MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
PHÁT ÂM ĐÚNG KHI HỌC MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 1
KIỀU THANH HUY
Giáo viên trường Tiểu học Bán trú “B” Tân Châu
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Chúng ta đã biết, việc dạy học môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học mục
tiêu quan trọng nhất là: Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử
dụng Tiếng việt ( nghe, nói, đọc, viết ) để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng việt, góp
phần rèn luyện các thao tác tư duy…
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và
những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn
học của Việt Nam và nước ngoài.
Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việc giao tiếp bằng tiếng Việt được thực hiện thông qua hai dạng
ngôn ngữ : lời nói và chữ viết. Để có thể hiểu được nội dung giao tiếp, người
ta phải nghe và đọc được tiếng Việt. Để có thể bày tỏ ý nghĩ, tình cảm của
mình, người ta phải nói hoặc viết được tiếng Việt trong cả hai dạng ngôn
ngữ ( lời nói và chữ viết ). Dạy sử dụng tiếng Việt là dạy cách dùng tiếng
Việt trong cả hai dạng ngôn ngữ ; là dạy cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết;
là dạy học sinh lĩnh hội và sản sinh các ngôn bản bằng tiếng Việt.
Hình thức giao tiếp bằng lời ( nghe – nói ) và hình thức giao tiếp bằng
chữ ( đọc – viết ) có mối quan hệ mật thiết với nhau, thực hiện tốt việc giao
tiếp bằng lời sẽ làm cơ sở để dạy hình thành giao tiếp bằng chữ và ngược lại
dùng hình thức giao tiếp bằng chữ làm cơ sơ để hoàn thiện hình thức giao
tiếp bằng lời.
Trong việc giảng dạy môn Tiếng việt lớp Một, giáo viên cần có những
biện pháp và hình thức rèn luyện kĩ năng nghe – nói như thế nào để học sinh
tiếp thu được bài học theo yêu cầu đề ra? Đây là vấn đề gây khó khăn không
nhỏ cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy – học môn Tiếng Việt.
Những khó khăn đó là do chúng ta chưa xây dựng được chính âm trong nhà
trường.
Chính âm là cách phát âm phù hợp với chuẩn phát âm đã được thừa
nhận trong một ngôn ngữ. Yêu cầu cơ bản của chính âm là xây dựng một
cách phát âm chuẩn thống nhất trong phạm vi toàn dân, để cho ngôn ngữ có
thể thực hiện thuận lợi chức năng làm công cụ giao tiếp của mình.
1
Điều quan trọng muốn nói ở đây là: chính âm trong tiếng Việt với nội
dung cơ bản như đã nói ở trên đã được nhân dân thừa nhận, nhưng nó lại
không tồn tại trong thực tế mà chỉ tồn tại trong ý thức, trong đầu óc của đại
đa số người nói tiếng Việt.
Chữa lỗi phát âm là biện pháp bổ trợ cho học sinh viết đúng chính tả
vì trong ngôn ngữ mà chữ viết được xây dựng theo nguyên tắc ngữ âm học,
như tiếng Việt thì chính âm và chính tả có mối quan hệ rất mật thiết bổ trợ
cho nhau.
Nhận thức được tầm quan trong của việc dạy học sinh phát âm đúng
chính âm ở cấp Tiểu học nhất là ở khối Một – Khối đầu cấp, nên tôi chọn đề
tài :” Một số biện pháp giúp học sinh phát âm đúng khi học môn Tiếng Việt
lớp 1.” để nghiên cứu.
II. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT:
1. Quá trình phát triển kinh nghiệm:
Qua quá trình học tập, giảng dạy, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của
đồng nghiệp, nghiện cứu tài liệu, tôi đã nghĩ ra một số biện pháp giúp học
sinh phát âm đúng.
