Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

âng cao chất lượng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng TMCP sài gòn - hà nội chi nhánh Hòn Gai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 66 trang )


1

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về thanh toán không dùng tiền mặt trong Ngân hàng Thƣơng mại
1.1.1. Sự tồn tại khách quan của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt
Sản xuất hàng hóa ra đời kéo theo sự xuất hiện của tiền tệ. Tiền tệ là một loại
hàng hóa đặc biệt, nó có thể biểu hiện được giá trị của tất cả các loại hàng hóa khác và
có thể thỏa mãn được hầu hết các nhu cầu. Quá trình sản xuất càng phát triển thì hàng
hóa tạo ra ngày càng nhiều hơn, sự trao đổi ngày càng được mở rộng và phức tạp. Tiền
tệ ra đời với chức năng là phương tiện thanh toán, phương tiện lưu thông đã góp phần
tích cực cho sản xuất hàng hóa và lưu thông phát triển.
Hình thái tiền thân của tiền tệ là hàng hóa được chọn làm vật ngang giá chung.
Sau một thời gian thì tiền tệ được cố định là tiền vàng do có nhiều tính ưu việt hơn các
loại hàng hóa khác. Trình độ sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, khối lượng hàng
hóa tăng theo cấp số nhân, còn trữ lượng vàng thì khai thác không kịp làm cho giá trị
danh nghĩa của tiền tệ tách rời giá trị thực tế. Tiền giấy ra đời khắc phục hạn chế của
tiền vàng do việc in ấn không hạn chế và có nhiều mệnh giá khác nhau, nó đảm bảo
cho quá trình lưu thông hàng hóa phát triển nhịp nhàng hơn đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế. Trong quá trình lưu thông luôn xuất hiện hai dòng luân chuyển: Dòng luân
chuyển hàng hóa và dòng luân chuyển tiền tệ được thực hiện bởi các chủ thể kinh tế.
Bất kì một chủ thể nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh (SXKD) đều phải có
hai quá trình trao đổi: quá trình mua hàng hóa dịch vụ đầu vào để tiến hành sản xuất
kinh doanh và quá trình bán sản phẩm đầu ra nhằm thu lợi nhuận. Và trong quá trình
sản xuất kinh doanh đó thì thanh toán là khâu đầu tiên và cũng là khâu cuối cùng của
quá trình sản xuất kinh doanh đó. Thanh toán là điều kiện quan trọng đảm bảo sự tuần
hoàn bình thường của lưu thông hàng hóa của quá trình chu chuyển vốn được liên tục
trong từng đơn vị sản xuất nói riêng cũng như trong nền kinh tế nói chung.
Khâu thanh toán bị ách tắc thì quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn, các mối quan hệ


kinh tế bị phá vỡ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Thanh toán bằng tiền
mặt có nghĩa là việc chi trả được thực hiện trực tiếp bằng tiền mặt trong các quan hệ
kinh tế giữa người mua và người bán, hay sự vận động của hàng hóa gắn liền với một
khối lượng tiền tệ nhất định. Khi sản xuất hàng hóa chỉ ở trong một phạm vi hẹp, nền
kinh tế ở trình độ thấp, khối lượng thanh toán nhỏ thì thanh toán bằng tiền mặt tỏ ra
linh hoạt diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của người mua và
người bán.
Thang Long University Library

2

Khi sản xuất hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trao đổi hàng hóa không còn bó
hẹp trong phạm vi một vùng nữa mà nó đã mở rộng ra phạm vi toàn quốc và trên thế
giới. Khối lượng sản phẩm sản xuất ra và tiêu thụ với quy mô lớn, phạm vi rộng, việc
thanh toán bằng tiền mặt sẽ không an toàn làm tăng chi phí lưu thông (Chi phí vận
chuyển, in ấn, bao quản, kiểm đếm, ). Việc thanh toán bằng tiền mặt sẽ gây cản trở
cho tốc độ chu chuyển vốn, vốn đồng thời tạo ra những khe hở không thể kiểm soát
như tham ô, trốn thuế trong kinh doanh.
Với những hạn chế nói trên thanh toán bằng tiền mặt trở nên không còn phù hợp,
không đáo ứng được nhu cầu của một nền kinh tế hiện đại đòi hỏi phải có một hình
thức thanh toán mới là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) qua
ngân hàng.
“Thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ qua chức năng
phương tiện thanh toán giữa các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội bằng cách
trích chuyển vốn từ tài khoản của người phải trả sang tài khoản của người thụ
hưởng”.
Để có được hình thức thanh toán này thì khách hàng phải mở tài khoản tại ngân
hàng. TTKDTM là nghiệp vụ trung gian của ngân hàng, là một bộ phận không thể
thiếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, của các tổ chức kinh
tế và các cá nhân trong xã hội. Nó là cần thiết khách quan không chỉ đối với sự phát

triển của hệ thống ngân hàng mà còn cần thiết cho một nền kinh tế hiện đại.
Để thực hiện TTKDTM thì không thể thiếu sự tham gia của hệ thống các Ngân
hàng thương mại (NHTM). Sự xuất hiện của NHTM gắn liền với sự phát triển của sản
xuất lưu thông hàng hóa, tiền tệ.
“NHTM là đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với ba nghiệp vụ chính
là: nhận gửi, cho vay và cung ứng dịch vụ thanh toán, ngoài ba nghiệp vụ này còn có
các dịch vụ khác tùy theo sự phát triển của hệ thống ngân hàng”.
Hoạt động của NHTM là khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình tuần hòa và
chu chuyển vốn. NHTM không chỉ cung cấp vốn cho sản xuất mà còn thúc đẩy sự vận
động của nền kinh tế thông qua dịch vụ TTKDTM qua ngân hàng.
Trong thực tiễn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì mọi đơn vị kinh
tế đều phải có một khối lượng tiền tệ nhất định để mua nguyên vật liệu, chi trả các
khoản phí phát sinh trong quá trình sản xuất của mình. Các đơn vị kinh doanh thương
mại có quá trình mua hàng hóa vào và bán hàng ra, tất yếu phải có hoạt động thanh
toán tiền hàng. Nếu như mỗi đơn vị này phải vận chuyển tiền, lượng tiền mang đi hay
thu về bằng phương tiện giao thông vận tải thì chi phí lớn, không an toàn và mất thời

3

gian. Chính vì vậy mỗi đơn vị cần một trung gian đáng tin cậy để đóng vai trò lưu trữ,
bảo quản và thực hiện chi trả hộ. Trung gian đó chính là Ngân hàng. Việc thanh toán
sẽ được diễn ra trong nội bộ hệ thống Ngân hàng với sự trợ giúp của các phương tiện
thông tin liên lạc hiện đại khiến cho hoạt động thanh toán được nhanh chóng, tiết kiệm
và an toàn.
NHTM là đơn vị thực hiện hoạt động TTKDTM. Với vai trò là trung gian thanh
toán trong nền kinh tế, Ngân hàng đưa ra các công cụ thanh toán hữu ích đa dạng
nhằm đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngày càng lớn của các chủ thể trong nền kinh
tế. Ngân hàng thực hiện tốt hoạt động TTKDTM là thúc đẩy nhanh quá trình chu
chuyển vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Với sự trợ giúp
của hệ thống ngân hàng, quan hệ thanh toán trở nên đơn giản hơn rất nhiều đối với các

