Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

luận văn thạc sĩ Giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả dịch vụ thanh toán tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 93 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên
cứu khoa học độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Thị Thanh Mai
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMNN : Ngân hàng thương mại nhà nước
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTW : Ngân hàng trung ương
BIDV, NHĐT&PTVN : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
VND : Đồng Việt Nam
USD : Đồng Đô la Mỹ
POS : Điểm chấp nhận thẻ
ATM : Máy rút tiền tự động
DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI CAM ĐOAN 1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức
Thương mại thế giới WTO. Những cam kết quốc tế của Việt Nam trong việc
mở cửa thị trường tài chính – ngân hàng đòi hỏi các Ngân hàng thương mại
Việt Nam phải nhanh chóng chuyển mình, hội nhập, đổi mới phương thức
kinh doanh. Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra ngày càng mạnh mẽ
thể hiện không chỉ ở những nghiệp vụ ngân hàng truyền thống mà còn ở
những dịch vụ thanh toán mới cho khách hàng. Tổ chức thanh toán nhanh


chóng, kịp thời, chính xác, an toàn, thuận tiện sẽ làm cho vốn của các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế quay vòng nhanh, đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản
xuất kinh doanh, giảm được lượng tiền mặt lưu thông ngoài ngân hàng, góp
phần ổn định tiền tệ, thúc đẩy sản xuất phát triển. Những năm qua, hoạt động
thanh toán của các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã có nhiều chuyển biến
mạnh mẽ, các phương tiện thanh toán mới ra đời từng bước đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế. Trong đó, phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
đã thực sự được các cấp quản lý vĩ mô quan tâm bằng chương trình, định
hướng cụ thể, được Chính phủ đưa vào Nghị quyết.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại đang trong quá trình đẩy mạnh
việc hiện đại hoá hoạt động, áp dụng những công nghệ kỹ thuật tiên tiến,
phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Trong xu thế đó, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam đang cố gắng tìm giải pháp hữu hiệu để phát triển và
nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là sản phẩm dịch vụ thanh
toán. Bởi vì, dịch vụ thanh toán là một trong những sản phẩm dịch vụ cơ
bản của ngành ngân hàng và một nền kinh tế phát triển nhanh và mạnh
không thể thiếu một hệ thống thanh toán hiện đại. Do vậy, đề tài: “Giải
pháp phát triển và nâng cao hiệu quả dịch vụ thanh toán tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu là cần
1
thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của Luận văn
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ thanh toán của
Ngân hàng thương mại.
- Phân tích thực trạng phát triển dịch vụ thanh toán tại Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam, chỉ rõ kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả dịch
vụ thanh toán tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Trong thời gian cho phép, luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý

luận cơ bản về dịch vụ thanh toán tại ngân hàng thương mại. Đồng thời đi vào
phân tích tình hình thực tế phát triển và nâng cao hiệu quả dịch vụ thanh toán
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và đề xuất các giải pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, phương pháp phân tích - tổng hợp - thống kê, kế thừa một số nghiên cứu
đã có, đồng thời khảo sát thực nghiệm thu thập thông tin, tài liệu phục vụ cho
việc nghiên cứu.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, Luận văn được kết cấu theo 3
chương:
Chương 1: Tổng quan về dịch vụ thanh toán tại Ngân hàng thương mại
Chương 2: Tình hình phát triển và nâng cao hiệu quả dịch vụ thanh
toán tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả dịch vụ thanh
toán tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng 10 bảng và 9 biểu đồ để minh hoạ cho
nội dung liên quan.
2
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Tiền tệ được coi là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh
toán cho hàng hóa, dịch vụ hoặc trong việc trả các món nợ. Các-Mác cho
rằng: “ Tiền là một vật được kết tinh, hình thành một cách tự nhiên trong trao
đổi”. Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi khi nó xuất hiện trong
lưu thông với tư cách là tiền mặt. Ngày nay, hầu hết các giao dịch trên thị
trường trong nền kinh tế của chúng ta, tiền trong dạng tiền mặt hoặc séc là
phương tiện trao đổi, có nghĩa là nó được dùng thanh toán hàng hóa dịch vụ
trong đời sống kinh tế xã hội. Các chức năng và các dạng của tiền được thể

hiện rõ nét qua sự tiến triển của hệ thống thanh toán hay nói cách khác đi là
của phương thức hướng dẫn các giao dịch trong nền kinh tế.
Thanh toán đơn giản là một thuật ngữ ngắn gọn mô tả việc chuyển giao
các phương tiện tài chính từ chủ thể này sang chủ thể khác. Chủ thể phải
thanh toán có thể sử dụng các quỹ (dưới hình thức tiền mặt, một tài khoản tiền
gửi, một hạn mức tín dụng hay các hình thức khác) là tiền đề cho việc thực
hiện thanh toán.
Hơn nữa, khi nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ, lưu thông
không ngừng gia tăng về khối lượng, mở rộng về phạm vi và đa dạng hóa về
mối quan hệ. Ngoài quan hệ hai bên mua bán còn xuất hiện bên thứ ba trung
gian là các ngân hàng và các tổ chức được phép cung cấp dịch vụ thanh toán.
Trong đó, thanh toán qua ngân hàng bao gồm hai bộ phận: Thanh toán bằng
tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt.
1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN BẰNG TIỀN MẶT
1.1.1. Thanh toán bằng tiền mặt tại các chi nhánh ngân hàng
Tại các ngân hàng cơ sở, hoạt động thu chi tiền mặt đối với khách hàng
diễn ra thường xuyên.
3
Thông thường, các doanh nghiệp và cá nhân chỉ giữ một lượng tiền mặt
đủ để chi dùng theo nhu cầu của họ, số còn lại họ gửi vào ngân hàng và khi
phát sinh nhu cầu tiền mặt họ lại đến ngân hàng rút tiền. Các doanh nghiệp, cá
nhân có thể thanh toán công nợ cho nhau bằng cách mang tiền mặt tới ngân
hàng nộp vào tài khoản của người bán.
1.1.2. Thanh toán tiền mặt trong hệ thống ngân hàng
Các chi nhánh ngân hàng trong cùng một hệ thống ngân hàng, khi có
nhu cầu tiền mặt phải thông qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng trung ương
(NHTW). Ngân hàng nào có tiền mặt tạm thời thừa thì gửi vào tài khoản tiền
gửi tại NHTW. Khi có nhu cầu tiền mặt thì làm thủ tục để rút tiền mặt tại
NHTW hoặc xin vay NHTW bằng tiền mặt nếu tài khoản tiền gửi không đủ
số dư.

Thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng là hình thức thanh toán phải
qua quy trình thu- chi trong đó, thủ quỹ và khách hàng phải phân loại, lập
bảng kê và kiểm đếm số lượng và chất lượng tiền mặt của khách hàng nộp
hoặc rút ra.
Có thể thấy dịch vụ thanh toán bằng tiền mặt tốn nhiều thời gian và
công sức cho việc kiểm đếm, đóng bó tiền mặt. Với những giao dịch với giá
trị thanh toán lớn mà thanh toán bằng tiền mặt sẽ tốn rất nhiều thời gian,
công sức, khó chính xác, hiệu quả kinh tế không cao Mặt khác, thanh toán
bằng tiền mặt bị hạn chế không những về mặt thời gian mà cả về không gian.
Ngoài ra, thanh toán bằng tiền mặt còn tạo điều kiện cho nạn tiền giả, buôn
gian bán lận, trốn lậu thuế, tham nhũng, rửa tiền Khi thị trường dịch vụ ngân
hàng bán lẻ chưa phát triển, dịch vụ thanh toán chưa tiên tiến, nhiều tiện ích
hấp dẫn khách hàng, thói quen tiêu dùng tiền mặt còn phổ biến thì bộ máy
thực hiện dịch vụ thanh toán bằng tiền mặt của ngân hàng còn lớn và chi phí
còn cao.
Xu thế hội nhập kinh tế đòi hỏi việc ra đời các phương tiện thanh toán
4
hiện đại với nhiều tiện ích đáp ứng nhu cầu giao dịch một cách “chính xác –
nhanh chóng – an toàn” ngày càng mang tính cấp thiết. Do đó, thanh toán
bằng tiền mặt sẽ ít được sử dụng và hạn chế tối đa. Các phương tiện thanh
toán không dùng tiền mặt – gọi chung là sản phẩm dịch vụ thanh toán sẽ
ngày càng phát triển là tất yếu.
1.2. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG
TIỀN MẶT
1.2.1. Khái niệm
Thanh toán không dùng tiền mặt (viết tắt là TTKDTM) là cách thức
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ không có sự xuất hiện của tiền mặt mà được
tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của người phải trả chuyển vào tài
khoản của người thụ hưởng hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò
trung gian của Ngân hàng thương mại.

Xét về bản chất, TTKDTM phản ánh sự vận động của vât tư hàng hóa,
dịch vụ trong lưu thông. Do nền kinh tế phát triển mạnh, khối lượng lưu thông
hàng hóa ngày càng lớn và rộng khắp thì TTKDTM là yêu cầu tất yếu. Sự
phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hóa tất yếu phải có cách thức trả tiền
thuận tiện, an toàn và tiết kiệm.
Bên cạnh đó, TTKDTM còn gắn liền với sự phát triển của hệ thống
kênh phân phối dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, cơ quan
Nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân mở tài khoản tiền gửi và thanh toán
tiền hàng dịch vụ thông qua việc trích chuyển tài khoản trong hệ thống này.
Tóm lại, TTKDTM ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan của sản
xuất và lưu thông hàng hóa; của các mối quan hệ kinh tế diễn ra thường xuyên
phức tạp. Nó đã đáp ứng được những yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.
1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng tiền chuyển khoản
(còn gọi là tiền ghi sổ, bút tệ)
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của TTKDTM, việc thanh toán được thực
hiện bằng cách trích từ tài khoản của người trả tiền vào tài khoản của người
thụ hưởng tại ngân hàng thương mại, Kho bạc Nhà nước dựa trên cơ sở các
5
chứng từ hợp lệ hay bằng cách bù trừ lẫn nhau.
Thứ hai, trong TTKDTM, mỗi tài khoản thanh toán ít nhất có 3 bên
tham gia, đó là: người trả tiền, người thụ hưởng và các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán.
- Người trả tiền có thể là người mua hàng, nhận dịch vụ, người nộp
thuế, trả nợ hoặc là người chuyển nhượng một khoản tiền nào đó cho người
khác do thiện chí hay do luật định. Người trả tiền đóng vai trò quyết định
trong quá trình thanh toán. Có thể họ là người mở đầu hoặc tiếp nối trong quá
trình thanh toán đã được người thụ hưởng khởi xướng trước. Người trả tiền có
nhiệm vụ phải trả đúng hạn số tiền phải trả và phải tôn trọng những thủ tục
cần thiết như lập và nộp chứng từ theo mẫu quy định và theo những thời hạn

