức giá trị. Các quan hệ kinh tế như thế được gọi là các quan
hệ tài chính. Các quan hệ tài chính biểu hiện mặt bản chất bên trong của tài
chính ẩn dấu sau các biểu hiện bên ngoài của tài chính.
Như vậy, quan hệ tài chính đó là các quan hệ phân phối dưới hình thức giá
trị nảy sinh thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ liên quan đến nhiều
chủ thể khác nhau trong đời sống kinh tế xã hội. Các mối quan hệ đó bao gồm:
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà Nước với các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư.

- Quan hệ kinh tế giữa các tổ chức tài chính trung gian với các cơ quan, tổ
chức kinh tế phi tài chính, dân cư.
- Quan hệ kinh tế giữa các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư với nhau và các
quan hệ kinh tế trong nội bộ của các chủ thể đó.
8
- Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau trên thế giới
3. Bản chất của tài chính
Trên cơ sở phân tích biểu hiện bên ngoài và nội dung bên trong của phạm
trù tài chính, bản chất của tài chính được hiểu như sau: Tài chính là hệ thống các
quan hệ kinh tế gắn với việc phân phối sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị,
thông qua đó tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ
và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế. Tài chính phản ánh các quan hệ
kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối giá trị của cải xã hội trong những
không gian, thời gian cụ thể.
Từ bản chất có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của các quan hệ tài
chính:
- Các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự vận động độc lập tương
đối của đồng tiền để tiền hành phân phối các nguồn tài chính.
- Các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng
các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội.
Để hiểu rõ hơn bản chất của tài chính, cần phân biệt phạm trù tài chính với
một số phạm trù giá trị khác như phạm trù tiền tệ, giá cả, tiền lương.
Thứ nhất: Phân biệt phạm trù tài chính với phạm trù tiền tệ. Nhìn bề ngoài,
tài chính được người ta cảm nhận như những quỹ tiền tệ của các chủ thể khác
nhau trong xã hội. Nhưng giữa phạm trù tài chính và phạm trù tiền tệ có sự khác
biệt cơ bản. Về bản chất tiền tệ là vật ngang giá chung trong trao đổi hàng hoá.
Tài chính là sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ trong lĩnh vực phân phối
nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Thứ hai: Phân biệt phạm trù tài chính và phạm trù giá cả.
Giá cả cũng là một phạm trù giá trị, ở giá cả việc chuyển dịch giá trị không

xảy ra vì giá cả xuất hiện trong quan hệ trao đổi, mua bán theo nguyên tắc ngang
giá. Giá trị mà người mua và người bán có được đều bảo tồn chỉ thay đổi hình
thái biểu hiện từ tiền biến thành hàng và ngược lại. Điều này có ý nghĩa trong
quan hệ trao đổi mua bán ngang giá của phạm trù giá cả không diễn ra hoạt động
phân phối dưới hình thức giá trị.
9
Trong thực tế nếu việc trao đổi mua bán diễn ra không theo nguyên tắc
ngang giá thì cũng diễn ra sự chuyển dịch giá trị từ chủ thể này sang chủ thể
khác, biểu hiện ở phần chênh lệch giá này chuyển dịch từ người bán sang người
mua, người mua được hưởng lợi và ngược lại.
Trong phân phối dưới hình thức giá trị của phạm trù giá cả đều được thực
hiện kèm theo quá trình trao đổi mua bán với sự vận động ngược chiều của các
hình thái giá trị khác đó là giá trị và giá trị sử dụng, không giống như sự vận
động của tài chính không kèm theo sự vận động ngược chiều nào của giá trị.
Thứ ba: Phân biệt phạm trù tài chính với phạm trù tiền lương.
Tiền lương cũng là phạm trù phân phối dưới hình thức giá trị. Tiền lương
phân phối theo nguyên tắc phân phối theo lao động được tính tương đương với
giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động.
Tiền lương được thực hiện thông qua phân phối của tài chính để hình thành
nên quỹ tiền lương của các tổ chức kinh tế xã hội, các cơ quan nhà nước trước
khi trả cho người lao động. Tiền lương được biểu hiện bằng một lượng giá trị
được chuyển dịch từ quỹ tiền lương của các chủ thể chi trả khác nhau đến các
quỹ tiền tệ cho người được hưởng. Đây chính là biểu hiện của hoạt động phân
phối tài chính. Giữa tiền lương và tài chính có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tài
chính là phương tiện để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động của tiền
lương trong lĩnh vực bù đắp sức lao động. Phạm vi tác động của tiền lương hẹp
hơn so với tài chính.
III. Chức năng của tài chính
1. Chức năng phân phối của tài chính
1.1. Khái niệm