đơn vị kinh doanh, họ sẽ không tốn nhiều thời gian và chi phí cho sản xuất, không gian
sản xuất được mở rộng. Các đơn vị kinh doanh ở xa vẫn có thể tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh một cách dễ dàng mà không phải tốn nhiều thời gian và chi phí cho
hoạt động thanh toán của mình. Bằng việc áp dụng công nghệ hiện đại với các mối
quan hệ đa dạng của mình ngân hàng thực hiện thanh toán cho một doanh nghiệp một
các nhanh chóng và an toàn. Các hoạt động thanh toán như vận chuyển tiền, kiểm tra
tiền để thanh toán nay không còn nữa mà thay vào đó các đơn vị kinh doanh chỉ cần
mở một tài khoản tại ngân hàng và ký lệnh thanh toán khi cần thiết là mọi hoạt động
thanh toán coi như đã hoàn tất. Hơn nữa khoản tiền gửi của các đơn vị kinh tế, cá nhân
tại ngân hàng được an toàn và được hưởng lãi từ khoản tiền gửi đối với lãi suất tiền
gửi thanh toán.
Ngân hàng làm trung gian thanh toán đã làm giảm lượng tiền mặt lưu thông, tiền
mặt không bị vận chuyển qua lại nhiều lần từ đó làm tăng tuổi thọ của tiền, làm giảm
các chi phí in tiền vận chuyển và bảo quản tiền, các khoản tiền nhàn rỗi được sử dụng
để phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động TTKDTM
Hoạt động TTKDTM đã xuất hiện từ rất lâu. Lịch sử xuất hiện thanh toán chuyển
khoản đầu tiên ở nước Anh. Trước năm 1854 nước Anh phát hành tờ giấy bạc 1000
bảng Anh trị giá bằng 7,3224 kg vàng để tiện cho các nhà tư bản rút tiền mặt thanh
toán với nhau, đến chiều thì nộp vào ngân hàng. Năm 1854, nước Anh phát minh ra
phòng thanh toán bù trừ và mang kết quả thanh toán bù trừ về làm chuyển khoản giữa
các nhà tư bản thì việc rút tiền mặt buổi sáng nộp lại buổi chiều chấm dứt. Kể từ đó
các ngân hàng nước Anh chuyển từ các ngân hàng tiền mặt thành các ngân hàng
chuyển khoản.
Thang Long University Library

4

Hoạt động TTKDTM được dựa trên cơ sở tiền gửi ở ngân hàng, việc thanh toán
không được tiến hành bằng phương pháp ghi chuyển từ tài khoản người này sang tài

khoản người khác. TTKDTM có những đặc điểm sau:
 Sự vận động của hàng hóa và tiền tệ luôn có sự tách rời về thời gian, sự vận
động của tiền tệ có thể trước hoặc sau sự vận động của hàng hóa. Để sự vận
động này được diễn ra một cách hợp lý thì cơ chế thanh toán phải quy định
thời gian lập và chuyển chứng từ giữa các ngân hàng, giữa ngân hàng với các
tổ chức kinh tế cho tương xứng với thời gian vận chuyển hàng hóa, cung cấp
dịch vụ đến tay người mua. Hiện nay với sự phát triển của công nghệ máy
tính, thời gian thanh toán rất nhanh chỉ sau vài phút, có khi chỉ vài giây là việc
thanh toán được hoàn tất, trong khi đó thời gian vận động của hàng hóa lại phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Chính vì vậy mà cần phải có nhiều hình
thức thanh toán khác nhau để đáp ứng tốt các quan hệ mua bán hàng hóa và
thanh toán theo yêu cầu của khách hàng.
 Khi thực hiện hoạt động thanh toán thì các chứng từ là do khách hàng lập, đòi
hỏi cơ chế thanh toán phải quy định những nguyên tắc thống nhất nghiêm ngặt
có tính chuẩn mực cao, hình thức thanh toán nào được áp dụng thì sẽ sử dụng
bộ chứng từ đó, trong các chứng từ số liên cũng phải đủ, đúng chữ ký, lập theo
mẫu quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giúp cho việc thanh toán
thuận lợi, chính xác, đồng thời hạn chế việc lập các chứng từ giả.
 Hệ thống ngân hàng hoạt động với mạng lưới rộng khắp, số lượng nghiệp vụ
lớn, để kiểm soát theo dõi ngân hàng và khách hàng dễ dàng trong quá trình
thanh toán phải có sự thống nhất về quy trình thanh toán, loại hình chứng từ,
mẫu chứng từ, giữa các ngân hàng. Khi khách hàng gửi chứng từ thanh toán
đến, kế toán giao dịch sẽ nhận biết đó là loại chứng từ nào, của ngân hàng nào,
việc thanh toán trở nên nhanh chóng hơn.
 Hoạt động thanh toán được kết thúc trên các tài khoản tại ngân hàng. Nhưng
nhiều lý do khác nhau mà việc kết thúc này không được trọn vẹn, tức là sau
khi ghi chép trên tài khoản còn có nhiều khách hàng từ chối thanh toán. Sự từ
chối gây nhiều rắc rối, gây ảnh hưởng đến khả năng tài chính, kế hoạch sản
xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế cá nhân trong xã
hội.

1.1.3. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường
Hiện nay, thanh toán không dùng tiền mặt đã trở thành một mắt xích quan trọng
không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đó là nấc

5

thang phát triển tất yếu của hoạt động thanh toán và ngày càng khẳng định được vị trí
của mình trong nền kinh tế thị trường.
1.1.3.1. Đối với nền kinh tế
TTKDTM làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, do đó giảm đáng kể chi
phí cho việc in ấn, bảo quản, vận chuyển và kiểm đếm tiền. Mặt khác, nhờ có
TTKDTM mà khâu thanh toán được diễn ra nhanh hơn, góp phần làm tăng tốc độ luân
chuyển vốn trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa phát
triển. Hơn nữa, các nghiệp vụ TTKDTM đều được lưu lại trên sổ sách kế toán của
ngân hàng, thông qua đó ngân hàng có thể kiểm soát các hoạt động của nhiều ngành
kinh tế, từ đó góp phần làm tăng hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Ngoài ra,
TTKDTM còn làm cho các khoản thu nhập của doanh nghiệp và cá nhân được minh
bạch và công khai hơn, góp phần chống thất thu thuế có hiệu quả.
1.1.3.2. Đối với dân cư
Khi khai thác và sử dụng dịch vụ TTKDTM mang lại lợi ích kinh tế lớn cho
khách hàng. Quá trình thanh toán qua ngân hàng diễn ra nhanh hơn và giảm được
nhiều chi phí cho khách hàng hơn so với thanh toán bằng tiền mặt. Chỉ bằng một lệnh
của chủ tài khoản thông qua internet, điện thoại di động, một giao dịch đã có thể được
thực hiện. Các cá nhân hay tổ chức không cần phải đem theo một lượng tiền mặt lớn
để thanh toán cho các giao dịch phát sinh nên không phải lo lắng về những rủi ro có
thể gặp phải như tiền giả, trộm cắp, hỏa hoạn,…
Ngoài ra, khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng và duy trì số dư trong tài
khoản thì họ được hưởng tiền lãi và những ưu đãi khác từ ngân hàng. Sự đa dạng các
sản phẩm, dịch vụ trong lĩnh vực thanh toán cũng được các NHTM chú trọng, tạo điều
kiện cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn trong việc sử dụng dịch vụ sao cho có lợi

nhất.
1.1.3.3. Đối với Ngân hàng thương mại
TTKDTM tạo điều kiện cho các NHTM huy động được nguồn vốn lớn từ tài
khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại ngân hàng. Đây là nguồn huy động vốn
quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động của NHTM.
TTKDTM thúc đẩy quá trình cho vay. Với nguồn huy động này, ngân hàng phải
trả lãi rất thấp và đem cho vay với mức lãi suất cao hơn, do đó sẽ thu được mức lợi
nhuận tương đối cao. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng nguồn vốn huy động từ tiền gửi thanh
toán thế nào để vừa thu được lợi nhuận cao mà vẫn đảm bảo tính thanh khoản là còn
tùy thuộc vào năng lực quản lý và kinh doanh vốn của mỗi ngân hàng.
Thang Long University Library