Trước đây, trong quá trình dạy học âm, chương trình bắt buộc phải
phân biệt rõ nguyên âm và phụ âm, dựa vào tiêu chí phát âm mà giáo viên
hướng dẫn học sinh phát âm chính xác, đồng thời đối với học sinh cũng phải
biết phân biệt được nguyên âm, phụ âm. Cái khó đối với học sinh là, qua
việc phát âm các em phải nhận ra được đâu là nguyên âm, đâu là phụ âm,
dựa vào khi phát âm luồng hơi phát ra như thế nào. Điều này khiến cho các
em gặp nhiều lúng túng gây ảnh hưởng đến thời gian tiết học. Vì giáo viên
phải giải thích nhiều lần mà chưa chắc gì học sinh nắm được.
Qua nhiều năm thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới tôi thấy
tâm đắc, bởi chương trình không đặt nặng vấn đề trên, miễn sao khi đứng
lớp giáo viên dạy học sinh phát âm đúng theo yêu cầu đã đề ra là đạt. Nói
như vậy, không phải là chúng ta không còn coi trọng vấn đề trên trong lúc
dạy học sinh phát âm, mà ngược lại còn đòi hỏi người giáo viên phải nắm
một cách chắc chắn hơn nữa đặc điểm phát âm của hệ thống nguyên âm và
phụ âm. Các tiêu chí phát âm của âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối. Đồng
thời giáo viên còn sử dụng một số biện pháp bổ trợ nhằm giúp các em phát
âm chính xác.
2. Nội dung – Biện pháp tiến hành :
2.1) Dạy học phần âm:
a) Biện pháp thứ nhất:
Dạy học sinh phát âm dựa vào tiêu chí khu biệt nguyên ân, phụ âm:
2
Để học sinh phát âm đúng, thì đây là vấn đề quan trọng mà giáo viên
nào cũng phải nắm tường tận trong việc hướng dẫn học sinh phát âm và
cũng là yếu tố quyết định sự thành công của tiết dạy âm.
Đặc trưng chung của nguyên âm:
Để thấy rõ những đặc điểm của nguyên âm nên đối chiếu nó với phụ
âm.
Nguyên âm do thanh tạo nên còn phụ âm về cơ bản là tiếng động.
* Bảng phân loại và miêu tả nguyên âm tiếng Việt:
Chiều hướng
lưỡi
Độ mở hình dáng
của miệng môi
hàng trước hàng sau hàng sau
Không tròn
môi
không tròn
môi
tròn môi
Hẹp i
iê
ư
ươ
u
uô
Hơi hẹp ê ơ â ô
Hơi rộng e
o
Rộng a ă
* Tiêu chí khu biệt nguyên âm : Có 3 tiêu chí khu biệt nguyên âm :
- Chiều hướng của lưỡi: Khi phát nguyên âm lưỡi có thể đưa ra phía
trước hoặc lùi về phía sau.
Ta có:
+ Nguyên âm hàng trước ( lưỡi đưa ra phía trước ): i , iê, ê, e.
+ Nguyên âm hàng sau ( lưỡi thụt vào phía trong ) : ư, ươ, ơ, a, ă, â, u,
uô, ô, o.
- Độ mở của miệng: Khi phát âm các nguyên âm, miệng có thể mở từ
: hẹp – hơi hẹp – hơi rộng – rộng. Ta có:
+ Nguyên âm hẹp : ( miệng mở hẹp ) : i, ư, u.
+ Nguyên âm hơi hẹp : ( miệng mở hơi hẹp ) : ê, ơ, ô, â.
+ Nguyên âm hơi rộng: ( miệng mở hơi rộng ): e, o.
3
+ Nguyên âm rộng ( miệng mở rộng ): a, ă.
- Hình dáng của môi : Khi phát các nguyên âm, hai môi có thể
khép thành vòng tròn hoặc không.
Ta có:
+ Các nguyên âm tròn môi : u, uô, ô, o.
+ Các nguyên âm không tròn môi: i, ê, iê, e, ư, ơ, â, ươ, a, ă.