Phân phối của tài chính đó là sự phân chia tổng sản phẩm quốc dân theo
những tỷ lệ và xu hướng nhất định cho tiết kiệm và tiêu dùng nhằm tích tụ tập
trung vốn để đầu tư phát triển kinh tế và thoả mãn các nhu cầu chung của Nhà
nước, xã hội và các cá nhân.
Hoạt động của tài chính là hoạt động phân phối - phân phối các nguồn giá
trị. Do vậy, chức năng phân phối là chức năng vốn có của tài chính, thể hiện bản
10
chất của tài chính trong đời sống kinh tế, xã hội khi phân phối giá trị của cải xã
hội. Nhờ vào chức năng này mà các nguồn lực đại diện cho những bộ phận của
cải xã hội được đưa vào những mục đích sử dụng khác nhau, đảm bảo những
nhu cầu khác nhau và những lợi ích khác nhau.
Người ta dễ dàng nhận diện thấy tác động hiện thực của chức năng phân
phối tài chính thông qua các hoạt động thu, chi tài chính, qua đó tài chính thực
hiện huy động một phần thu nhập của các tổ chức, các hộ gia đình, các cá nhân
để hình thành các quỹ tiền tệ nhằm thực hiện những mục tiêu đã định của các
chủ thể.
1.2. Đối tượng của phân phối
Đối tượng phân phối của tài chính là toàn bộ của cải xã hội được biểu hiện
dưới hình thức giá trị, là tổng thể các nguồn tài chính có trong xã hội, bao gồm:
* Nếu xét về thời gian, nguồn tài chính bao gồm:
+ Bộ phận của cải xã hội mới được sáng tạo ra trong kỳ. Đó là tổng sản
phẩm trong nước (GDP).
+ Bộ phận của cải xã hội còn lại từ thời kỳ trước, đó là phần tích luỹ quá
khứ của cải xã hội và dân cư.
* Nếu xét về phạm vi, nguồn tài chính bao gồm:
+ Nguồn tài chính tạo ra từ trong nước
+ Nguồn tài chính di chuyển từ nước ngoài vào
* Nếu xét về hình thức biểu hiện:
+ Nguồn tài chính hữu hình là nguồn tài chính tồn tại dưới hình thái giá trị
hoặc hiện vật. Dưới hình thái giá trị, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới hình

thức tiền, vàng và ngoại tệ. Dưới hình thái hiện vật, nguồn tài chính có thể tồn
tại dưới dạng bất động sản, tài nguyên, đất đai.
+ Nguồn tài chính vô hình là nguồn tài chính không có hình thái vật chất cụ
thể như: phần mềm, dữ liệu, thông tin, hình ảnh, phát minh, sáng chế, bí quyết
kỹ thuật, thương hiệu Những sản phẩm kể trên, bản thân chúng có giá trị và
trong điều kiện kinh tế thị trường chúng có thể chuyển thành tiền thông qua mua
11
bán. Do đó, chúng được coi là một bộ phận cấu thành của tổng thể các nguồn tài
chính trong xã hội.
1.3. Chủ thể phân phối:
Chủ thể phân phối của tài chính là những người có thể tham gia trực tiếp
vào quá trình phân phối các nguồn lực tài chính trong xã hội.
Các chủ thể phân phối phải thoả mãn một trong các tiêu thức sau:
+ Có quyền sở hữu các nguồn tài chính: Chủ thể ở đây là những người chủ
“đích thực” của vốn tiền tệ. Vì là người có quyền sở hữu nguồn tài chính nên họ
có quyền chủ động trong quá trình sử dụng nguồn tài chính để đáp ứng yêu cầu
hoạt động của mình.
+ Có quyền sử dụng nguồn tài chính: Chủ thể ở đây là những người không
có quyền sở hữu vốn tiền tệ nhưng họ đươc trao quyền sử dụng vốn tiền tệ. Ví
dụ họ là người đi vay vốn tín dụng để hoạt động. Quyền sở hữu nguồn tài chính
thuộc về người cho vay nhưng quyền sử dụng thuộc về người đi vay nên người
đi vay có thể trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối.
+ Có quyền lực chính trị: Đây là tiêu thức biểu hiện chủ thể phân phối là
Nhà nước. Vì có quyền lực chính trị, Nhà nước có thể huy động, phân phối và sử
dụng một phần các nguồn lực tài chính từ các chủ thể khác nhau trong xã hội để
đáp ứng yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
+ Có sự ràng buộc của các quan hệ xã hội: Chính sự ràng buộc các quan hệ
xã hội làm nảy sinh nhu cầu huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài
chính của các chủ thể phân phối. Sự ràng buộc của các quan hệ xã hội là tiền đề
cho sự vận động của các nguồn tài chính từ chủ thể này sang chủ thể khác trong