6

TTKDTM giúp cho NHTM thực hiện chức năng tạo tiền. Trong thực tế, nếu
thanh toán bằng tiền mặt, sau khi lĩnh tiền mặt ra khỏi ngân hàng, số tiền đó không còn
nằm trong phạm vi kiểm soát của ngân hàng nữa. Song nếu thực hiện bằng hình thức
TTKDTM, ngân hàng sẽ thực hiện việc trích chuyển từ tài khoản của người trả sang
tài khoản của người thụ hưởng, hoặc bù trừ giữa các tài khoản tiền gửi của các NHTM
với nhau, ngân hàng sẽ có một vốn tạm thời nhàn rỗi, có thể sử dụng nguồn vốn đó để
cho vay. Như vậy, thực chất của cơ chế tạo tiền gửi của hệ thống ngân hàng là tổ chức
thanh toán qua ngân hàng và cho vay bằng chuyển khoản. Vì vậy, khi TTKDTM càng
phát triển thì khả năng tạo tiền càng lớn và tạo cho ngân hàng lợi nhuận đáng kể.
1.1.3.4. Đối với Ngân hàng Trung ương
TTKDTM được thực hiện thông qua việc trích chuyển vốn trên tài khoản tại
ngân hàng, do đó hạn chế được khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí
trong việc in ấn, bảo quản, cất trữ, vận chuyển, kiểm đếm tiền mặt…
TTKDTM tăng cường hoạt động lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế, tăng cường
vòng quay của đồng tiền, khơi thông các nguồn vốn khác nhau, tạo điều kiện quan
trọng cho việc kiểm soát khối lượng giao dịch thanh toán của dân cư và của nền kinh

tế.
1.1.4. Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Thương mại
1.1.4.1. Thanh toán bằng Séc
1.1.4.1.1. Khái niệm
Theo Nghị định số 30/1996/NĐ-CP phát hành ngày 9/5/1996 của Chính phủ, Séc
là là lệnh trả tiền của chủ tài khoản, được lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy
định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của
mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc.
1.1.4.1.2. Đặc điểm
 Các bên liên quan trong thanh toán séc bao gồm:
 Chủ tài khoản: Là người đứng tên mở tài khoản tiền gửi thanh toán và là
chủ sở hữu hoặc là người đại diện chủ sở hữu số tiền ghi trên tài khoản đó.
 Người phát hành séc: Là chủ tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc người được
uỷ quyền, ký tên để phát hành tờ séc theo đúng quy định của pháp luật về
uỷ quyền.
 Người thụ hưởng séc: Là người có quyền sở hữu số tiền ghi trên séc.

7

 Người chuyển nhượng séc: Là người chuyển quyền sở hữu số tiền ghi trên
séc của mình cho người khác.
 Đơn vị thanh toán: Là đơn vị giữ tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ tài
khoản, được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động dịch vụ thanh
toán.
 Theo Nghị định số 30/1996/NĐ-CP, thời hạn hiệu lực thanh toán tờ séc là 15
ngày kể từ ngày ký phát cho đến khi tờ séc đó được xuất trình tại địa điểm
thanh toán. Nhưng theo Nghị định số 159/2003/NĐ-CP thì thời hạn xuất trình
séc là 30 ngày theo lịch, kể từ ngày ký phát cho đến khi tờ séc được xuất trình
tại địa điểm thanh toán (bao gồm cả ngày chủ nhật và ngày nghỉ lễ, nếu ngày
kết thúc kì hạn là ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn được lùi vào

ngày làm việc tiếp theo sau ngày chủ nhật, ngày lễ đó). Trong thời hạn này,
séc được thành toán vô điều kiện khi xuất trình.
 Các nội dung của tờ Séc:
 Mặc trước của séc có các nội dung: từ “Séc” được in phía bên trên séc; số
séc; số tiền xác định ghi bằng số và bằng chữ; tên của người ký phát; tên
đối với tổ chức hoặc họ tên đối với cá nhân của người thụ hưởng được
người ký phát chỉ định hoặc yêu cầu thanh toán séc theo lệnh của người thụ
hưởng được ký phát chỉ định hoặc yêu cầu thanh toán séc cho người cầm
giữ; địa điểm thanh toán; ngày ký phát; tên đối với tổ chức hoặc họ tên đối
với cá nhân và chữ ký của người ký phát.
 Séc thiếu một trong những nội dung trên thì không có giá trị, trừ trường hợp
địa điểm thanh toán không ghi trên séc thì séc được thanh toán tại địa điểm
kinh doanh của người ký phát.
 Mặt sau của séc được sử dụng để ghi các nội dung chuyển nhượng séc.
 Một tờ séc đủ điều kiện thanh toán phải là tờ séc có đủ các điều kiện: phải có
đủ các yếu tố và nội dung quy định, không bị tẩy xóa hay sửa chữa, số tiền
bằng chữ và bằng số phải trùng khớp nhau; séc được nộp trong thời gian hiệu
lực thanh toán; séc không có lệnh đình chỉ thanh toán; chữ ký và con dấu của
người ký phát phải khớp đúng với mẫu đã đăng ký; tài khoản tiền gửi của chủ
tài khoản phải đủ số dư để thanh toán; các chữ ký chuyển nhượng đối với séc
ký danh phải liên tục; không ký phát hành séc vượt thẩm quyền quy định tại
văn bản ủy quyền.
Thang Long University Library

8

 Đơn vị thanh toán séc có quyền từ chối và trả lại séc cho đơn vị thu hộ hoặc
người thụ hưởng nếu tờ séc không đủ điều kiện thanh toán. Khi từ chối thanh
toán, đơn vị thanh toán, đơn vị thanh toán phải lập phiếu từ chối thanh toán
gửi cho người thụ hưởng biết.

1.1.4.1.3. Phân loại
Hiện nay, trong TTKDTM ở nước ta, thanh toán séc qua ngân hàng thông dụng
nhất là 2 loại séc chuyển khoản và séc bảo chi :
 Séc chuyển khoản: Là lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với ngân hàng
về việc trích nộp một khoản tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho
người thụ hưởng có tên trên tờ séc. Séc chuyển khoản không được phép lĩnh
tiền mặt, chỉ được thanh toán trong phạm vi giữa khách hàng có tài khoản ở
cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc khác chi nhánh ngân hàng nhưng các
ngân hàng này có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn tỉnh, thành phố.
Người phát hành séc phải ghi đầy đủ các yếu tố quy định trên tờ séc. Người
thụ hưởng khi nhận séc phải kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của tờ séc.
 Séc bảo chi: Séc bảo chi là tờ séc chuyển khoản thông thường nhưng được
ngân hàng bảo đảm chi trả bằng cách trích trước số tiền ghi trên tờ séc từ tài
khoản của bên trả tiền đưa vào một tài khoản riêng (tài khoản tiền ký gửi bảo
đảm thanh toán séc) được ngân hàng làm thủ tục bảo chi và đánh dấu bảo chi
séc trước khi giao séc cho khách hàng.
Séc bảo chi được dùng để thanh toán giữa các ngân hàng hoặc khác ngân hàng
nhưng cùng hệ thống, nếu khác hệ thống thì phải cùng địa bàn có tham gia thanh toán
bù trừ.
Khả năng thanh toán séc bảo chi rộng hơn hơn séc chuyển khoản và được đảm
bảo, không xảy ra tình trạng phát hành qua số dư. Mỗi lần phát hành séc bảo chi, chủ
tài khoản lập 2 liên giấy yêu cầu bảo chi séc kèm theo tờ séc có ghi đầy đủ các yếu tố,
trực tiếp nộp vào ngân hàng nơi mình mở tài khoản.
1.1.4.2. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi
1.1.4.2.1. Khái niệm
Ủy nhiệm chi (UNC) là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập theo mẫu in sẵn
của ngân hàng, yêu cầu ngân hàng trích tiền từ tài khoản của mình trả cho người thụ
hưởng.