Chỉ cần 3 tiêu chí này mà không cần hơn vì chúng đáp ứng điều kiện
cần và đủ cho việc xác định khả năng cộng hưởng của một khoang rỗng vốn
phụ thuộc vào thể tích , hình dáng và lối thoát của không khí.
• Bảng phân loại và miêu tả hệ thống phụ âm tiếng Việt:
Phương
thức
phát
âm
Độ rung của
dây thanh
Vị
trí
phát
âm
môi đầu lưỡi
mặt
lưỡi
cuối
lưỡi họng
môi răng răng ngạc
cứng
tắc
không
vang
vô thanh
p t tr ch c(k,q)
hữu thanh
b đ
th
vang(mũi)
m n nh ng(ngh)
xát
không
vang
vô thanh
ph x s kh h
hữu thanh
v d,gi r g (gh)
vang
(bên)
l
- Về phương thức cấu âm : Có 3 phương thức chính: tắc, xát, rung.
+ Âm tắc:là nhóm phụ âm: p, b, t, th, n, tr, ch, k ( c, q ).
Khi phát âm một âm tắc thì lưỡi con nâng lên bịt kín lối thông lên mũi
và không khí bị cản trở hoàn toàn do những bộ phận khác nhau ở miệng,
muốn thoát ra phải phá vỡ sự cản trở ấy, tạo nên tiếng động.
+Âm mũi: cũng thuộc loại phương thức tắc, nhưng được xếp thành
nhóm riêng. Khi phát âm lưỡi con hạ xuống . Không khí không ra qua miệng
được, trở ra bằng đường mũi. Vì dây thanh trấn động mà không khí ra tự do
nên tỉ lệ thanh so với tiếng động là rất lớn và những âm này được gọi là âm
vang. Các âm : m, n, nh, ng ( ngh).
+ Âm xát: Được chia thành 2 loại: ph, x, s, kh, h. v, d, gi, r, g (gh),l.
Âm rung: Xét về độ rung của dây thanh có vô thanh, hữu thanh.
Âm vang: / l / ( Còn gọi là âm bên. Vì khi phát âm luồng hơi từ phổi
lên thoát ra ngoài ở một trong số hai bên cạnh lưỡi).
4
- Về vị trí cấu âm:
Từ ngoài vào trong có nhiều vị trí, ở đó các âm tố được cấu tạo do sự
nhích lại gần nhau của các bộ phận cấu âm. Một bộ phận tĩnh như: răng, lợi,
ngạc, mạc, một bộ phận động như : môi, lưỡi con, lưỡi với sự phân chia khu
vực kèm theo các tên gọi khác nhau : đầu lưỡi, mỏm lưỡi mặt lưỡi trước,
mặt lưỡi giữa, mặt lưỡi sau, gốc lưỡi. Để tạo nên một chướng ngại cần phải
có hai bộ phận .
Ở cùng một vị trí, với những phương thức cấu âm khác nhau người ta
có những âm khác nhau . Dưới đây ta sẽ phân loại các âm quan sát theo từng
vị trí.
Âm môi trong đó có hai tiểu nhóm:
+ Môi – môi : p, b, m
+ Môi – răng: ph, v
Âm đầu lưỡi trong đó có hai tiểu nhóm:
+ Đầu lưỡi – răng : t, đ, th, n, x, d, gi, l
Các âm này được phát với đầu lưỡi và mặt răng trong của hàm răng
trên :t, đ, th, n, l ; mặt răng trong của hàm dưới : x, gi, d.
+ Đầu lưỡi – ngạc cứng ( còn gọi là âm quặt lưỡi ): tr, s, r
Các âm này được phát với đầu lưỡi nâng cao và quặt về phía sau để mặt
dưới của đầu lưỡi tiếp cận với phần sau lợi , tức giữa lợi và ngạc.
+ Âm mặt lưỡi ( âm ngạc ): ch, nh. Các âm này được phát với mặt lưỡi tiếp
xúc với ngạc cứng.