quy định hoặc được thỏa thuận trước. Người trả tiền có quyền từ chối thanh
toán nếu các chủ thể khác vi phạm những cam kết hay những quy định đã
thỏa thuận giữa hai bên.
- Người thụ hưởng là người được một khoản tiền nào đó do đã giao
hàng, cung ứng dịch vụ hay do luật định hoặc do thiện chí của người khác.
Đối với người thụ hưởng là người bán hàng hay cung ứng dịch vụ cơ sở
để nhận tiền là các chứng từ hay hóa đơn giao hàng. Trong trường hợp người
thụ hưởng với tư cách là tổ chức tài chính, cơ sở nhận tiền là những quy định,
lệnh điều chuyển của cấp trên. Trường hợp người thụ hưởng là chủ nợ thì cơ
sở để nhận tiền là các hợp đồng hay khế ước vay nợ.
- Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán là Ngân hàng Trung Ương,
Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán.
Thứ ba, Chứng từ thanh toán
Chứng từ thanh toán là các phương tiện chuyển tải những điều kiện
thanh toán và được sử dụng làm căn cứ thực hiện việc chi trả. Chứng từ thanh
toán gồm lệnh thu, lệnh chi do chính người thụ hưởng hay người trả tiền lập
ra. Tuy theo từng hình thức thanh toán cụ thể mà các chứng từ trả tiền lập ra.
6
Tùy theo từng hình thức thanh toán cụ thể mà các chứng từ thanh toán có
những mức độ phức tạp khác nhau. Những nội dung cơ bản trên chứng từ
thường là: tên, địa chỉ người trả tiền và người thụ hưởng; số tiền; lý do trả
tiền; chữ ký và dấu (đối với pháp nhân) của chủ tài khoản và kế toán trưởng.
1.2.3. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt hiện hành
1.2.3.1. Thanh toán bằng Séc
Séc là phương tiện thanh toán do người ký phát lập dưới hình thức
chứng từ theo mẫu in sẵn, lệnh cho người thực hiện thanh toán trả không điều
kiện một số tiền nhất định cho người thụ hưởng có tên trên tờ séc hoặc người
cầm séc.
Séc là phương tiện TTKDTM ra đời sớm và từ lâu đã được sử dụng
rộng rãi cho các thanh toán trong nước và quốc tế. Quy tắc sử dụng Séc đã

dược chuẩn hóa trên luật thương mại quốc gia và trên công ước Quốc tế. Các
quốc gia căn cứ vào đó để xây dựng các văn bản luật và dưới luật liên quan
đến séc.
Các bên liên quan đến séc gồm có: người ký phát, người thụ hưởng,
người thực hiện thanh toán, người thu hộ.
Đặc điểm của séc là có tính thời hạn, chỉ có giá trị thanh toán trong thời
gian có hiệu lực được quy định và tùy theo từng tiêu thức mà séc được phân
chia thành nhiều loại.
Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng, séc có các loại: séc ký danh, séc
vô danh, séc theo lệnh.
Căn cứ vào nội dung thanh toán, séc có các loại: séc lĩnh tiền mặt, séc
chuyển khoản, séc bảo chi.
- Séc lĩnh tiền mặt: là loại séc chỉ dùng để rút tiền mặt tại ngân hàng
nơi khách hàng mở tài khoản.
- Séc chuyển khoản là séc mà người ký phát séc trực tiếp giao cho
7
người thụ hưởng ngay sau khi nhậ được hàng hóa dịch vụ. Người thụ hưởng
sẽ nộp tờ séc vào ngân hàng phục vụ mình để được thanh toán. Ngân hàng
phục vụ người thụ hưởng sẽ co trách nhiệm chuyển tờ séc tới ngân hàng phát
hành. Trên cơ sở tờ séc hợp lệ, ngân hàng phát hành sẽ trích nợ tài khoản của
người phát hành, chuyển tới ngân hàng thụ hưởng để ghi có vào tài khoản của
người thụ hưởng séc.
- Séc bảo chi cũng là một dạng séc chuyển khoản thông thường nhưng
được ngân hàng phát hành đảm bảo khả năng chi trả bằng cách phong tỏa số
tiền tương ứng với giá trị tờ séc. Người thụ hưởng tờ séc sẽ được ngân hàng
phục vụ ghi có ngay số tiền trên tờ séc.
Séc là một phương tiện thanh toán đơn giản. Tuy nhiên, cho đến nay
séc vẫn là một phương tiện thanh toán dựa trên cơ sở chứng từ với chi phí
cao hơn so với những phương tiện thanh toán khác Mặt khác, thanh toán
bằng séc có những khó khăn nhất định ở việc ứng dụng công nghệ trong

thanh toán. Ngoài ra nó chịu ảnh hưởng của mối quan hệ kinh tế, độ tín
nhiệm giữa bên mua và bên bán bởi vì mức độ rủi ro trong hình thức thanh
toán này cao hơn các hình thức thanh toán khác, ví dụ: việc giả mạo, việc
đảm bảo số dư thanh toán.
1.2.3.2. Thanh toán bằng lệnh Chi hoặc Ủy nhiệm Chi
Ủy nhiệm Chi (UNC) là lệnh chi của chủ tài khoản được lập theo mẫu
in sẵn của Ngân hàng yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình (nơi mở tài khoản
tiền gửi) trích tiền tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng.
Khi nhận được UNC,trong vòng một ngày làm việc, Ngân hàng phục
vụ người trả tiền phải hoàn tất lệnh chi hoặc từ chối thực hiện nếu tài khoản
của khách hàng không đủ tiền hoặc lệnh chi lập không hợp lệ.
UNC có thủ tục thanh toán đơn giản, không gây phiền hà cho người trả
tiền, chỉ sau một thời gian ngắn người thụ hưởng đã nhận được tiền trả mà
không phải đến Ngân hàng làm thủ tục, với những ưu điểm nổi bật là an toàn,
8
thuận lợi, hiệu quả…
Tuy nhiên,trong thanh toán bằng UNC - Chuyển tiền thì việc trả tiền
cho người thụ hưởng là do thiện chí của người trả tiền. Nếu người trả tiền
không sòng phằng trong thanh toán thì người thụ hưởng sẽ bị chiếm dụng
vốn, người trả tiền vẫn phải đến ngân hàng để làm thủ tục trích tài khoản
chuyển cho người thụ hưởng.
1.2.3.3. Thanh toán bằng Ủy nhiệm thu
Ủy nhiệm thu (UNT) là giấy ủy nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng gửi
vào ngân hàng phục vụ mình để nhờ thu tiền về số lượng hàng hóa đã giao,
dịch vụ đã cung ứng.
Khi nhận được giấy UNT, trong vòng một ngày làm việc, Ngân hàng
phục vụ bên trả tiền phải trích tài khoản của bên trả tiền để trả ngay cho bên
thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán.
UNT có phạm vi thanh toán rộng giúp cho các đơn vị cung cấp dịch vụ
công cộng đỡ mất công đến từng nơi thu tiền.