9


1.1.4.2.2. Đặc điểm
 UNC được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc chuyển tiền
của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong cùng một tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán hoặc giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Lập UNC
không nhất thiết phải có hợp đồng kinh tế hay đơn đặt hàng.
 UNC phải do khách hàng lập, ký và chỉ căn cứ vào lệnh đó để trích tiền từ tài
khoản khách hàng chuyển trả cho đơn vị thụ hưởng. Việc ngân hàng tự động
trích tài khoản của khách hàng là không được phép, trừ trường hợp đã có thỏa
thuận trước bằng văn bản.
 Thời hạn thực hiện UNC do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thoả thuận
với người sử dụng dịch vụ thanh toán. Khi kiểm soát, hạch toán lệnh chi, các
bên phải thực hiện đúng thời hạn đã quy định để đảm bảo thanh toán nhanh
lệnh chi.
1.1.4.3. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu
1.1.4.3.1. Khái niệm
Uỷ nhiệm thu (UNT) là một thể thức thanh toán do người bán lập, gửi cho
NHTM để yêu cầu thu hộ từ người mua dựa trên cơ sở hợp đồng kinh tế và hóa đơn
giao hàng.
1.1.4.3.2. Đặc điểm
 UNT được áp dụng thanh toán giữa có khách hàng mở tài khoản ở cùng một
ngân hàng hoặc giữa các ngân hàng có cùng hệ thống hay khác hệ thống.
 UNT là chứng từ đòi tiền do người bán lập, ngân hàng phục vụ người bán
không chịu trách nhiệm về việc người mua có thanh toán hay không.
 Mặc dù UNT được áp dụng rộng rãi về mặt địa lý và có lợi trong trường hợp
thu phí các dịch vụ có tính chất định kỳ nhưng do UNT là chứng từ được lập
từ bên người bán nên mất nhiều công đoạn và thời gian luân chuyển, dễ xảy ra
chứng từ khống và sai lệch số tiền, vì thế xảy ra tình huống người mua chiếm
dụng vốn của người bán, do đó hình thức này không được sử dụng nhiều.
1.1.4.4. Thanh toán bằng thẻ

1.1.4.4.1. Khái niệm
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được cung
cấp bởi ngân hàng hoặc các doanh nghiệp được NHNN cấp phép. Khách hàng sử
Thang Long University Library

10

dụng để trả tiền hàng hóa, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại các
Ngân hàng đại lý hay các máy rút tiền mặt tự động (ATM). Số tiền thanh toán hay rút
ra phải nằm trong phạm vi số dư trong tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng mà
ngân hàng cho phép.
1.1.4.4.2. Phân loại
Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
 Thẻ trong nước: là thẻ được tổ chức phát hành tại Việt Nam để giao dịch trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
 Thẻ quốc tế: là loại thẻ được tổ chức phát hành thẻ tại Việt Nam để giao dịch
trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam; hoặc thẻ được tổ chức nước ngoài phát
hành và giao dịch trong lãnh thổ Việt Nam.
Dựa vào tính chất thanh toán của thẻ, người ta chia thẻ thanh toán thành các loại:
 Thẻ tín dụng (Credit Card): Chủ thẻ được thực hiện giao dịch trong phạm vi
hạn mức tín dụng đã được cấp theo thỏa thuận để mua hàng hóa, dịch vụ. Cuối
tháng, ngân hàng sẽ nhận được một bản sao kê do ngân hàng gửi tới. Nếu
khách hàng thanh toán được hết số tiền nợ thì sẽ không phải trả lãi. Còn nếu
trả được một phần thì chủ thể phải trả lãi, trả phí hoặc bị phạt theo quy định
của ngân hàng trong từng thời kỳ.
 Thẻ ghi nợ (Debit Card): Đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến hiện nay. Loại
thẻ này cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi số tiền có
trong tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ.
 Thẻ trả trước (Prepaid Card): Tương tự thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng, thẻ trả
trước cho phép chủ thẻ thực hiện thanh toán mà không dùng tiền mặt. Khi thực

hiện thanh toán với số tiền trả trước, số tiền trả sẽ bị trừ đi từ số tiền có trong
thẻ.
Phân loại theo chủ thể phát hành:
 Thẻ do ngân hàng phát hành: Đây là loại thẻ do ngân hàng cung cấp cho
khách hàng, giúp khách hàng sử dụng linh hoạt tài khoản của mình hoặc sử
dụng sử dụng số tiền do ngân hàng cấp tín dụng.
 Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: Thường là thẻ du lịch, giải trí do
các tập đoàn kinh tế lớn phát hành. Thẻ cũng được sử dụng trên phạm vi toàn
cầu với các quy trình thanh toán không khác nhiều so với thẻ do ngân hàng
phát hành.

11

1.1.4.4.3. Đặc điểm
Thẻ thanh toán là một hình thức thanh toán hiện đại vì nó gắn với ứng dụng tin
học ngân hàng. Thẻ thanh toán được ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng để
thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ và các khoản thanh toán khác hoặc rút tiền mặt tại
các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy rút tiền tự động.
Việc phát hành thẻ thanh toán do bộ phận chuyên trách của ngân hàng đảm
nhiệm, thực hiện bằng máy móc và thiết bị chuyên dụng. Khi lập thẻ thanh toán phải
ghi đầy đủ các yếu tố quy định, đúng quy trình kỹ thuật và giữ bí mật.
Thể thức thanh toán bằng thẻ đã được quy là một trong những thể thức thanh
toán không dùng tiền mặt nhưng do trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ dân trí, vốn và
nền kinh tế nước ta chưa đủ điều kiện để sử dụng một cách phổ biến. Vì vậy cần phải
có sự quan tâm đầu tư từng bước phù hợp với tình hình thực tế từ phía NHNN cũng
như các NHTM.
1.1.4.5. Thanh toán qua ngân hàng điện tử
1.1.4.5.1. Khái niệm
Ngân hàng điện tử là những dịch vụ ngân hàng dựa trên nền tảng công nghệ
thông tin hiện đại. Dịch vụ ngân hàng điện tử cho phép khách hàng có thể truy cập từ

xa vào một ngân hàng nhằm nắm bắt thông tin có liên quan đến hoạt động ngân hàng,
thực hiện các giao dịch với ngân hàng thông qua phương tiện thông tin hiện đại mà
không cần đến quầy giao dịch trực tiếp với ngân hàng.
1.1.4.5.2. Phân loại
Trong những năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin,
các dịch vụ ngân hàng điện tử ra đời càng nhiều, càng đa dạng và cung cấp khác nhiều
tiện ích cho các doanh nghiệp và cá nhân trong cả nước. Có nhiều hình thức thanh toán
qua dịch vụ ngân hàng điện tử phổ biến như:
 Internet Banking: Dịch vụ Internet Banking giúp khách hàng chuyển tiền trên
mạng thông qua các tài khoản của mình cũng như kiểm soát hoạt động của các
tài khoản này. Để tham gia, khách hàng phải đăng ký sử dụng dịch vụ này với
ngân hàng và được ngân hàng cấp mật mã, sau đó khách hàng dùng mật mã
này truy cập vào website của ngân hàng và thực hiện các giao dịch tài chính,
truy cập thông tin cần thiết, hoặc thực hiện mua hàng và thanh toán với ngân
hàng.
Thang Long University Library