+ Âm cuối lưỡi : c (k, q ), ng, kh, g (gh)
Các âm này khi phát âm mặt lưỡi sau tiếp xúc với ngạc tạo nên một
chướng ngại.
+ Âm họng : h
Được cấu tạo do sự đóng hoặc thu hẹp dây thanh.
b) Biện pháp thứ hai:
Sử dụng cử chỉ điệu bộ trong việc day phát âm :
Trong khi mô ta cách phát âm, để giúp học sinh nắm được vị trí phát
âm thôi thường sử dụng hai ngón tay ( ngón cái và ngón trỏ ) như là một bộ
máy phát âm thu nhỏ.
- Ngón tay cái giữ vai trò như : môi dưới, răng dưới, lưỡi.
- Ngón tay trỏ giữ vai trò như : môi trên ,răng trên, lợi, ngạc cứng,
ngạc mền.
a. môi
b. răng
5
c. lợi ( nưới răng )
d. ngạc cứng
đ. ngạc mềm (Có hình minh họa)
e. lưỡi con
g. đầu lưỡi
h. mặt lưỡi trước
i. mặt lưỡi sau ( cuối lưỡi )
k. nắp họng
Dùng cách này kết hợp với việc miêu tả cách phát âm trong lúc giáo
viên phát âm mẫu để học sinh quan sát theo dõi, học sinh nắm được vị trí
phát âm và việc phát âm của học sinh sẽ dễ dàng và chính xác hơn.
Cách này chủ yếu giáo viên dựa vào tiêu chí phát âm của hệ thống
nguyên âm và phụ âm đã nêu ở phần trên.
Cách tiến hành:
- Giáo viên phát âm mẫu, đứng ở vị trí cả lớp dễ quan sát khuôn
miệng , phát âm rõ, chính xác.
- Giáo viên mô tả cách phát âm ( nêu đặc điểm hoạt động của bộ máy phát
âm – chú ý: độ mở của miệng, vị trí của lưỡi, hình dáng của môi )
- Phát âm thị phạm một cách rõ ràng để học sinh theo dõi.
- Phát âm thị phạm lại kết hợp dùng 2 ngón tay mô tả (nếu cần thiết).
- Học sinh phát âm theo mẫu vài lượt, sau đó từng em phát âm lại -
giáo viên nhận xét sửa chữa hoặc cho học sinh biết phát âm đúng thực hiện
lại cho bạn nghe và sửa phát âm sai.
- Luyện phát âm ( Cá nhân – nhóm – cả lớp ).
VD:
+ Hướng dẫn học sinh phát âm : /b/, /p/, /m/.
Ta xác định đây là phụ âm : môi – môi
Giáo viên mô tả cách phát âm và kết hợp dùng hai ngón tay cong lại.
Hai vùng vân tay của hai ngón tay chạm vào nhau vừa phát âm vừa thị phạm
chậm rãi vừa bật hai ngón tay ra theo độ mở vừa phải của miệng.
+ Hướng dẫn học sinh phát âm : /ph/, /v/.
Ta xác định đây là phụ âm môi vùng cản ở môi – răng
Cũng theo cách trên giáo viên dùng 2 ngón tay cong lại, đầu ngón tay trỏ
chạm vào vùng giữa vân tay của ngón cái bật ra.
+ Hướng dẫn học sinh phát âm : /t/, /đ/, /th/, /n/, /l/.
Ta xác định đây là phụ âm lưỡi : đầu lưỡi – răng
Trường hợp này ngón tay cái giữ vai trò là lưỡi, ngón tay trỏ giữ vai
trò của răng. Dùng hai ngón tay cong lại, đầu ngón tay của ngón cái chạm
6
vào vùng cuối của đốt thứ nhất ngón tay trỏ ( mặt răng trong ) bật ra theo độ
mở vừa phải của miệng.
Âm /x/, /d/, /gi/ đầu lưỡi chạm vào mặt răng của hàm dưới nên lúc này
ngón tay trỏ giữ chức năng là lưỡi, chạm vào vùng cuối của đốt thứ nhất của
ngón tay cái giữ chức năng là mặt trong của hàm răng dưới.