quá trình phân phối của tài chính. Chủ thể muốn đề cập ở đây là các tổ chức
chính trị, các tổ chức xã hội khi họ nhận được sự đóng góp, ủng hộ của các cá
nhân, tổ chức trong xã hội thì họ sẽ trực tiếp phân phối nguồn tài chính đó.
Như vậy, chủ thể phân phối có thể là Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ
chức tài chính trung gian (ngân hàng, Bảo hiểm, tổ chức tín dụng khác…), các
tổ chức xã hội, các hộ gia đình và cá nhân dân cư.
12
Khi thực hiện chức năng phân phối tài chính các chủ thể phải đảm bảo các
yêu cầu sau:
+ Phân phối tài chính phải xác định quy mô tỷ trọng của đầu tư trong tổng
sản phẩm quốc dân phù hợp với khả năng và sự tăng trưởng kinh tế ở mỗi thời
kỳ nhất định.
+ Phân phối tài chính phải giải quyết thỏa đáng các quan hệ về lợi ích kinh
tế của những chủ thể tham gia phân phối.
+ Phân phối tài chính giải quyết thoả đáng các mối quan hệ cân đối trong
nền kinh tế quốc dân cũng nhưng trong từng khâu tài chính riêng biệt.
+ Phân phối tài chính đảm bảo giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa tiêu
dùng, tiết kiệm và đầu tư.
+ Phân phối tài chính phải đảm bảo tạo lập và chu chuyển nguồn vốn đảm
bảo quá trình tái sản xuất xã hội bình thường.
1.4 Kết quả phân phối
Phân phối tài chính luôn làm chuyển dịch giá trị từ quỹ tiền tệ này sang quỹ
tiền tệ khác. Kết quả phân phối của tài chính là sự hình thành và sử dụng các
quỹ tiền tệ nhất định cho những mục đích khác nhau của các chủ thể trong xã
hội.
1.5. Đặc điểm phân phối
- Phân phối tài chính luôn gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ
tiền tệ nhất định. Phân phối tài chính được biểu hiện bằng sự vận động của các
nguồn tài chính từ quỹ tiền tệ này sang quỹ tiền tệ khác. Điều này liên quan đến
việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau: Có thể có nhiều quỹ tiền

tệ được tạo lập gắn liền với việc sử dụng một quỹ tiền tệ (Ví dụ như doanh
nghiệp chi trả lương cho người lao động) hay ngược lại việc tạo lập một quỹ tiền
tệ liên quan đến việc sử dụng nhiều quỹ tiền tệ khác (ví dụ, nhiều doanh nghiệp
cùng nộp thuế cho Nhà nước).
- Phân phối tài chính chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, không kèm theo sự
thay đổi hình thái giá trị. Tài chính ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với nền
sản xuất hàng hoá và tiền tệ, phân phối tài chính là hoạt động phân phối các
nguồn lực tài chính trong xã hội, do đó chỉ thực hiện bằng giá trị thông qua chức
13
năng phương tiện thanh toán của tiền tệ. Khác với phân phối trong phạm trù giá
cả, phân phối tài chính làm cho các nguồn lực tài chính vận động một chiều từ
quỹ tiền tệ được sử dụng sang quỹ tiền tệ được tạo lập mà không kèm theo sự
thay đổi các hình thái giá trị hay sự vận động ngược chiều của các hình thái giá
trị.
+ Phân phối tài chính diễn ra trong một chu trình khép kín bao gồm quá
trình phân phối lần đầu và phân phối lại.
Phân phối lần đầu là quá trình phân phối chỉ diễn ra ở lĩnh vực sản xuất,
cho những người có tham gia vào quá trình sản xuất. Chủ thể phân phối lần đầu
bao gồm doanh nghiệp (người sản xuất), người lao động, Nhà nước (đại diện
cho tài sản của Nhà nước mà doanh nghiệp đang sử dụng), các trung gian tài
chính như Ngân hàng, bảo hiểm, Tổ chức tín dụng (với tư cách là người sở hữu
vốn cho doanh nghiệp vay). Thông qua quá trình phân phối lần đầu đã hình
thành nên phần thu nhập cơ bản của chủ thể phân phối. Vì phân phối lần đầu
diễn ra ở lĩnh vực sản xuất nên toàn bộ giá trị sản phẩm xã hội trong khu vực sản
xuất được phân chia thành các quỹ tiền tệ như sau:
+ Một phần bù đắp những chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản
xuất hay thực hiện các dịch vụ. Phần này bù đắp chi phí khấu hao tài sản cố định
và chi phí mua nguyên, nhiên, vật liệu đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, tiêu thụ
hàng hoá và kinh doanh dịch vụ.
+ Một phần hình thành quỹ tiền lương để trả lương cho người lao động.