12

 Mobile Banking: Với dịch vụ này, khách hàng có thể kiểm tra số dư tài khoản,
liệt kê giao dịch, nhận thông báo số dư, tỷ giá và lãi suất tự động, thanh toán
hóa đơn tiền điện, nước, điện thoại, internet và nạp tiền vào điện thoại di
động… Khách hàng sử dụng dịch vụ này thông qua máy điện thoại di động.
 E-banking: Khách hàng có thể thực hiện hầu hết các giao dịch tại nhà hoặc
văn phòng làm việc của mình mà không cần đến ngân hàng. Khách hàng sử
dụng dịch vụ này với điều kiện máy tính phải được cài đặt chương trình của
ngân hàng kết nối.
Với sự phát triển của thương mại điện tử, các dịch vụ ngân hàng điện tử ngày
càng đa dạng và thỏa mãn càng nhiều nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, bên cạnh rất
nhiều những lợi ích mang lại cũng tồn tại nhiều rủi ro trên phạm vi toàn cầu. Các ngân

hàng cần có hệ thống bảo mật đủ mạng để đối phó với những rủi ro và kinh phí để đầu
tư vào hệ thống bảo mật rất tốn kém.
1.2. Chất lƣợng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại NHTM
1.2.1. Khái niệm chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt
Chất lượng là một khái niệm quá quen thuộc với loài người ngay từ những thời
cổ đại, tuy nhiên chất lượng cũng là một khái niệm gây nhiều tranh cãi.
Tùy theo đối tượng sử dụng, từ “chất lượng” có ý nghĩa khác nhau. Người sản
xuất coi chất lượng là điều họ phải làm để đáp ứng các qui định và yêu cầu do khách
hàng đặt ra, để được khách hàng chấp nhận. Chất lượng được so sánh với chất lượng
của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo các chi phí, giá cả. Do con người và nền văn hóa
trên thế giới khác nhau, nên cách hiểu của họ về chất lượng và đảm bảo chất lượng
cũng khác nhau.
Nói như vậy không phải chất lượng là một khái niệm quá trừu tượng đến mức
người ta không thể đi đến một cách diễn giải tương đối thống nhất, mặc dù sẽ còn luôn
luôn thay đổi. Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS 9000:2000,
đã đưa ra định nghĩa sau:
“Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống
hay qúa trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”. Ở đây
yêu cầu là các nhu cầu và mong đợi được công bố, ngụ ý hay bắt buộc theo tập quán.
Từ định nghĩa trên ta rút ra một số đặc điểm sau đây của khái niệm chất lượng:
 Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Nếu một sản phầm vì lý do nào
đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì phải bị coi là có chất lượng kém, cho
dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây là

13

một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính sách,
chiến lược kinh doanh của mình.
 Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn luôn biến
động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không gian,

điều kiện sử dụng.
 Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phải xét và chỉ xét đến mọi đặc
tính của đối tượng có liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Các
nhu cầu này không chỉ từ phía khách hàng mà còn từ các bên có liên quan, ví
dụ như các yêu cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội.
 Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các qui định, tiêu chuẩn
nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có
thể cảm nhận chúng, hoặc có khi chỉ phát hiện được trong chúng trong quá
trình sử dụng.
 Chất lượng không chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà ta vẫn hiểu
hàng ngày. Chất lượng có thể áp dụng cho một hệ thống, một quá trình.
Như vậy, có thể hiểu, chất lượng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt là
một khái niệm để chỉ mức độ các đặc tính của các sản phẩm, dịch vụ thanh toán không
dùng tiền mặt của Ngân hàng nhằm thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của khách
hàng. Đặc tính của từng loại hình sản phẩm, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
cần thỏa mãn được yêu cầu của khách hàng, cung cấp kịp thời và đảm bảo an toàn cho
hoạt động của Ngân hàng và khách hàng. Yêu cầu khách hàng ở đây phụ thuộc mục
đích tiêu dùng dịch vụ, thu nhập, trình độ nhận thức và hiểu biết của khách hàng.
Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt được coi là hàng hóa vô hình, đòi hỏi
một trình độ hiểu biết nhất định của cả Ngân hàng và khách hàng. Hơn nữa, để có thể
cung cấp được các sản phẩm thanh toán không dùng tiền mặt thì cần thiết phải có ứng
dụng của công nghệ. Chất lượng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt luôn cần
được duy trì và cải tiến.
1.2.2. Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt
Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay đã mở rộng, thị trường
thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng rộng lớn hơn đồng thời cũng làm tăng thêm
lượng cung trên thị trường. Khách hàng có quyền lựa chọn nhiều ngân hàng với nhiều
loai hình thanh toán không dùng tiền mặt một cách rộng rãi hơn. Cạnh tranh giữa các
Thang Long University Library


14

NHTM trong và ngoài nước ngày càng trở nên gay gắt. Vì vậy, việc nâng cao chất
lượng thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên cấp thiết.
 Khách hàng thường quyết định lựa chọn những loại hình thanh toán không
dùng tiền mặt phù hợp với sở thích, nhu cầu và khả năng, điều kiện sử dụng
của mình. Đồng thời cũng có sự so sánh các loại hình thanh toán cùng loại
giữa các Ngân hàng, khách hàng sẽ lựa chọn của Ngân hàng nào thỏa mãn
những mong đợi của họ ở mức cao hơn. Bởi vậy, nâng cao chất lượng thanh
toán không dùng tiền mặt dể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và đảm
bảo sự hài lòng cho khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng để nâng
cao sức cạnh tranh của các Ngân hàng.
 Khi một Ngân hàng có chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt tốt, đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng, sẽ tạo niềm tin cho khách hàng vào thương hiệu
cùa Ngân hàng. Nhờ đó, uy tín, hình ảnh, vị thế và thị phần của Ngân hàng
được nâng cao. Nâng cao vị thế của Ngân hàng trên thị trường nhờ chất lượng
thanh toán không dùng tiền mặt là cơ sở cho khả năng duy trì và mở rộng thị
phần trên thị trường, tạo sự phát triển lâu dài cho Ngân hàng
 Nâng cao chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt cũng là giải pháp quan
trọng để tăng lượng khách hàng của Ngân hàng, từ đó sẽ làm tăng doanh thu
và lợi nhuận cho mỗi Ngân hàng.
Như vậy, Ngân hàng muốn dành được tình cảm của khách hàng và thu hút đến
với các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của mình thì tất yếu phải nâng cao
chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt để tại nên những nét khác biệt nhất định,
tạo niềm tin và uy tín đối với khách hàng
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động không dùng tiền mặt
1.2.3.1. Chỉ tiêu định lượng
1.2.3.1.1. Chỉ tiêu về doanh số
Doanh số TTKDTM được đề cập đánh giá chất lượng hoạt động TTKDTM là số

tuyệt đối, phản ánh tổng giá trị thanh toán trong một kỳ (thường là 01 năm). Khi xem
xét chỉ tiêu này chúng ta không xem xét trong từng thời kì riêng rẽ mà xem xét trong
một quá trình, trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ số này phản
ánh tốt nhất thực tế chất lượng của hoạt động TTKDTM. Nếu doanh số TTKDTM thấp
cho thấy hoạt động của TTKDTM của ngân hàng có chất lượng không tốt và ngược
lại.