+ Hướng dẫn học sinh phát âm : /tr/, /s/, /r/.
Ta xác định đây là phụ âm lưỡi : Đầu lưỡi – ngạc cứng.
Trường hợp này ngón tay cái giữ vai trò là lưỡi, ngón tay trỏ giữ vai
trò là ngạc cứng. Dùng 2 ngón tay cong lại, đầu ngón tay của ngón tay cái
chạm vào vùng giữa đốt thứ hai của ngón tay trỏ bật ra theo độ mở vừa phải
của miệng.
+ Hướng dẫn học sinh phát âm : /ch/, /nh/.
Ta xác định đây là phụ âm lưỡi : mặt lưỡi – ngạc cứng.
Trường hợp này ngón tay cái giữ vai trò là lưỡi, ngón tay trỏ giữ vai
trò ngạc cứng. Dùng 2 ngón tay, ngón tay cái thẳng chạm phần vân tay vào
vùng giữa đốt thứ hai của ngón tay trỏ( ngón tay trỏ hơi cong ) bật ra theo độ
mở vừa phài của miệng.
+ Hướng dẫn học sinh phát âm: /c/ (/k/, /q/ ), /ng/(/ngh/), /kh/, /g/
( /gh/ ).
Ta xác định đây là âm lưỡi: cuối lưỡi – ngạc mềm.
Trường hợp này hơi khó mô tả, chúng ta căn cứ vào tiêu chí phát âm
để hướng dẫn học sinh.
Đây là biện pháp và hình thức hỗ trợ khi dạy học sinh phát âm , tôi
đã áp dụng trong lúc dạy học sinh phát âm. Dùng cách này tuy không tuyệt
đối , nhưng tôi nghĩ nó hỗ trợ rất nhiều nhằm giúp học sinh xác định được vị
trí phát âm và phát âm dễ dàng và chính xác hơn.
c) Biện pháp thứ ba:
Đưa âm vào tiếng trong quá trình phát âm
Biện pháp này sẽ giúp học sinh dựa vào những tiếng trong giao tiếp
quen thuộc hằng ngày để điều chỉnh việc phát âm sai.
Giáo viên áp dụng cách này vào cuối tiết học. Tổ chức cho học sinh
tham gia vào các hoạt động ‘chơi mà học’ để học sinh tìm tiếng có chứa âm
vừa học. Giáo viết những tiếng mà học sinh vừa tìm được lên bảng, gọi học
sinh đọc và theo dõi sửa chữa phát âm cho học sinh.
Đối với những học sinh thường xuyên phát âm sai , giáo viên dưa âm
vào các tiếng đơn giản, vào câu có vần điệu dễ nhớ …nhằm giúp học sinh
luyện tập kĩ năng phát âm .
7
VD:
+ Đưa tiếng đơn giản vào các dấu thanh:
thanh
tiếng
ngang huyền sắc hỏi ngã nặng
mơ mơ mờ mớ mở mỡ mợ
vo vo vò vó vỏ võ vọ
ta ta tà tá tả tã tạ
+ Câu có vần điệu dễ nhớ: Giáo viên tư đặt ra hoặc sưu tầm.
VD:
- Cá rô bỏ vô rổ nghe rồ rồ.
- Vô ý vô tứ.
- Nhổ cỏ nhổ cả rễ…
2.2) Dạy học phần vần :
Như chúng ta đã biết, âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất được phân
định trong chuỗi lời nói, bao gồm một số yếu tố ngữ âm tạo thành.
Mỗi âm tiết được phát ra thành một tiếng, nên âm tiết còn gọi là tiếng.
Sơ đồ cấu tạo âm tiết:
Âm tiết
thanh điệu
Phụ âm đầu vần
âm đệm am âm cuối
Nhìn vào sơ đồ cấu tạo âm tiết ta thấy:
- Cấu trúc âm tiết tiếng Việt gồm 2 bậc:
+ Bậc 1 : gồm 3 phần lớn : phụ âm đầu, vần và thanh điệu.