+ Một phần hình thành các quỹ bảo hiểm .
+ Một phần hình thành thu nhập của những người sở hữu các nguồn lực tài
chính để phục vụ sản xuất kinh doanh như nộp thuế cho ngân sách nhà nước, trả
nợ tiền vay ngân hàng và các tổ chức khác, phân chia thu nhập cho các thành
viên góp vốn
* Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản
đã hình thành qua phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhiều
nhu cầu khác nhau, thoả mãn nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Khi tiến hành
14
phân phối lại, đã làm chuyển quyền sở hữu cũng như thay đổi quyền sử dụng
nguồn tài chính của các chủ thể.
So với phân phối lần đầu, phân phối lại diễn ra trên phạm vi rộng hơn, ở tất
cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, hơn nữa phân phối lại diễn ra thường
xuyên liên tục ở tất cả các chủ thể phân phối. Chính phân phối lại mới là biểu
hiện chủ yếu của chức năng phân phối tài chính.
Cần chú ý rằng, việc phân biệt giữa phân phối lần đầu và phân phối lại chỉ
mang tính chất tương đối. Nếu xét trên tổng thể thì quá trình phân phối diễn ra
liên tục, đan xen vào nhau, khó có thể tách rời hai quá trình phân phối lần đầu và
phân phối lại.
2. Chức năng giám đốc tài chính
Chức năng giám đốc cũng là chức năng vốn có của tài chính, đó là khả
năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra, giám đốc bằng
đồng tiền với việc sử dụng các chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện
cất trữ tiền tệ. Chức năng giám đốc có quan hệ biện chứng với chức năng phân
phối tài chính.
2.1. Khái niệm
Giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, giám sát, đôn đốc các hoạt động
tài chính nhằm phát hiện các ưu điểm để phát huy và những tồn tại cần khắc
phục trong toàn bộ quá trình phân phối nguồn tài chính.
2.2. Đối tượng giám đốc

Là toàn bộ quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, quá trình vận động
của các nguồn tài chính. Chính sự vận động của các nguồn tài chính trong quá
trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ thông qua việc thực hiện chức năng phân
phối làm nảy sinh nhu cầu và khả năng kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động
này.
2.3. Chủ thể giám đốc
Chủ thể giám đốc cũng là chủ thể của phân phối. Trong quá trình tạo lập và
sử dụng các quỹ tiền tệ của mình các chủ sở hữu thực hiện việc kiểm tra, giám
sát bằng đồng tiền một cách thường xuyên, liên tục ở mọi nơi, mọi lúc diễn ra
15
hoạt động phân phối của tài chính. Chủ thể giám đốc tài chính có thể là Nhà
nước, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân, hộ gia
đình.
2.4. Kết quả của giám đốc tài chính
Trước hết, giám đốc tài chính đảm bảo tính hợp lý của quá trình phân phối
tài chính, đảm bảo sự đúng đắn của việc tạo lập và tính hiệu quả của việc sử
dụng các quỹ tiền tệ. Hoạt động phân phối tài chính gắn liền với hoạt động của
con người nên nó mang tính chủ quan trong một chừng mực nhất định. Nhờ
chức năng giám đốc, quá trình phân phối được thực hiện phù hợp với các quy
luật kinh tế khách quan do đó vừa đảm bảo tính hợp lý của quá trình phân phối,
vừa nâng cao hiệu quả sử dụng chúng theo những mục đích đã định. Thông qua
giám đốc tài chính, phải phát hiện được những mặt được và chưa được của quá
trình phân phối để điều chỉnh kịp thời việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
theo mục đích đã định.
Ngoài ra, giám đốc tài chính còn góp phần thúc đẩy việc chấp hành các
chính sách, chế độ, pháp luật của Nhà nước.
2.5. Đặc điểm của chức năng giám đốc
- Chức năng giám đốc của tài chính không đồng nhất với mọi khả năng
giám đốc bằng đồng tiền nói chung trong xã hội. Ví dụ, giá cả là một phạm trù
giá trị có khả năng giám đốc bằng đồng tiền nhưng hoàn toàn khác biệt với