15

1.2.3.1.2. Chỉ tiêu về số lượng tài khoản thanh toán
Số lượng tài khoản thanh toán: Đây cũng là một chỉ tiêu để phản ánh chất lượng
của hoạt động TTKDTM, nó phần nào phản ánh được số lượng khách hàng TTKDTM
của ngân hàng. Số lượng tài khoản thanh toán nhiều thì tốt nhưng nếu nhiều mà giá trị
thanh toán trên một tài khoản nhỏ thì cũng không phản ánh được chất lượng.
1.2.3.1.3. Chỉ tiêu về số lượng các loại hình dịch vụ
Số lượng các loại hình dịch vụ cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất
lượng hoạt động TTKDTM của NHTM. Nếu số lượng các loại hình dịch vụ nhiều thì
khách hàng sẽ có nhiều lựa chọn để chọn được loại hình thanh toán phù hợp với nhu
cầu của bản thân. Qua đó, khách hàng sẽ thấy chất lượng hoạt động TTKDTM của
ngân hàng tốt.
1.2.3.1.4. Chỉ tiêu về phí suất
Đối với khách hàng, khi mà điều kiện thanh toán của các ngân hàng là như nhau
thì chỉ tiêu phí suất: “là số tiền mà khách hàng phải trả trên mỗi món thanh toán” cũng
sẽ là tiêu chí được khách hàng đặt ra để lựa chọn ngân hàng mà mình thực hiện giao
dịch thanh toán. Để thu hút khách hàng thì phí suất thanh toán phải thấp.
1.2.3.2. Chỉ tiêu định tính
Về chỉ tiêu định tính, có thể đánh giá chất lượng hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt qua 3 yếu tố là: Mức độ hài lòng của khách hàng; thái độ của cán bộ,
nhân viên và cơ sở hạ tầng của Ngân hàng.
 Bất kỳ một loại sản phẩm dịch vụ nào cũng nhằm để cung ứng và thỏa mãn

các nhu cầu khác nhau của khách hàng. Khác với sản phẩm vật chất, khách
hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng không thể cầm, nắm hay cất giữ mà chỉ có
thể trải nghiệm bằng cách sử dụng dịch vụ. Ngày nay, nhờ vào nền kinh tế thị
trường, khách hàng thật dễ dàng có được sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà
mình muốn. Vì vậy, giá trị kì vọng của khách hàng vào các sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng ngày càng tăng cao và yêu cầu đối với nhà cung cấp dịch vụ ngày
một lớn. Nếu mức độ hài lòng của khách hàng càng cao thì chứng tỏ chất
lượng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của Ngân hàng
ngày càng tốt và ngược lại.
 Nếu thái độ phục vụ của cán bộ, nhân viên ngân hàng càng nhiệt tình, nghiêm
túc thì sẽ làm cho khách hàng hài lòng dẫn đến việc thu hút khách hàng
Thang Long University Library

16

thường xuyên tham gia thanh toán không dùng tiền mặt giữa các tài khoản với
nhau và ngược lại.
 Cơ sở hạ tầng hiền đại, văn minh an toàn làm tăng tốc độ giao dịch giữa các tài
khoản với nhau, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các chủ tài khoản. Các cuộc
giao dịch diễn ra nhanh chóng, thuận tiện, chính xác làm khách hàng ngày
càng yêu thích hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và ngược lại.
Như vậy, khi đánh giá chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt, ta không thể
căn cứ vào một tiêu chí cụ thể mà phải xem xét một hệ thống các tiêu chí trên để phân
tích cả hai mặt định tính và định lượng, cả về lợi nhuận thuần túy và lợi ích xã hội, cả
trên quan điểm của khách hàng và quan điểm của Ngân hàng. Có như vậy việc đánh
giá mới thực sự khách quan, chính xác phản ánh đúng thực trạng để từ đó phân tích
nguyên nhân, tìm ra giải pháp tháo gỡ khó khăn một cách hiệu quả.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động thanh toán không dùng
tiền mặt
Việc nâng cao chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt có liên quan đến nhiều

nhân tố bao gồm các nhân tố chủ quan từ phía Ngân hàng và các yếu tố từ phía khách
hàng.
1.2.4.1. Các nhân tố chủ quan từ phía Ngân hàng
1.2.4.1.1. Khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của cán bộ Ngân hàng
Thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những nghiệp vụ mới phát triền
gần đây của nước ta nên nó đòi hỏi người cán bộ ngân hàng phải năm bắt được thông
tin thị trường và thị hiếu khách hàng. Vì thực tế việc thanh toán không dùng tiền mặt
hiện đang gặp khó khăn trước mắt do truyền thống người Việt thích sử dụng tiền mặt
hơn.
Để ngày càng có nhiều khách hàng sử dụng các hình thức thanh toán không dùng
tiền mặt thì các cán bộ nhân viên (CBNV) ngân hàng phải dựa vào các mối quan hệ để
tuyên truyền vận động sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tìm hiểu
xem khách hàng hài lòng về mặt nào, không hài lòng ở điểm nào để có thể đưa ra
những chính sách thích hợp.
Hiện nay ngoài trình độ và kinh nghiệm ra thì vấn đề đạo đức của cán bộ ngân
hàng cũng được đề cao rất nhiều bởi công việc của cán bộ ngân hàng có liên quan đến
tình hình phát triển của ngân hàng và nền kinh tế.

17

1.2.4.1.2. Chính sách lãi suất
Xét cho cùng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đều là những hình
thức huy động vốn của các Ngân hàng. Mà khi huy động vốn thì phải trả lãi suất cho
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Trong cơ chế thị trường thì lãi suất luôn biến
động, phụ thuộc vào cung - cầu trên thị trường. Do đó, phải có một chính sách lãi suất
phù hợp để có thể thu hút, hấp dẫn khách hàng tham gia vào các hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt.
1.2.4.1.3. Công tác tổ chức hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.
Việc tổ chức các hoạt động thanh toán không dùng tiền phụ thuộc vào các yếu tố
như quy mô Ngân hàng, quy mô các tài khoản đăng kí Nhân viên ngân hàng thường

xuyên tiếp xúc trực tiếp với các chủ tài khoản và những người thụ hưởng, phỏng vấn
rất nhiều đối tượng khách hàng. Có thể thành lập một ủy ban xử lý các yêu cầu của
khách hàng đến một mức độ nhất định. Công tác thu thập xử lý thông tin cũng được
thực hiện một cách nhanh chóng, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và
cán bộ ngân hàng. Tại các Ngân hàng chi nhánh, công tác tổ chức hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt về cơ bản cũng giống như tại các ngân hàng TW, nhất là các
chi nhánh lớn chỉ khác là có các quyết định cuối cùng dành cho giám đốc mỗi chi
nhánh và mỗi chi nhánh có thể được chuyên môn hóa theo địa bàn hay đối tượng.
Cách tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại các chi nhánh cũng có thể phụ thuộc
nhiều vào cách tổ chức của Ngân hàng cấp TW.
1.2.4.1.4. Chi phí lập các tài khoản tại các Ngân hàng
Tâm lý người Việt Nam luôn ưa thích đồ rẻ tiền nhưng chất lượng nên nếu các
ngân hàng cạnh tranh với nhau, ngân hàng nào có chi phí thành lập tài khoản thấp thì
sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. Vì vậy ngân hàng sẽ phải cố gắng hạ chi phí
lập tài khoản đến mức thấp nhất mà vẫn có lợi cho cả hai bên.
1.2.4.1.5. Mức độ an toàn, tiện lợi của thanh toán không dùng tiền mặt
Thanh toán không dùng tiền mặt thực ra là thay thế một khoản tiền trong giao
dịch hay lưu thông bằng một tờ giấy hay một tấm card. Nên độ an toàn rất cao, tránh bị
mất mát do những vấn đề nảy sinh khi đang trong quá trình vận chuyển. Giảm mức độ
cồng kềnh nặng nề của những công việc đòi hỏi quá nhiều tiền mặt. Nếu khách hàng
có mất mát khi sử dụng card, séc thì khả năng phục hồi lại tài sản tiền rất cao vì việc
thanh toán thực hiện trên máy tính công nghệ cao rất an toàn tiện lợi.
Thang Long University Library