+ Bậc 2 : Các yếu tố tạo vần ( âm đệm, âm chính, âm cuối ).
- Am chính và thanh điệu là yếu tố không thể thiếu trong bất kì âm tiết
nào.
* Phụ âm đầu : 23 phụ âm tiếng Việt đều có khả năng làm âm đầu.
Đây là âm mở đầu âm tiết , có chức năng khu biệt âm tiết. Nên âm đầu
giữ vai trò rất quan trọng, quyết định sự thành công trong quá trình phát âm.
Giáo viên căn cứ vào tiêu chí phát âm của hệ thông nguyên âm tiếng
Việt đã nêu kĩ ở phần dạy học âm để hướng dẫn học sinh phát âm.
* Phần vần: Chủ yếu học sinh hay sai ở âm đệm và âm cuối.
8
- Âm đêm: còn gọi là âm đầu vần, có chức năng biến đổi âm sắc của
âm tiết làm trầm hoá âm tiết. Vị trí âm đệm không bắt buôc.
Chỉ có hai âm vị / o /, / u / đảm nhiệm thành phần âm đệm này mà
thôi.
Hai âm vị trên thuộc vào hệ thống nguyên âm tròn môi nên khi phát
âm, giáo viên hướng dẫn học sinh tròn môi.
- Âm chính : 14 nguyên âm trong tiếng Việt đều có khả năng đứng
làm âm chính trong âm tiết. Am chính là âm hạt nhân của vần. Am tiết nào
cũng phải có âm chính. Am chính là đỉnh cao của âm tiết trong quá trình
phát âm.
Trên thực tế, khi hướng dẫn học sinh phát âm những âm tiết không có
âm cuối, giáo viên chỉ căn cứ vào các tiêu chí phát âm của nguyên âm và
phụ âm nêu trên để hướng dẫn học sinh phát âm dễ dàng.
VD: tha, thi, thư, thua, thưa, thia…
- Âm cuối : là âm kết thúc âm tiết, có chức năng khu biệt âm tiết.
- Các âm cuối : p, t, c (ch ), m, n, ng ( nh ), và 2 bán âm /u/, /i/.
Các tiêu chí khu biệt:
- Tiêu chí ồn – vang: Tiêu chí này phân âm cuối ra:
+ Các âm ồn : / p, t, c/
+ Các âm vang : /m, n, ng (nh), u, i /
VD: “sắp” với “sắm” và “sáu”
- Tiêu chí mũi – không mũi:Tiêu chí này khu biệt:
+ Các âm mũi: / m, n, ng(nh)/
+ Các âm không mũi : / u, i /
VD: “sắm” với “ sáu”.
- Tiêu chí định vị môi – lưỡi phân các âm cuối ra :
+ Các âm môi : / p, m, u /
+ Các âm lưỡi : / t, c (ch), n, ng(nh), i / . Chia ra:
. Các âm đầu lưỡi : / t, n /
. Các âm mặt lưỡi là : / c(ch), ng (nh) /
Với 4 tiêu chí khu biệt vừa kể trên đây, tiếng Việt có 9 âm vị làm âm
cuối, trong đó có một âm vị / zéro / ( âm tiết khuyết âm cuối ),2 bán
nguyên âm và 6 phụ âm.
Định vị
Phương
thức
Môi
Lưỡi
Đầu lưỡi Mặt lưỡi
Ồn p t c(ch)
Vang Mũi m n ng (nh)
Không mũi u i
9
Sự thể hiện bằng chữ viết của các phụ âm cuối và bán nguyên âm cuối có
thể trình bày bằng một bảng sau:
/ u / - “ u, o “
/ i / - : i, y “
/ m / - “m”
/ n / - “n”
/ ng / - “ ng, nh “
/ p / - “ p “
/ t / - “ t “
/ c / - “ c, ch “
Dưa vào các tiêu chí kể trên của âm cuối , giáo viên sẽ hướng dẫn học
sinh phát âm chính xác hơn.