Tuy nhiên, UNT được sử dụng cho giao dịch thanh toán có giá trị nhỏ
ngoài ra thủ tục thanh toán UNT rất phức tạp dễ gây tình trạng người trả tiền
chiếm dụng vốn của người thụ hưởng.
1.2.3.4. Thanh toán bằng thư tín dụng
Thư tín dụng là văn bản cam kết có điều kiện được ngân hàng mở theo
yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng). Theo
đó ngân hàng thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán để:
+ Trả tiền hay ủy quyền cho Ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh
của người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các
điều kiện của thư tín dụng hoặc:
+ Chấp nhận sẽ trả tiền hay ủy quyền cho Ngân hàng khác trả tiền
ngay theo lệnh của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương
lai khi nhận được bộ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư
9
tín dụng.
Điều kiện áp dụng:
Thư tín dụng được dùng để thanh toán tiền hàng dịch vụ trong trường
hợp bên bán hàng, cung ứng hàng hóa dịch vụ đòi hỏi phải có tiền để chi trả
ngay và hợp với số tiền hàng đã giao, dịch vụ đã cung ứng theo hợp đồng
kinh tế hay đơn đặt hàng trong trường hợp khác địa phương.
Trong trường hợp bên thụ hưởng không tin tưởng khả năng chi trả của
bên trả tiền hoặc trường hợp bên trả tiền đã vi phạm chế độ thanh toán hiện
hành, Ngân hàng buộc họ phải chuyển sang phương tiện thanh toán này.
Một số quy định:
+ Do tính chất phức tạp của quy trình công nghệ thanh toán nên Thư
tín dụng được mở với số tiền tương đối lớn (tối thiểu là 10 triệu đồng) và
thời gian tương đối dài (3 tháng kể từ ngày mở Thư tín dụng). Thư tín dụng
không được bổ sung thêm tiền nếu muốn bổ sung tiền thì phải mở Thư tín
dụng khác.
+ Mỗi Thư tín dụng chỉ dùng để thanh toán với một người thụ hưởng

và chỉ được thanh toán một lần (trường hợp đặc biệt được thanh toán hai lần).
+ Sau thời gian hiệu lực quy định, Thư tín dụng đã mở không được sử
dụng sẽ hủy bỏ bằng việc trả lại tiền trên tài khoản Thư tín dụng vào tài khoản
tiền gửi người trả tiền.
Như vậy, trong thanh toán Thư tín dụng khả năng đảm bảo chi trả là
chắc chắn theo những điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận.
Song thủ tục mở thư tín dụng phiền hà, người mua hàng bị đọng vốn
do phải ký gửi một khoản tiền lớn trên TKTG đảm bảo than toán Thư tín
dụng mà không được hưởng lãi. Vì vậy, phương tiện thanh toán này ít được
áp dụng trong quan hệ thanh toán trong nước mà thường được áp dụng trong
thanh toán quốc tế.
1.2.3.5. Thanh toán bằng thẻ
10
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành và
bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng, dịch vụ, các khoản thanh toán
khác và rút tiền măt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền
mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động.
Đây là phương tiện thanh toán hiện đại vì nó gắn với kỹ thuật tin học ứng
dụng trong Ngân hàng.
Nếu phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ, thẻ bao gồm: Thẻ tín
dụng (Credit card), thẻ ghi nợ (Debit card).
+ Thẻ ghi nợ (Debit card): khách hàng được phép thanh toán trong
phạm vi hạn mức của thẻ
+ Thẻ tín dụng (Credit card): khách hàng chỉ được thanh toán số tiền
trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp nhận bằng văn bản.
Nếu phân loại theo phạm vi thanh toán thẻ, thẻ bao gồm: Thẻ nội địa,
thẻ quốc tế.
Nếu phân loại theo tính chất vật lý của thẻ: thẻ ghi từ, thẻ chip (smart card).
Để có thể sử dụng được thẻ thanh toán, người sử dụng phải được ngân
hàng phát hành thẻ. Khi có nhu cầu thanh toán thẻ, chủ thẻ thực hiện thanh