18

1.2.4.1.6. Phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ thanh toán
Trong những năm gần đây, sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo ra một
bước đột phá trong lĩnh vực thanh toán, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của hệ
thống thanh toán qua ngân hàng. Không ai có thể phủ nhận đóng góp của nền khoa học

kỹ thuật đối với lĩnh vực đời sống nói chung và lĩnh vực thanh toán của Ngân hàng nói
riêng. Hầu như các NHTM hiện nay đều có thể đáp ứng một các nhanh chóng và chính
xác nhu cầu thanh toán của khách hàng thông qua mạng điện tử Internet toàn cầu.
Kỹ thuật công nghệ là sức mạnh mãnh liệt nhất trong hoạt động TTKDTM của
ngân hàng. Nó đã đem đến những điều kì diệu của nghiệp vụ thanh toán như chuyển
tiền nhanh, máy gửi, rút tiền tự động ATM, thanh toán tự động, card điện tử, ngân
hàng tự động, ngân hàng Internet Việc thay thế các chứng từ giấy bằng các chứng từ
điên tử đã mang lại những cải biến rõ rệt về thời gian thanh toán, khối lượng thanh
toán và chất lượng thanh toán. Quá trình thanh toán được đảm bảo an toàn, chính xác,
nhanh chóng kịp thời sẽ khiến dân cư và các tổ chức kinh tế tích cực tham gia hoạt
động thanh toán qua ngân hàng
1.2.4.1.7. Tổ chức mạng lưới cung cấp dịch vụ thanh toán
Nếu các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có mạng lưới rộng khắp
cả nước sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân
đến giao dịch thanh toán. Nói cách khác, với mạng lưới chân rết càng rộng NHTM sẽ
thực hiện chức năng trung gian thanh toán của mình một các dễ dàng và chính xác
hơn. Đồng thời với chính sách đa dạng hóa sản phẩm sẽ giúp ngân hàng đạt được mục
tiêu an toàn, sinh lợi. Khách hàng được cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích sẽ
tích cực tham gia sử dụng TTKDTM.
Kinh doanh các dịch vụ mới với mạng lưới rộng khắp sẽ tăng thu nhập cho các
ngân hàng từ việc thu phí dịch vụ. Trên cơ sở đó ngân hàng có thể giảm phí suất thanh
toán, tạo điều kiện cạnh tranh và do vậy khuyến khích hoạt động TTKDTM phát triển
mạnh mẽ.
1.2.4.2. Các nhân tố từ phía khách hàng
1.2.4.2.1. Trình độ dân trí
Khi trình độ dân trí của một nước lạc hậu thấp kém, người dân sẽ khó nắm bắt
được các lợi ích của TTKDTM, họ chỉ thanh toán bằng tiền mặt là chủ yếu. Với các
hình thức thanh toán hiện đại, phức tạp với trình độ thấp, không có người hướng dẫn
tận tình thì khách hàng sợ sai sot, nhầm lẫn rồi mất tiền. Ở nước ta, nền kinh tế đang
trên đà phát triển, nhưng vẫn còn nhiều địa phương có kinh tế nghèo nàn, đời sống khó


19

khăn, nên công tác TTKDTM đa số chỉ áp dụng giữa các tổ chức kinh tế, các doanh
nghiệp mà chưa phổ biến nhiều trong dân cư.
1.2.4.3. Yếu tố thu nhập
Yếu tố thu nhập cũng là một yếu tố ảnh hưởng nhiều đến chất lượng TTKDTM.
Hiện nay, đa phần các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
TTKDM, còn về phía khách hàng cá nhân thì đối với những người có thu nhập cao thì
mới có khả năng tham gia vào các dịch vụ như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, séc bảo chi
Vậy nên việc tham gia sử dụng các hoạt động TTKDTM còn hạn chế nhiều đối với các
khách hàng cá nhân có mức thu nhập thấp. Các NHTM nên xem xét, bổ sung thêm các
loại hình thanh toán mà những người thu nhập thấp có thể tham gia.
1.2.4.3.1. Yếu tố tâm lý
Tâm lý của người dân từ trước đến nay vẫn quen thanh toán bằng tiền mặt làm
hạn chế đáng kể đến hoạt động TTKDTM. Qua những năm dài bao cấp, kinh tế trì trệ,
lạm phát cao đồng tiền mất giá nhanh nên người dân có tâm lý giữ tiền mặt, hoặt gửi
ngân hàng thì gửi ngắn hạn gây khó khăn cho việc tận dụng tiền gửi thanh toán để đầu
tư dài hạn.
Vì vậy mà ngân hàng luôn phải nâng cao chất lượng cán bộ về mọi mặt, thực
hiện tuyên truyền quảng cáo các tiện ích của TTKDTM cho người dân, có như vậy
mới xóa dần tâm lý ưa chuộng tiền mặt và thúc đẩy hoạt động TTKDTM.
1.2.4.4. Các nhân tố khách quan
1.2.4.4.1. Môi trường kinh tế - xã hội
Môi trường kinh tế xã hội là tổng hòa các mối quan hệ về kinh tế và xã hội tác
động lên hoạt động của Ngân hàng.
Môi trường kinh tế thuận lợi sẽ tạo điều kiện tốt cho hoạt động của Ngân hàng
đồng thời tạo điều kiện phát triển chung cho nền kinh tế và ngược lại.
Chu kì kinh tế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động của thanh toán
không dùng tiền mặt. Ví dụ, trong thời kỳ lạm phát thì lãi suất thực tế sẽ giảm xuống

và nếu Ngân hàng không kịp thời phản ứng thì sẽ không đem lại hiệu quả cho cả Ngân
hàng và chủ nhân các tài khoản như mong đợi. Có thể thấy công tác dự báo tình hình
kinh tế là vô cùng quan trọng, nó chính là các biện pháp ứng phó với các tình huống có
thể xảy ra của khách hàng cũng như Ngân hàng để đảm bảo lợi ích cho đôi bên.
Thang Long University Library

20

1.2.4.4.2. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý chính là hành lang pháp luật để đảm bảo các hoạt động luôn
nằm trong giới hạn cho phép của pháp luật, nó cũng góp phần tạo nên hiệu quả cho
khách hàng và Ngân hàng. Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ thống nhất và ổn
định sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng trong việc thực hiện các quy trình thanh toán
không dùng tiền một cách chính xác và nhanh chóng. Việc luôn thay đổi các chính
sách, sự thiếu chặt chẽ trong các quy định của pháp luật, rồi các quy định chồng chéo
lên nhau là những nguyên nhân gây ra khó khăn cho các hoạt động của cả khách hàng
và Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, pháp luật đã
trở thành bộ phận không thể thiếu. Với vai trò hướng dẫn và tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế trong xã hội hoạt động theo trật tự, trong khuôn khổ pháp luật, đảm
bảo sự công bằng an toàn và hiệu quả đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng
bộ, chặt chẽ và thống nhất.
1.2.4.4.3. Môi trường chính trị - xã hội
Môi trường chính trị xã hội ổn định sẽ là một nhân tố quan trọng thuc đẩy nền
kinh tế phát triển. Tình hình chính trị - xã hội không ổn định (chiến tranh giữa các
Đảng phái, thế lực trong xã hội; các cuộc bãi công, đình công của công nhân ) sẽ dẫn
đến sự sụt giảm mọi hoạt động của nền kinh tế nói chung và hoạt động của thanh toán
không dùng tiền mặt nói riêng (như hỏng máy móc, trang thiết bị, trao đổi thông tin bị
sai lệch ). Môi trường chính trị - xã hội không ổn định làm mất lòng tin của dân
chúng và ngành ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn.



21

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chương 1 đã làm rõ cơ sở lý luận về chất lượng hoạt động TTKDTM của Ngân
hàng Thương mại. Nội dung chương 1 đã nêu rõ vai trò của hoạt động TTKDTM trong
nền kinh tế, đồng thời cũng cho biết ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng hoạt động
TTKDTM và chỉ ra các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của hoạt động TTKDTM, cho
chúng ta thấy sự ảnh hưởng của TTKDTM đối với NHTM nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Từ đây biết được vai trò và tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng hoạt
động TTKDTM của các NHTM. Hay nói cách khác là các NHTM sẽ quan tâm tới việc
nâng cao chất lượng hoạt động TTKDTM, đây cũng là cơ sở để khóa luận đi sâu, làm
rõ thực trạng về chất lượng hoạt động TTKDTM của chi nhánh SHB Hòn Gai - Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn - Hà Nội.