Những vần cần lưu ý:
- Những vần kết thúc bằng âm“ c”với những vần kết thứ bằng âm “t”:
+ Âm “c” là âm mặt lưỡi.
+ Âm “t” là âm đầu lưỡi.
- Vần “ao” với “au”:
+ Vần “ao” : Căn cứ vào bảng mô tả nguyên âm thì âm “ o”là
nguyên âm tròn môi, độ mở của miệng hơi rộng. Khi phát âm vần “ao” hoặc
những tiếng mang vần “ao” thì kết thúc môi tròn hơi rộng.
+Vần “au” là nguyên âm tròn môi, có độ mở của miệng hẹp. Nên khi
phát âm vần “au” hoặc các tiếng mang vần “au”kết thức môi tròn hẹp, môi
dưới hơi nhích ra so với môi trên.
- Vần “ai” với vần “ay”: Vần “ay” có cường độ mạnh hơn, được phát
âm khép hơn.
- Vần “ in “ với vần “ inh “ : “in” : cường độ yếu, âm sắc của phụ âm
bị bỗng hơn ; “inh” cường độ mạnh.
- Những vần có “ n ” đứng sau với những vần có “ ng ” đứng sau:
. Những vần có “ n ”: kết thúc đầu lưỡi, có âm sắc bỗng hơn.
. Những vần có “ ng ”: kết thúc mặt lưỡi, có âm sắc trầm đi.
3. Kết quả đạt được :
- Qua quá trình áp dụng các biện pháp nêu trên, tôi thấy hiệu quả các
tiết dạy của tôi ngày càng cao, kĩ năng phát âm của các em có cải thiện đáng
kể, đa số các em đều phát âm chính xác các âm, vần đã học ( ngoại trừ
những em bị ngọng, đớt ở một số âm ). Điển hình như em : Võ Minh Tiến bị
đớt âm “ th “ ( em phát âm “th “ thành “thời” ). Đồng thời không khí tiết học
cũng thêm phần sinh động hơn vì giáo viên tổ chức nhiều hoạt động học tập
gây hứng thú cho học sinh, học sinh tiếp thu bài nhanh, phát âm chính xác.
Ở năm học 2006 – 2007, qua việc áp dụng những biện pháp nêu trên,
sau khi học hết phần âm,vần thì hầu hết càc em đều phát âm một cách chính
xác. Đến cuối năm học, các em đã đọc trôi trải đoạn văn, khổ thơ đồng thời
10
phát âm rất tốt các tiếng mang vần có âm “n” làm âm cuối, “t”làm âm cuối,
tiếng mang vần: au, âu…Các tiếng có âm đầu v, x, s, r, tr. Chỉ còn 2 trường
hợp :
STT Họ và tên Âm, vần hay sai Lí do
1 Trần Thị Ngọc Nhi
- au thành ao
- khó phát âm :r, s
- tiếng có thanh nặng
thành thanh ngã
VD:’mẹ’ thành ‘mẽ’
- chậm tiếp thu
- Đọc được nhưng phải
ngưng lạimột chút.
- Không hiểu nguyên
nhân.
2 Võ Hồng Phúc tr, r, s Móm, ngọng.
4. Kiểm nghiệm lại kinh nghiệm:
Phạm vi tác dụng :
Tôi nghĩ, với những biện pháp nêu trên, không chỉ áp dụng trong khi
dạy môn tiếng Việt lớp 1 mà có thể áp dụng cho tất cả khối lớp trên, nhằm
chỉnh sửa cách phát âm cho học sinh , vận dụng chính âm nhằm rèn học sinh
viết đúng chính tả.
Nguyên nhân thành công và tồn tại :
- Việc áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ kết hợp với các tiêu chí phát âm
dẫn đến việc thành công khi hướng dẫn học sinh phát âm.