toán tại các đơn vị chấp nhận thẻ, ứng tiền mặt tại các điểm ứng tiền mặt
thuộc hệ thống ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch tại
máy rút tiền tự động ATM. Tại đơn vị chấp nhận thẻ, thẻ thanh toán được
kiểm tra và thực hiện giao dịch qua máy EDC, máy cà tay. Sau khi thực hiện
giao dịch với chủ thẻ, đơn vị chấp nhận thẻ thực hiện thanh toán với ngân
hàng thanh toán, trên cơ sở đó ngân hàng thanh toán sẽ truyền thông tin cuối
cùng về ngân hàng phát hành để hạch toán.
Ưu điểm của thẻ thanh toán là nhanh chóng, thuận tiện, quá trình thanh
toán diễn ra dễ dàng. Khách hàng có thể sử dụng được rộng rãi tại mọi nơi
chấp nhận thanh toán thẻ hoặc có máy ATM mà không nhất thiết phải đến
Ngân hàng. Về phía ngân hàng, phương thức thanh toán này giúp ngân hàng
11
giảm thiểu nhân lực phục vụ, giảm bớt rủi ro do khách phải chịu trách nhiệm
cao về tính bảo mật thẻ của mình.
Tuy nhiên để hình thức thanh toán này phát huy được hiệu quả thì hệ
thống ngân hàng phải có sự đầu tư lớn vào trang thiết bị kỹ thuật, hiện đại hóa
công nghệ ngân hàng để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Bên cạnh các loại thẻ do Ngân hàng phát hành, thì các loại thẻ thanh
toán do các công ty phi ngân hàng phát hành như: VISA, MASTER,
AMEX rất phát triển và thịnh hành.
Sự phát triển của máy tính điện tử và hệ thống viễn thông, trong mấy
thập kỉ qua hệ thống thanh toán đã được cải tiến và hoàn thiện, làm thay đổi
quan niệm truyền thống về giao dịch qua ngân hàng tại các quầy giao
dịch….Ngày nay, hệ thống thanh toán hiện đại phát triển với những khái niệm
mới xuất hiện: “Tiền điện tử”, “Ví điện tử”, “hệ thống chuyển khoản điện
tử” Khi Internet ra đời, viêc giao lưu kinh tế được thuận lợi hơn bao giờ hết,
không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Việc thanh toán được thực
hiện không chỉ tại các Chi nhánh Ngân hàng mà hàng loạt kênh giao dịch mới
ra đời: ATM, KiosBanking, MobileBanking, TelephoneBanking Thanh toán
điện tử, E-Banking, là mối quan tâm của các Ngân hàng đang trong quá trình

hiện đại hóa. Theo đó, các dịch vụ thanh toán Ngân hàng tiên tiến với những
tiện ích hiện đại sẽ ngày càng phát triển làm nâng cao chất lượng thanh toán
trong nền kinh tế.
1.2.4. Các phương thức thanh toán giữa các ngân hàng
Thanh toán giữa các Ngân hàng là nghiệp vụ thanh toán qua lại giữa
các ngân hàng nhằm tiếp tục hoàn thành quá trình thanh toán tiền giữa các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân với nhau mà họ không cùng nhau mở
tài khoản tại một ngân hàng hoặc thanh toán trong nội bộ các hệ thống ngân
hàng. Phương thức thanh toán giữa các ngân hàng rất đa dạng và phong phú
ngoài thanh toán nội bộ của từng ngân hàng còn có hệ thống thanh toán liên
12
ngân hàng để giải quyết quan hệ thanh toán vốn giữa các đơn vị ngân hàng
khác hệ thống.
1.2.4.1. Thanh toán nội bộ của từng hệ thống ngân hàng
Thanh toán nội bộ ngân hàng là phương thức thanh toán vốn giữa các
chi nhánh ngân hàng trong cùng một hệ thống ngân hàng.
Thực chất của thanh toán nội bộ trong một hệ thống ngân hàng là việc
chuyển tiền từ chi nhánh này đến chi nhánh khác để phục vụ thanh toán tiền
hàng hóa, dịch vụ của hai khách hàng (mua và bán) khi cả hai khách hàng
không cùng mở tài khoản ở một chi nhánh ngân hàng; hoặc là chuyển cấp
vốn, điều hòa vốn trong nội bộ một hệ thống ngân hàng. Mạng thanh toán nội
bộ của các ngân hàng là cơ sở để các ngân hàng thực hiện tập trung vốn, mở
rộng và phát triển hoạt động kinh doanh. Mạng thanh toán nội bộ của các
ngân hàng thường áp dụng một trong hai phương thức phụ thuộc vào mô hình
quản lý của khách hàng đó là:
+ Mô hình quản lý khách hàng phân tán
+ Mô hình quản lý khách hàng tập trung
Trong đó mô hình quản lý khách hàng tập trung (tập trung hóa tài
khoản) được áp dụng phổ biến tại các NHTM mà quá trình thanh toán đã
được áp dụng công nghệ đồng bộ công nghệ thông tin hiện đại.

1.2.4.2. Thanh toán bù trừ
Thanh toán bù trừ là phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng
được thực hiện bằng cách bù trừ các khoản thu hộ, chi hộ lẫn nhau và định kỳ
sẽ thanh toán theo số chệnh lệch sau khi đã bù trừ.
Thanh toán bù trừ phát sinh trên cơ sở các khoản tiền hàng hóa, dịch vụ
của khách hàng mở tài khoản ở 2 chi nhánh ngân hàng khác nhau cùng tham
gia thanh toán bù trừ tại NHTW, tổ chức thanh toán hoặc hiệp hội thanh toán
chủ trì.
Mạng thanh toán bù trừ bao gồm:
13
+ Mạng thanh toán bù trừ quốc gia
+ Mạng thanh toán bù trừ khu vực tỉnh, thành phố
+ Trung tâm thanh toán bù trừ séc, thẻ, hối phiếu liên ngân hàng…
Thanh toán bù trừ áp dụng hai phương thức là bù trừ trực tiếp và bù trừ
ròng, trong đó bù trừ ròng được áp dụng phổ biến ở các nước. Phương thức bù
trừ ròng cho phép các ngân hàng chuyển, nhận các khoản thanh toán với nhau
và chỉ phải thực hiện quyết toán tại một thời điểm nhất định (thường là cuối
ngày hoặc một số lần trong ngày).
1.2.4.3. Thanh toán liên ngân hàng
Thanh toán liên ngân hàng là phương thức thanh toán giữa các ngân
hàng tham gia mạng thanh toán quốc gia do NHTW sở hữu, trực tiếp tổ chức
thanh toán. Các đối tác tham gia vào mạng thanh toán liên ngân hàng là
NHTM, tổ chức tài chính và những doanh nghiệp lớn có đầy đủ các điều kiện
do NHTW quy định. Mạng thanh toán liên ngân hàng đóng vai trò thanh toán
qua ngân hàng của mỗi quốc gia. Để tham gia mạng thanh toán liên ngân hàng
do NHTW tổ chức, các NHTM, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải mở
tài khoản tại NHTW và trực tiếp thanh toán vốn với nhau theo từng lệnh
thanh toán thông qua tài khoản này. Phương thức thanh toán phổ biến nhất mà
các nước áp dụng là hệ thống thanh toán tổng tức thời (Real Time Gross
Settlement System – RTGS) là hệ thống cho phép xử lý và quyết toán chuyển