phạm trù tài chính. Trong quan hệ mua bán, trao đổi của giá cả trước hết nhờ
vào chức năng thước đo giá trị của tiền tệ để đo lường giá trị của hàng hoá nhằm
đảm bảo nguyên tắc ngang giá, ngoài ra còn dựa vào nhiều chức năng khác của
tiền tệ. Ở phạm trù tài chính, chức năng giám đốc được thực hiện khi tài chính
được sử dụng như một công cụ phân phối, gắn với việc tạo lập hay sử dụng các
quỹ tiền tệ, do đó chủ yếu dựa vào chức năng phương tiện thanh toán và phương
tiện cất trữ của tiền tệ.
- Giám đốc tài chính có tính thường xuyên, liên tục, toàn diện, rộng rãi và
kịp thời. Tính thường xuyên, liên tục được thể hiện rất rõ nét vì hoạt động phân
16
phối của tài chính cũng có tính thường xuyên, liên tục. Giám đốc tài chính mang
tính chất rộng rãi vì hoạt động phân phối của tài chính diễn ra trên phạm vi rất
rộng. Tính toàn diện và kịp thời biểu hiện ở chỗ, chức năng giám đốc được thực
hiện trước, trong và sau quá trình phân phối của tài chính.
Hai chức năng của tài chính có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau, làm
tiền đề và bổ sung cho nhau. Chức năng phân phối là tiền đề của chức năng
giám đốc. Hoạt động phân phối tạo ra khả năng và nhu cầu giám sát bằng đồng
tiền đối với toàn bộ quá trình phân phối. Chức năng giám đốc giúp cho việc thực
hiện chức năng phân phối phù hợp với các qui luật kinh tế khách quan, nâng cao
tính hiệu quả của phân phối. Chức năng giám đốc được thực hiện trước, trong và
sau quá trình phân phối.
IV. Hệ thống tài chính
1.Khái niệm và sơ đồ hệ thống tài chính
1.1 Khái niệm hệ thống tài chính
Trong nền kinh tế, các quan hệ tài chính xuất hiện rất đa dạng và phức tạp,
tuy nhiên chúng không hề tồn tại và hoạt động tách biệt nhau, giữa chúng luôn
có mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau theo những nguyên tắc, qui luật nhất
định, hình thành nên một hệ thống thống nhất.
Hệ thống tài chính có thể xem xét trên 2 khía cạnh: chủ thể tài chính và
luồng luân chuyển vốn. Tuy nhiên trong giáo trình này, chỉ đề cập đến quan

niệm hệ thống tài chính trên góc độ chủ thể tài chính và ở đó có các quỹ tiền tệ,
tạo thành “tụ điểm” từ các nguồn tài chính, thì hệ thống tài chính khái quát như
sau:
Hệ thống tài chính là tổng thể các bộ phận khác nhau trong một cấu trúc
tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau
nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định.
Ở mỗi lĩnh vực hoạt động khác nhau có những quỹ tiền tệ đặc thù được
hình thành và được sử dụng cho những mục đích khác nhau. Các hoạt động tài
chính ở đó cũng có đặc điểm và vai trò riêng, nghĩa là ở đó hình thành các bộ
17
phận tài chính độc lập. Tính đa dạng, độc lập đó bắt nguồn từ tính đa dạng,
phong phú của các hoạt động kinh tế xã hội mà hoạt động tài chính là một bộ
phận trong đó. Tuy có sự đa dạng, khác nhau nhưng các hoạt động tài chính
trong các lĩnh vực, các bộ phận tài chính lại có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc,
phụ thuộc lẫn nhau trong sự vận động không ngừng của các nguồn tài chính.
Điều đó, kết hợp với nhau và cấu thành một hệ thống tài chính.
Hệ thống tài chính của một quốc gia là một thể thống nhất do nhiều bộ phận
tài chính hợp thành. Bộ phận tài chính là nơi hội tụ các nguồn tài chính, nơi diễn
ra việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ gắn liền với việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của chủ thể trong lĩnh vực hoạt động. Việc xác định có bao nhiêu bộ
phận tài chính của hệ thống đó là tuỳ thuộc vào việc chỉ ra một cách đúng đắn
các căn cứ lư thuyết để xác định thế nào là một bộ phận tài chính. Các căn cứ
xác định các bộ phận tài chính:
+ Bộ phận tài chính phải là một điểm hội tụ của các nguồn tài chính là nơi
vừa thu hút các nguồn tài chính (tạo lập quỹ tiền tệ từ các quỹ tiền tệ khác) đồng
thời cũng là nơi cung ứng nguồn tài chính (sử dụng quỹ tiền tệ để hình thành các
quỹ tiền tệ khác)
+ Một bộ phận tài chính nếu ở đó hoạt động tài chính, sự vận động của các
nguồn tài chính, việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ luôn gắn liền với một
chủ thể phân phối cụ thể, xác định.