Thang Long University Library

22

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN - HÀ NỘI (SHB) – CHI NHÁNH HÒN GAI
2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội
13/11/1993: Ngân hàng TMCP Nông thôn Nhơn Ái (Tiền thân của Ngân hàng
thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB)) được thành lập theo giấy phép số
0041/NN/GP ngày 13/11/1993 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp và
chính thức đi vào hoạt động ngày 12/12/1993.
20/01/2006: Thống đốc NHNN Việt Nam đã ký quyết định số 93/QĐNHNN
chấp thuận cho SHB chuyển đổi mô hình từ Ngân hàng TMCP Nông thôn sang Ngân

hàng TMCP đô thị, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của SHB, từ đó tạo thuận
lợi cho ngân hàng có điều kiện nâng cao năng lực tài chính, mở rộng mạng lưới hoạt
động kinh doanh, đủ sức cạnh tranh và phát triển, đánh dấu một giai đoạn phát triển
mới của SHB và đây là Ngân hàng TMCP đô thị đầu tiên có trụ sở chính tại thành phố
Cần Thơ, trung tâm tài chính - tiền tệ của khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
22/07/2008: NHNN đã ký quyết định chấp thuận việc Ngân hàng TMCP Sài Gòn
- Hà Nội chuyển địa điểm đặt trụ sở chính từ Cần Thơ ra Hà Nội. Ngày 09/09/2008,
SHB đã long trọng tổ chức lễ khai trương trụ sở mới tại số 77 Trần Hưng Đạo, quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội. Việc đặt trụ sở chính tại Hà Nội sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho
SHB tiếp cận với các cơ hội phát triển và nâng cao vị thế của mình khi đây là trung
tâm kinh tế, tài chính, chính trị của cả nước và là nơi hội tụ nhiều tổ chức kinh tế, tài
chính hàng đầu trong và ngoài nước. Đồng thời đây cũng là mốc đánh dấu bước ngoặt
mới của SHB từ sau chuyển đổi Ngân hàng TMCP nông thôn lên đô thị, tạo một bước
tiến đầu tiên trong mục tiêu trở thanh tập đoàn tài chính đa năng vào năm 2015.
20/04/2009: 50 tỷ cổ phiếu phổ thông của SHB đã chính thức chào sàn tại Sở
Giao dịch chứng khoán thành phố Hà Nội với mã chứng khoán là SHB.
06/08/2009: Niêm yết bổ sung 150 tỷ cổ phiếu phổ thông của SHB lên sàn giao
dịch chứng khoán tại Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hà Nội.
2010: SHB phát hành thành công 150 tỷ cổ phiếu tăng vốn điều lệ lên 3.497,5 tỷ
đồng và chính thức triển khai hệ thống CoreBanking mới Intellect.
2011: SHB chuyển đổi thành công 1.500 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi để nâng
vốn điều lệ lên 4.815,8 tỷ đồng và vinh dự đón nhận Huân chương lao động hạng Ba
của Chủ tịch nước, bằng khen của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

23

2012: SHB đã thực hiện sáp nhập Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank)
đồng thời mở chi nhánh nước ngoài tại Campuchia và Lào, SHB được NHNN xếp loại
A thuộc Ngân hàng Nhóm 1 - Nhóm cao nhất.
2013: SHB kỷ niệm 20 năm ngày thành lập và vinh dự đón nhận huân chương

lao động Hạng Nhì của Chủ tịch nước ghi nhận những đóng góp của SHB đối với
ngành Ngân hàng nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung.
Sau hơn 20 năm xây dưng, phát triển và trường thành, SHB luôn nỗ lực không
nhừng để mang đến cho quý khách hàng các dịch vụ ngân hàng với chất lượng tốt nhất
và phong cách phục vụ chuyên nghiệp nhất. Với quyết tâm trở thành một Ngân hàng
bán lẻ hiện đại, đa năng hàng đầu Việt Nam và là một Tập đoàn tài chính năm 2015.
hiện tại SHB có 240 chi nhánh và phòng giao dịch trên các tỉnh thành trong nước
và 02 chi nhánh quốc tế tại Campuchia và Lào.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy
 Đội ngũ cán bộ:
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công
của Chi nhánh. Tính đến 31/12/2013, tổng số CBNV Chi nhánh là 177 người, trong đó
nữ chiếm 69,5% lao động toàn Chi nhánh. Cơ cấu lao động trẻ với tuổi đời bình quân
là 30 tuổi; nguồn lao động có trình độ cao, trong đó tỷ lệ lao động có trình độ từ đại
học trở lên chiếm 93,8% tổng lao động toàn Chi nhánh. Để phát huy năng lực của
người lao động, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, Chi nhánh luôn
quan tâm đến công tác nhân sự từ khâu tuyển dụng lao động chất lượng đến việc phân
công, bố trí công việc hợp lý, phù hợp với trình độ và thường xuyên tổ chức các kì thi
nghiệp vụ, tạo điều kiện cho người lao động tham gia các lớp tập huấn, đào tạo để trau
dồi kiến thức, nâng cao trình độ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công việc.
 Cơ cấu các phòng ban chức năng:
Triển khai theo chương trình hiện đại hóa ngân hàng, Chi nhánh SHB Hòn Gai
bao gồm 12 phòng, cụ thể: Phòng Tài trợ Thương Mại, Phòng khách hàng số 1, Phòng
khách hàng số 2, Phòng khách hàng cá nhân, Phòng thông tin điện toán, Phòng tổ chức
hành chính, Phòng tiền tệ kho quỹ, Phòng kiểm tra nội bộ, Phòng tổng hợp tiếp thị,
Phòng kế toán hành chính, Phòng giao dịch.
Thang Long University Library

24


Phó Giám đốc 4
Giám đốc
Phòng Khách hàng
số 1
Phòng Tổ chức -
Hành chính
Phó Giám đốc 1
Phó Giám đốc 2
Phó Giám đốc 3
Phòng
Kế toán
Phòng
TT-ĐT
Phòng
Kho quỹ
Phòng
Khách
hàng số 2
Phòng
Giao dịch
Phòng
KHCN
Phòng
Tài trợ
thương
mại
Phòng
Tổng hợp
tiếp thị


Sơ đồ 2.1. Cơ cấu tổ chức Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội - Chi nhánh Hòn Gai
(((((((((Nguồn: Báo cáo của phòng Tổ chức - Hành chính năm 2013)

25

Phòng Kế toán Hành chính
Phòng kế toán hành chính là phòng nghiệp vụ giúp cho giám đốc thực hiện công
tác quản lý tài chính và thực hiện nhiệm vụ chỉ tiêu nội bộ tại chi nhánh theo đúng quy
định của nhà nước của Ngân hàng TMCP.
Phòng Tài trợ Thương mại
Là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện nghiệp vụ về tài trợ thương mại tại chi
nhánh theo quy định của Ngân hàng TMCP Việt Nam.
Phòng khách hàng số 1 (DNL)
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp lớn,
để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ; xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay,
quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của
NH TMCP Việt Nam.
Phòng khách hàng số 2 (DN V&N)
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ; xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho
vay, quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn
của NH TMCP Việt Nam.
Phòng khách hàng cá nhân
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân để huy
động vốn bằng VNĐ và ngoại tệ; xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lý
các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NH
TMCP Việt Nam.
Phòng thông tin điện toán
Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh.
Bảo trì, bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy

tính của chi nhánh.
Phòng Tổ chức Hành chính
Phòng Tổ chức Hành chính là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ
và đào tạo tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định
của NH TMCP Việt Nam.
Thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi
nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh an toàn Chi nhánh.
Thang Long University Library

×