tiền được diễn ra một cách liên tục theo thời gian thực tế phát sinh chuyển
tiền, tức là các giao dịch thanh toán (các lệnh chuyển tiền) được xử lý ngay
theo tổng số tiền phải thanh toán và theo từng lệnh chuyển tiền.
1.2.4.4. Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng khác
Phương thức thanh toán này được áp dụng giữa hai đơn vị ngân
hàng trong cùng hệ thống và giữa hai ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng
khác hệ thống.
Để thanh toán theo phương thức này đòi hỏi ngân hàng hoặc đơn vị
14
ngân hàng này phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng kia hoặc ngược lại.
Theo đó, hai ngân hàng phải đăng ký mẫu dấu, chữ ký của người có thẩm
quyền ra lệnh thanh toán.
1.2.4.5. Thanh toán song phương
Đây là phương thức thanh toán thông qua thoả thuận song phương,
theo đó ngân hàng mở tài khoản tại một ngân hàng khác để thực hiện thanh
toán song phương. Việc tổ chức liên kết nối mạng thanh toán song phương
nhằm mở rộng phạm vi thanh toán: các chi nhánh ngân hàng thuộc 2 hệ
thống kết nối thanh toán song phương có thể thực hiện chuyển lệnh thanh
toán trực tiếp với nhau, thời gian chuyển và nhận lệnh thường nhanh hơn rất
nhiều so với các kênh thanh toán khác. Đồng thời tạo điều kiện cho bản thân
ngân hàng tập trung được nguồn vốn, tăng thu phí dịch vụ, góp phần nâng
cao hiệu quả kinh doanh.
1.3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ THANH TOÁN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Đối với nền kinh tế
Để điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả, NHTW phải có khả năng
kiểm soát được vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, dự báo được sự biến
động của vốn khả dụng, có khả năng can thiệp thị trường tiền tệ một cách
nhanh chóng hữu hiệu. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi có một hệ
thống thanh toán tin cậy, an toàn và hiệu quả.

Thanh toán là khâu đầu tiên và cũng là khâu cuối cùng kết thúc của
một chu kỳ sản xuất. Vì vậy, không có thanh toán thì quá trình sản xuất
không thể tiến hành đều đặn và liên tục được. Việc thanh toán kịp thời
chính xác sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất và trao đổi lưu
thông hàng hóa của tổ chức kinh doanh, cá nhân trong nền kinh tế. Ngân
hàng là một tổ chức tài chính trung gian kinh doanh sản phẩm dịch vụ
thanh toán cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình trao đổi, mua
15
bán hàng hóa. Do vậy, dịch vụ thanh toán của các ngân hàng đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc tăng nhanh tốc độ vận động của vật tư, hàng
hóa và tiền vốn. Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán của ngân hàng là
góp phần đẩy nhanh vòng quay vốn của khách hàng nói riêng và toàn xã
hội nói chung, tiết kiệm được vốn ở khâu sản xuất.
Thanh toán qua ngân hàng góp phần giảm thấp tỷ trọng tiền mặt trong
lưu thông do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông cho xã hội. Ngân hàng không
phải mất chi phí lớn cho các khoản sản xuất, vận chuyển, lưu hành, thu hồi, tiêu
hủy tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông, tránh được nạn tiền giả, nhầm lẫn,
thiếu hụt trong khâu kiểm đếm Các hình thức thanh toán hiện đại của ngân
hàng hiện nay đảm bảo tốc độ nhanh chóng, chính xác cao, chi phí hợp lý.
1.3.2. Đối với ngân hàng
Khi các tổ chức, cá nhân khi sử dụng dịch vụ thanh toán do ngân hàng
cung cấp thì phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Trên mỗi tài khoản đó
phải có số dư nhất định để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Do đó ngân hàng sẽ
huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế của cá nhân và tổ
chức, làm tiền đề cho ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay đầu tư và kinh
doanh có hiệu quả.
Khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng giúp ngân hàng
giảm bớt chi phí kiểm đếm, bảo quản tiền mặt, giảm bớt rủi ro về tiền giả trong
giao dịch. Đồng thời, dịch vụ thanh toán qua ngân hàng tạo điều kiện mở rộng
và tăng cường cho ngân hàng kiểm soát được một phần lượng tiền trong nền