+ Được xếp vào một bộ phận tài chính nếu các hoạt động tài chính có cùng
tính chất đặc điểm, vai trò có tính đồng nhất về hình thức các quan hệ tài chính
và tính mục đích của các quỹ tiền tệ trong lĩnh vực hoạt động.
Từ những căn cứ trên có thể xác định hệ thống tài chính theo chủ thể bao
gồm các bộ phận tài chính sau:
- Tài chính Nhà nước.
- Tài chính doanh nghiệp.
- Tài chính của các tổ chức tài chính trung gian (Bảo hiểm, Tín dụng)
- Tài chính các tổ chức chính trị - xã hội và tài chính hộ gia đình
18
1.2. Sơ đồ hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính bao gồm các bộ phận tài chính và bộ phận dẫn vốn,
được tổ chức theo sơ đồ sau:
Giữa các bộ phận của hệ thống tài chính có mối quan hệ ràng buộc trong
việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ hợp thành một hệ thống tài chính thống
nhất. Đây là những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, tác động vào nhau một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính. Thêm vào đó, với xu
hướng quốc tế hóa, hệ thống tài chính của mỗi quốc gia xây dựng có những nét
tương đồng, phù hợp với thông lệ quốc tế.
2. Đặc điểm các bộ phận của hệ thống tài chính
2.1. Tài chính Nhà nước
Tài chính Nhà nước là tổng thể các hoạt động thu chi bằng tiền do Nhà
nước tiến hành trong quá trình tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước
nhằm phục vụ việc thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Tài
chính Nhà nước phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các
chủ thể khác nhau trong xã hội nẩy sinh trong quá trình Nhà nước tham gia phân
phối các nguồn tài chính.
Tài chính Nhà nước có các đặc trưng sau:
19
Các trung gian

tài chính
THỊ
TRƯỜNG
TÀI CHÍNH
Tài chính
Nhà nước
Tài chính
Doanh nghiệp
Tài chính hộ gia
đình và
tổ chức xã hội
Tài chính Nhà nước là một khâu có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống
tài chính.
Tài chính Nhà nước đảm bảo cung ứng nguồn tài chính đáp ứng yêu cầu tồn
tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước, đảm bảo quốc phòng an ninh, thực hiện
các chức năng quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước, thực hiện đường lối đối
ngoại của Nhà nước.
Tài chính Nhà nước được phân theo các tiêu thức sau:
- Căn cứ vào tính chất đặc điểm của hoạt động tài chính Nhà nước :
+ Tài chính chung của Nhà nước
+ Tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước
+ Tài chính của các đơn vị sự nghiệp Nhà nước
+ Tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước
- Căn cứ nội dung quản lý hay mục và cơ chế hoạt động của các quỹ thuộc
tài chính Nhà nước, tài chính Nhà nước bao gồm ngân sách Nhà nước, tín dụng
Nhà nước, các quỹ ngoài ngân sách Nhà nước gồm quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ
hưu trí, quỹ quốc gia giải quyết việc làm, quỹ chuyên dùng khác.
Trong tài chính Nhà nước thì quỹ ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Quỹ ngân sách Nhà nước được tạo lập từ các khoản huy động mang tính chất bắt
buộc hoặc mang tính tự nguyện, có thể tạo lập một cách trực tiếp thông qua huy

động nguồn tài chính từ các khâu tài chính khác hoặc gián tiếp thông qua thị
trường tài chính.
Ngân sách Nhà nước thực hiện nhiệm vụ cụ thể sau:
o Động viên tập trung các nguồn tài chính cho việc tạo lập quỹ tiền tệ tập
trung lớn nhất của Nhà nước đó là quỹ ngân sách.
o Phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước cho việc thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội.
o Giám đốc kiểm tra đối với các bộ phận tài chính khác và với mọi hoạt
động kinh tế - xã hội gắn liền quá trình thu, chi ngân sách.
2.2. Tài chính Doanh nghiệp
20
Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia.
Đặc trưng của tài chính doanh nghiệp là gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng hoá và dịch vụ.
Tài chính doanh nghiệp là nơi thu hút nguồn tài chính từ các khâu khác để
hoạt động, đồng thời cũng chính là nơi tạo ra nguồn tài chính để cung cấp cho
các khâu tài chính khác nhau.
Nhiệm vụ của tài chính doanh nghiệp:
+ Bảo đảm vốn và phân phối vốn hợp lý cho các nhu cầu của sản xuất kinh
doanh.
+ Tổ chức vốn chu chuyển một cách liên tục và có hiệu quả.
+ Phân phối doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp theo đúng các quy
định của nhà nước.
+ Kiểm tra mọi hoạt động, mọi quá trình vận động của các nguồn tài chính
trong doanh nghiệp, đồng thời kiểm tra mọi hoạt động sản xuất kinh doanh gắn
liền quá trình đó.
2.3. Tài chính của các tổ chức tài chính trung gian
Các trung gian tài chính là các tổ chức có hoạt động chủ yếu là cung cấp
các dịch vụ và các sản phẩm tài chính cho khách hàng để đảm bảo các hoạt động
giao dịch của họ thuận lợi và hiệu quả hơn so với việc tự thực hiện trên thị