- Theo dõi sửa chữa cho học sinh trong giờ học cũng như trong giao
tiếp hằng ngày. Nhằm tạo ý thức phát âm đúng cho học sinh.
- Giáo viên luôn gương mẫu trong việc phát âm khi dạy cũng như khi
giao tiếp với học sinh.
- Tuy đã vận dụng các biện pháp nêu trên nhưng ở một số học sinh
vẫn còn lúng túng , phát âm còn sai ở một số âm, vần. Trong khi giao tiếp
bình thường, các em chưa chú ý đến việc phát âm như trong giờ học.
Bài học kinh nghiệm:
Để hướng dẫn học sinh phát âm chính xác, qua nhiều năm giảng dạy
ở khối lớp 1, tôi thấy:
- Việc nắm vững các tiêu chí phát âm là rất quan trọng nhằm làm căn
cứ hướng dẫn các em phát âm chính xác trong giai đoạn đầu.
- Thường xuyên theo dõi sửa chữa cho học sinh trong giờ học cũng
như trong giao tiếp hằng ngày. Nhằm tạo ý thức cho các em trong việc phát
âm sau này.
- Trong quá trình giao tiếp với học sinh, giáo viên phải gương mẫu
trong phát âm.
11
- Trao đổi với đồng nghiệp, tổ chuyên môn những kinh nghiệm,
những nghi vấn nhằm tìm ra tiêu chí phù hợp để có sự thống nhất trong quá
trình giảng dạy.
- Nhà trường nên chăng có sự thống nhất về chính âm .
III. KẾT LUẬN:
Như trên đã nói, chính âm tiếng Việt chỉ tồn tại như là những yêu cầu,
những mong muốn mà không hoặc ít tồn tại trong đời sống, trong thực tiễn
giao tiếp của người bản ngữ. Bên cạnh đó, trong giới nghiên cứu tiếng Việt
lại tồn tại quan niệm cho rằng “ không cần thống nhất giọng nói “, cần phải
tôn trong màu sắc của địa phương trong giọng nói, cần có một quan niệm
uyển chuyển và thực tế về vấn đề chính âm trong tiếng Việt, về hệ thống ngữ
âm chuẩn trong tiếng Việt.
Thực tế nói trên cho thấy, chính âm tiếng Việt là vấn đề gây không ít
đau đầu cho các nhà nghiên cứu giáo dục và có thể nói là gánh nặng không
nhỏ cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt . Vì
trong khi giảng dạy, tất cả giáo viên đều cố gắng phát âm chuẩn để học sinh
thực hành theo nhưng trong thực tế giao tiếp thì do thói quen phát âm của
từng địa phương, vùng, miền …chưa có sự thống nhất trên phạm vi toàn
quốc nên việc thống nhất chính âm là vấn đề phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
chứ không đơn thuần là công việc của ngành giáo dục, của nhà trường.
Trở lại việc dạy môn Tiếng Việt lớp 1, thiết nghĩ, đây là vấn đề phải
đòi hỏi sự chính xác cao, vì trong ngữ âm tiếng Việt đã có quy định rạch ròi
các tiêu chí phát âm, chứ đây không còn là vấn đề vùng, miền, địa phương
nữa.
Nếu có điều kiện tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu về đề tài này . Tiếp tục
hoàn thiện các tiêu chí phát âm của các bộ phận âm tiết : Am đầu, âm đệm,
âm chính, âm cuối và thanh điệu. Nghiên cứu sự khác biệt ở tiêu chí của
từng vùng, miền…để phạm vi đề tài mở rộng và phong phú hơn.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng trong việc dạy học
sinh phát âm đúng trong nhiều năm học qua. Những việc làm đó đã giúp tôi
rất nhiều trong giảng dạy môn Tiếng Việt. Rất mong quý đồng nghiệp tham
khảo, góp ý, cùng nhau nghiên cứu, nhằm tìm ra lời giải thích đáng cho vấn
đề “ chính âm “.
12
13