kinh tế khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng. Qua việc kiểm tra giám sát
các khách hàng chấp hành tốt kỷ luật thanh toán và các nguyên tắc quản lý tài
chính của Nhà nước, từ đó đề ra các chính sách thanh toán thích hợp nhằm
kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, tăng sức mua của đồng tiền.
Thanh toán qua ngân hàng giúp hệ thống NHTM thực hiện chức năng tạo
16
tiền. Nếu khách hàng rút tiền mặt ra khỏi ngân hàng thì số tiền đó không nằm
trong khâu thanh toán của ngân hàng. Nếu sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng thì khách hàng chỉ cần yêu cầu ngân hàng trích tài khoản tiền gửi thanh
toán tại ngân hàng mình mở tài khoản trả cho khách hàng khác. Trong quá trình
thanh toán đó thì nguồn vốn được luân chuyển từ tài khoản này sang tài khoản
khác, từ ngân hàng này sang ngân hàng khác và tạo ra bội số tiền gửi.
1.3.3. Đối với khách hàng
Các rủi ro trong thanh toán, bảo quản và vận chuyển tiền mặt của các tổ
chức, cá nhân luôn tiềm ẩn, nguy cơ bị trộm cướp tài sản lớn, bên cạnh đó là
rủi ro về kiểm đếm tiền thật, giả. Nếu khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán
do ngân hàng cung ứng thì những rủi ro này sẽ giảm thiểu đáng kể.
Dịch vụ thanh toán qua ngân hàng đa dạng, phong phú đáp ứng một
cách nhanh chóng, thuận tiện và cho phép khách hàng có nhiều sự lựa chọn
phù hợp với nhu cầu của mình.
Thanh toán vừa là khâu mở đầu và cũng vừa là khâu kết thúc của một
chu kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó nếu tổ chức tốt trong khâu thanh toán thì
sẽ tăng nhanh vòng quay của vốn giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh để
phục vụ tốt cho chu kỳ sản xuất sau. Thanh toán qua ngân hàng rút ngắn được
thời gian thanh toán, tiết kiệm vốn, tăng nhanh tốc độ quay vòng của vốn góp
phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.4. TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI DỊCH VỤ THANH TOÁN
NGÂN HÀNG
1.4.1. Độ chính xác
Tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá hiệu quả của dịch vụ thanh toán Ngân

hàng là độ chính xác. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động thanh toán.
1.4.2. Thời gian thanh toán
Thời gian thanh toán được tính từ khi chủ thể trả tiền đưa ra chỉ định
thanh toán đến khi chủ thể thụ hưởng nhận đủ tiền. Thời gian thanh toán
càng ngắn thì càng đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn giữa các chủ thể tham
17
gia, tối đa hóa hiệu quả sử dụng vốn. Hơn nữa, đối với thị trường ngoại hối
và thị trường chứng khoán, tỉ giá hối đoái và chứng khoán biến động tăng
giảm hàng giờ, hàng phút nên thời gian thanh toán kéo dài có thể gây thiệt
hại lớn.
1.4.3. Độ an toàn
Các phương tiện thanh toán hiện đại qua ngân hàng hiện nay giảm thiểu
được nạn tiền giả, trộm cướp Tuy nhiên, các bên tham gia quá trình thanh
toán vẫn có thể gặp những vấn đề rủi ro về mặt pháp lý, rủi ro hoạt động, rủi
ro kinh tế
- Rủi ro pháp lý: phát sinh nếu các văn bản pháp lý liên quan đến giao
dịch thanh toán không đầy đủ, chăt chẽ, phù hợp thực tế. Mọi chủ thể tham
gia thanh toán bao giờ cũng muốn biết trước quyền lợi của họ trong hoạt
động thanh toán được pháp luật bảo vệ như thế nào. Ví dụ: người trả nợ hay
ngân hàng đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình hoặc chủ tài
khoản phát hành séc quá số dư thì bị xử lý như thế nào và người thụ hưởng
sẽ đòi tiền như thế nào.
- Rủi ro vận hành hệ thống thanh toán phát sinh từ trục trặc kỹ thuật
của hệ thống thanh toán, sự cố máy móc, thanh toán viên nhầm lẫn trong xử
lý giao dịch hoặc sự cố về mã khóa bị lộ, dữ liệu bị đánh cắp Điều này
đòi hỏi hệ thống thanh toán được thiết kế, xây dựng vận hành đảm bảo thông
suốt, an toàn bảo mật cho người tham gia sử dụng dịch vụ thanh toán.
- Rủi ro kinh tế bao gồm rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản. Rủi ro
tín dụng phát sinh khi bên có nghĩa vụ trả nợ bị phá sản, không thể thanh
toán cho bên thụ hưởng. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi bên có nghĩa vụ trả

nợ mất khả năng thanh toán tạm thời.
1.4.4. Sản phẩm dịch vụ thanh toán đa dạng với giá cả hợp lý
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu thanh toán của các cá nhân, tổ
chức rất khác nhau về quy mô, thời gian, mục đích đòi hỏi có nhiều loại
dịch vụ thanh toán đa dạng, phù hợp.
18
Bên cạnh đó, giá cả sản phẩm dịch vụ thanh toán là chi phí các chủ thể
tham gia phải trả cho giao dịch. Vì vậy, chủ thể tham gia thanh toán sẽ cân
nhắc lựa chọn giữa chi phí và tiện ích sao cho hiệu quả nhất.
Bởi vậy, các ngân hàng muốn thu hút khách hàng tham gia sử dụng dịch
vụ thanh toán thì ngoài việc đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch
vụ thì phải đưa ra mức phí hợp lý nhất.
1.5. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THANH TOÁN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.5.1. Nhân tố khách quan
1.5.1.1. Môi trường pháp lý và chính sách
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh hàng hóa đặc biệt - tiền tệ - nên
chịu tác động trực tiếp của Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín
dụng, Luật Doanh nghiệp Hoạt động thanh toán cũng đã có các Nghị định
của Chính phủ, các quy định của Ngân hàng Nhà nước trực tiếp chỉ đạo. Do
đó, chỉ một thay đổi nhỏ của pháp luật sẽ tạo cơ hội và thách thức cho Ngân
hàng. Công tác thanh toán qua Ngân hàng luôn luôn phải đảm bảo an toàn,
kịp thời, chính xác đồng thời phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định, chế độ
đặt ra trong thanh toán do các Cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa các chủ thể tham
gia thanh toán với nhau cần được xác định rõ ràng bằng các quy định pháp lý
và phải được đảm bảo hiệu lực thi hành. Nếu hệ thống pháp luật đảm bảo cho
hệ thống thanh toán không đầy đủ, không đồng bộ thì các chủ thể sẽ không
yên tâm khi tham gia vào hoạt động thanh toán xét cả từ khía cạnh người tổ
chức thanh toán là các Ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và cả