trường tài chính. Các trung gian tài chính phổ biến là các ngân hàng, các công ty
tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, tổ chức tín dụng khác Hoạt
động của các trung gian tài chính chủ yếu cung cấp các sản phẩm tài chính bao
gồm hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ thanh toán Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các trung gian tài chính ngày càng
được hoàn thiện và đa dạng.
Đặc trưng chung của bộ phận tài chính trung gian là cầu nối giữa những
người có khả năng cung ứng và những người có nhu cầu sử dụng tạm thời các
nguồn tài chính. Bộ phận tài chính trung gian có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ
với các khâu khác trong hệ thống tài chính. Trong nền kinh tế hiện đại, các trung
gian tài chính không chỉ thực hiện chức năng lưu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi
21
thiếu mà còn cung cấp nhiều phương tiện khác nhằm giúp phân bổ hiệu quả các
nguồn lực tài chính của nền kinh tế.
2.4. Tài chính hộ gia đình và tài chính các tổ chức chính trị- xã hội
- Tài chính hộ gia đình: Thực chất đây là ngân quỹ của hộ gia đình. Quỹ
tiền tệ của hộ gia đình được hình thành từ các khoản thu nhập thường xuyên
hoặc không thường xuyên của các thành viên trong gia đình và được sử dụng
chủ yếu vào mục đích tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình.
Đối với các hộ gia đình có nguồn thu nhập lớn, ngoài chi tiêu thường xuyên
có thể có một phần tích luỹ được sử dụng để tham gia vào việc tạo lập nên các
khâu tài chính khác một cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua thị trường tài
chính.
- Tài chính các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm tài chính của các tổ chức
công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ Nguồn hình thành nên quỹ này là từ
sự đóng góp của các hội viên, quyên góp, ủng hộ của các tổ chức quốc gia và
quốc tế cũng như sự trợ cấp của ngân sách nhà nước.
Các quỹ tiền tệ này được sử dụng chủ yếu là đảm bảo nhu cầu của các tổ
chức kinh tế - xã hội, trong trường hợp các quỹ này chưa sử dụng, số vốn tiền tệ
tạm thời nhàn rỗi có thể tham gia trên thị trường tài chính để cung ứng vốn cho

các khâu tài chính khác.
2.5. Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các tài sản tài
chính nhằm chuyển dịch vốn từ người có khả năng cung ứng vốn sang những
người cần vốn. Đây không phải là một bộ phận trong hệ thống tài chính, mà là
môi trường cho các bộ phận tài chính và nguồn tài chính hoạt động.
22
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
1. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa và sự xuất hiện của
tiền tệ là tiền đề cho sự ra đời của tài chính. Sự hình thành của Nhà nước là nhân
tố có tính chất định hướng tạo môi trường pháp lý cho hoạt động phân phối của
tài chính, thúc đẩy tài chính thêm phát triển đa dạng.
2. Tài chính được hiểu là quá trình phân phối các nguồn tài chính nhằm
đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế. Hoạt động của tài chính được
thực hiện thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
3. Tài chính có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức
năng giám đốc, trong đó chức năng phân phối là chức năng cơ bản vốn có của
tài chính, phản ánh bản chất của tài chính; còn chức năng giám đốc là yêu cầu
khách quan của hoạt động phân phối tài chính. Giữa hai chức năng có mối quan
hệ chặc chẽ, hữu cơ với nhau, làm tiền để và bổ sung cho nhau.
4. Trong nền kinh tế, các quan hệ tài chính xuất hiện rất đa dạng và phức
tạp, tuy nhiên chúng không hề tồn tại và hoạt động tách biệt nhau, giữa chúng
luôn có mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau theo những nguyên tắc, qui luật
nhất định, hình thành nên một hệ thống thống nhất. Hệ thống tài chính có thể
xem xét trên 2 khía cạnh: chủ thể tài chính và luồng luân chuyển vốn.
Câu hỏi chương 1:
1. Tại sao sự ra đời và phát triển của hàng hóa – tiền tệ là điều kiện tiên quyết
cho sự ra đời của tài chính?
2. Tài chính là gì? Nêu hình thức thể hiện quan hệ tài chính giữa Nhà nước và
doanh nghiệp Nhà nước?