người sử dụng các dịch vụ thanh toán là các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân
trong nền kinh tế.
Tuy nhiên nếu những quy định trong thanh toán với những thủ tục chế
độ quá cứng nhắc, phiền hà sẽ gây nhiều trở ngại cho khách hàng cũng như
19
ngân hàng. Có thể nói, sự không đầy đủ và nhất quán về cơ sở pháp lý chính
là nguyên nhân dẫn đến các rủi ro liên quan đến hoạt động thanh toán, khi đó
hệ thống thanh toán qua Ngân hàng không thu hút được đông đảo cá nhân và
tổ chức kinh tế tham gia.
1.5.1.2. Sự phát triển của Khoa học, kỹ thuật và Công nghệ
Con đường duy nhất để phục vụ nhu cầu nền kinh tế đang chuyển đổi
và phát triển là đổi mới công nghệ mà thực chất là ứng dụng mạnh mẽ CNTT
vào hoạt động Ngân hàng. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng hội nhập kinh
tế quốc tế đang chuyển động hết sức nhanh chóng thì Hiện đại hoá Ngân hàng
càng nhanh, càng có lợi thế khi chúng ta tham gia vào các chương trình kinh
tế quốc tế. Ngược lại, sự chậm trễ là nguy cơ, bất lợi nhiều mặt là không thể
tránh khỏi.
Khoa học công nghệ hiện đại với phương tiện hiện đại đã tạo điều kiện
cho quá trình thanh toán diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, nâng cao chất lượng
thanh toán ngày càng cao của khách hàng. Nhờ vậy, công tác thanh toán của
Ngân hàng được cải tiến nhiều về thời gian, không gian, doanh số thanh toán
và độ chính xác kỹ thuật.
1.5.1.3. Môi trường cạnh tranh
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại
trong giai đoạn hiện nay đang cạnh tranh rất quyết liệt. Các ngân hàng đang
đua nhau nhau thu hút khách hàng bằng những sản phẩm dịch vụ thanh toán
áp dụng những công nghệ tiên tiến với chất lượng ngày càng được nâng cao
làm cho hệ thống thanh toán qua ngân hàng ngày càng phát triển.
1.5.1.4. Môi trường văn hóa – xã hội
- Trình độ dân trí: Khách hàng có hiểu biết nhất định về các sản

phẩm dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng thì việc tiếp cận tới khách hàng sẽ
nhanh chóng và dễ dàng hơn. Tâm lý cũng là một yếu tố rất quan trọng.
20
Hiện nay, tâm lý ưa dùng tiền mặt vẫn phổ biến. Nhiều người vẫn chưa có
niềm tin và hiểu biết về dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, hay chính dịch
vụ thanh toán của Ngân hàng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Thanh toán qua ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp, cá nhân tham gia
với số lượng không nhiều.
- Mức thu nhập bình quân đầu người: Người có thu nhập cao luôn
muốn được sử dụng những dịch vụ tiện lợi, chất lượng tốt nhất mà ngân hàng
cung ứng. Nếu thu nhập của người dân chưa cao nên họ chưa đủ điều kiện và
chưa muốn tham gia thanh toán qua ngân hàng.
- Mức độ hoạt động tội phạm: Xu thế sử dụng tiền mặt sẽ tăng lên nếu
các hoạt động kinh tế ngầm như buôn lậu, trốn thuế phát triển mạnh. Để tránh
rủi ro bị mất cắp, cướp giật, tiền giả mọi người xu có xu hướng sử dụng dịch
vụ thanh toán qua ngân hàng – thanh toán không dùng tiền mặt.
1.5.2. Nhân tố chủ quan
1.5.2.1. Mạng lưới cung cấp dịch vụ thanh toán
Mạng lưới cung cấp dịch vụ thanh toán qua ngân hàng một nhân tố
quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán trong nền kinh tế. Nếu các
ngân hàng có mạng lưới giao dịch rộng khắp cả nước sẽ tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đến giao dịch thanh
toán, từ đó mở rộng phạm vi và phát triển thanh toán qua ngân hàng. Tuy
nhiên, việc mở rộng mạng lưới thanh toán bằng phương pháp truyền thống là
thành lập các chi nhánh, các điểm giao dịch sẽ gặp rất nhiều khó khăn do
phải xây dựng trụ sở, trang bị cơ sở vật chất và đầu tư về nhân lực. Ngày
nay, nhờ việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt động thanh
toán mà các ngân hàng có thể mở rộng mạng lưới bằng việc kết nối mạng
với khách hàng để cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng nói
chung cho khách hàng. Đó cũng là xu hướng mà các ngân hàng thực hiện

nhằm xây dựng hệ thống dịch vụ mới cho khách hàng có thể giao dịch ở bất
21

×