3. Trình bày các chức năng của tài chính?
4. Phân biệt nguồn tài chính và quỹ tiền tệ
5. Phân tích mối quan hệ cơ bản giữa các khâu trong hệ thống tài chính?
23
Chương II
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Ngân sách Nhà nước
1. Khái niệm ngân sách Nhà nước
Nhìn lại lịch sử ra đời và phát triển của tài chính có thể thấy, khi Nhà nước
xuất hiện thì đồng thời xuất hiện các khoản chi tiêu về quản lý hành chính, tư
pháp, an ninh quốc phòng nhằm duy trì quyền lực chính trị của Nhà nước và
những khoản chi tiêu này được tài trợ từ các nguồn tài chính đóng góp của xã
hội như thuế, công trái … từ đây phạm trù tài chính Nhà nước bắt đầu xuất hiện
như một khái niệm dùng để phản ánh những hoạt động tài chính gắn liền với chủ
thể là Nhà nước. Tài chính Nhà nước được xem là một hệ thống bao gồm nhiều
bộ phận hợp thành. Nếu căn cứ vào chủ thể quản lý hay tính chất, đặc điểm hoạt
động của tài chính Nhà nước thì tài chính Nhà nước bao gồm ngân sách Nhà
nước, tín dụng Nhà nước và các quỹ ngoài ngân sách Nhà nước. Trong đó, Ngân
sách Nhà nước là khâu quan trọng nhất, giữ vị trí chủ đạo trong tài chính Nhà
nước. Thu ngân sách Nhà nước được huy động từ mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội
dưới nhiều hình thức và phương pháp khác nhau trong đó, thuế là h́nh thức thu
phổ biến và chủ yếu. Chi của ngân sách Nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại của bộ
máy Nhà nước và phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Theo luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam (Luật số 01/2002/QH11 do
Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 16/12/2002) thì ngân sách Nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Theo khái niệm trên thì ngân sách Nhà nước là một bảng kế hoạch tài
chính, gắn liền với quyền lực của Nhà nước, là công cụ vật chất của Nhà nước

để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Ngân sách Nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính vĩ mô được cơ quan có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một thời gian nhất định, thường
là 1 năm, năm đó người ta gọi là năm ngân sách hay năm tài chính. Đây là giai
24
đoạn mà trong đó dự toán thu chi tài chính được phê chuẩn của Quốc hội có hiệu
lực thi hành.
Ở hầu hết các quốc gia, năm ngân sách thường có độ dài là 12 tháng, tuy
nhiên thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc ở mỗi nước có khác nhau. Chẳng
hạn ở Việt Nam, Bỉ, Pháp, Hà Lan, Trung Quốc, Malaysia, Lào năm ngân sách
trùng với năm dương lịch tức bắt đầu từ ngày 1/1 năm nay và kết thúc vào 31/12
năm nay. Một số nước như Anh, Nhật, Hồng Kông, Ấn Độ năm ngân sách bắt đầu
từ 1/4 năm nay và kết thúc 31/3 năm sau. Ở Mỹ bắt đầu từ 1/10 năm nay và kết
thúc 30/9 năm sau; ở Úc thì từ 1/7 năm nay đến 30/6 năm sau. Việc qui định
năm ngân sách thường là do ý chủ quan của Nhà nước và phụ thuộc vào 2 yếu
tố:
+ Đặc điểm hoạt động của nền kinh tế liên quan đến nguồn thu ngân sách.
+ Đặc điểm hoạt động của cơ quan lập pháp.
- Về mặt bản chất, ngân sách Nhà nước là hệ thống các quan hệ tài chính
giữa Nhà nước và xã hội, phát sinh, gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và
sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước khi Nhà nước huy động và
sử dụng nguồn tài chính quốc gia nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức
năng quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội của mình trên cơ sở luật định.
Mối quan hệ tài chính giữa Nhà nước và xã hội là các quan hệ kinh tế thể
hiện dưới hình thức giá trị phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và
sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước, mối quan hệ đó bao gồm:
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp được biểu hiện dưới
hình thức như nộp thuế, cấp phát kinh phí, hỗ trợ giá….
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các cơ quan quản lý Nhà nước; quản
lý kinh tế xã hội được biểu hiện dưới các hình thức như cấp phát kinh phí.

- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với dân cư.
- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các tổ chức tài chính quốc tế, chính
phủ nước khác…dưới các hình thức như vay nợ, viện trợ….
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng ngân sách Nhà
nước là mang tính pháp lý cao gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước.
25

×