Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận Công nghệ tri thức và ứng dụng ONTOLOGY LÀ GÌ TẠI SAO CẦN DÙNG ONTOLOGY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.04 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
__
Bài thu hoạch
Công nghệ tri thức và ứng dụng
ONTOLOGY LÀ GÌ? TẠI SAO CẦN DÙNG
ONTOLOGY
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. Hoàn Văn Kiếm
Học viên thực hiện: Huỳnh Văn Trận
MSHV: CH1301066
Tháng 10/2014
2
Ý Kiến














3
Mục lục
CHƯƠNG 1 Ontology là gì? 6
1.1 Khái niệm 6


1.2 Lịch sử phát triển 7
1.2.1 Kiểu bản thể luận thứ nhất 8
1.2.2 Kiểu bản thể luận thứ hai 11
1.2.3 Có hay không một bản thể luận dung hoà được những hạt nhân tích
cực của hai kiểu bản thể luận trên? 15
1.3 Thành phần 20
1.3.1 Các cá thể (Individuals): 21
1.3.2 Các lớp (Classes): 21
1.3.3 Các thuộc tính (Attributes): 22
1.3.4 Các mối quan hệ (Relationships): 22
1.4 Phân loại 23
1.5 Xây dựng Ontology 25
1.5.1 Yêu cầu 25
1.5.2 Phương pháp 26
1.5.3 Bước xây dựng 27
1.5.4 Ngôn ngữ OWL 29
1.5.5 Một số công cụ phát triển Ontology 31
CHƯƠNG 2 Ứng dụng Ontology trong quản lý trang thiết bị y tế 32
4
Giới Thiệu
Thuật ngữ “Ontology” đã xuất hiện từ rất sớm. Trong cuốn sách “Siêu hình”
(Metaphysics) của mình, Aristotle đã định nghĩa: “Ontology là một nhánh của triết
học, liên quan đến sự tồn tại và bản chất các sự vật trong thực tế”. Hay nói cách khác,
đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Ontology xoay quanh việc phân loại các sự vật dựa
trên các đặc điểm mang tính bản chất của nó. Ontology là một thuật ngữ mượn từ triết
học được tạm dịch là “bản thể học”, nhằm chỉ khoa học mô tả các loại thực thể trong
thế giới thực và cách chúng liên kết với nhau. Trong ngành khoa học máy tính và khoa
học thông tin, Ontology mang ý nghĩa là các loại vật và quan hệ giữa chúng trong một
hệ thống hay ngữ cảnh cần quan tâm. Các loại vật này còn được gọi là khái niệm, thuật
ngữ hay từ vựng có thể được sử dụng trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó.

Ontology cũng có thể hiểu là một ngôn ngữ hay một tập các quy tắc được dùng để xây
dựng một hệ thống Ontology. Một hệ thống Ontology định nghĩa một tập các từ vựng
mang tính phổ biến trong lĩnh vực chuyên môn nào đó và quan hệ giữa chúng. Sự định
nghĩa này có thể được hiểu bởi cả con người lẫn máy tính. Một cách khái quát, có thể
hiểu Ontology là "một biểu diễn của sự khái niệm hoá chung được chia sẻ" của một
miền hay lĩnh vực nhất định. Nó cung cấp một bộ từ vựng chung bao gồm các khái
niệm, các thuộc tính quan trọng và các định nghĩa về các khái niệm và các thuộc tính
này. Ngoài bộ từ vựng, Ontology còn cung cấp các ràng buộc, đôi khi các ràng buộc
này được coi như các giả định cơ sở về ý nghĩa mong muốn của bộ từ vựng, nó được
sử dụng trong một lĩnh vực mà có thể được giao tiếp giữa người và các hệ thống ứng
dụng phân tán khác.
Ontology được sử dụng trong trí tuệ nhân tạo, công nghệ Web ngữ nghĩa
(Semantic Web), các hệ thống kỹ thuật, kỹ thuật phần mềm, tin học y sinh và kiến trúc
thông tin như là một hình thức biểu diễn tri thức về thế giới hoặc một số lĩnh vực cụ
thể. Việc tạo ra các lĩnh vực về Ontology cũng là cơ sở để định nghĩa và sử dụng của
cơ cấu một tổ chức kiến trúc(an enterprise architecture framework).
Trong bài thu hoạch này sẽ giới thiệu thế nào là ONTOLOGY, tại sao lại cần
ONTOLOGY. Ứng dụng của ONTOLOGY trong việc mô tả sản phẩm y tế.
5
CHƯƠNG 1 Ontology là gì?
1.1 Khái niệm
Nói một cách đơn giản Ontology là tập từ vựng để mô hình hóa thế giới bên ngoài,
nó đưa ra các khái niệm cơ bản và định nghĩa quan hệ giữa các khái niệm đó trong một
miền lĩnh vực. Đồng thời Ontology còn cung cấp các ràng buộc, là các giả định cơ sở
về ý nghĩa mong muốn của bộ từ vựng.
Ontology được xây dựng nhằm các mục đích sau:
• Chia sẻ hiểu biết chung về cấu trúc thông tin giữa con người và phần mềm
agent
• Sử dụng lại tri thức về một miền lĩnh vực đã được xây dựng từ trước.


Hình 1. Ontology
Trong hình trên ta thấy các ứng dụng khác nhau, muốn trao đổi thông tin với nhau
thì cần phải có một tri thức chung, vì vậy các ứng dụng này đểu sử dụng một Ontology
để có thể chia sẻ tri thức cho nhau.
Ontology được sử dụng rộng rãi trong công nghệ tri thức, trí tuệ nhân tạo, và khoa
học máy tính trong các ứng dụng liên quan đến quản lý tri thức, xử lý ngôn ngữ tự
6
nhiên, thương mại điện tử, tích hợp thông tin, tìm kiếm thông tin, thiết kế cơ sở dữ
liệu…
1.2 Lịch sử phát triển
Ontology được dịch sang tiếng Việt gọi là Bản Thể Luận.
Bản thể luận là một khái niệm căn bản của triết học: Đó là thuật ngữ chỉ rõ quan
điểm của con người nhìn nhận thế giới: Vật chất là khách quan? Nó có trước hay ý
thức có trước? Cái nào quyết định cái nào? Trong sách nghiên cứu và giáo trình triết
học ở Việt Nam, nội hàm của thuật ngữ này được gọi là vấn đề cơ bản của triết học.
Thuật ngữ bản thể luận trong các khoa học xã hội và nhân văn thực chất là sự vận
dụng, mở rộng nội hàm của vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội và nhân
văn. Nếu như trong triết học người ta bàn về quan điểm của con người đối với thế giới
vật chất và thế giới tinh thần và về mối quan hệ giữa chúng, thì trong khoa học xã hội
bản thể luận chính là quan điểm của con người về mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân
(thực tại xã hội là mang tính khách quan hay mang tính chủ quan? Xã hội quy định
hành vi của cá nhân hay chính các hành vi có ý nghĩa của các cá nhân {tạo” thành xã
hội?); Cũng tương tự như vậy, trong nghiên cứu con người, bản thể luận là thuật ngữ
bàn về mối quan hệ giữa hành vi và cấu trúc, giữa cái ý thức với cái vô thức, giữa tâm
lý xã hội và tâm lý cá nhân…
Thuật ngữ bản thể luận bao hàm hai vấn đề:
- Cách nhìn nhận thực tế xã hội (là khách quan hay chủ quan?)
- Xã hội quy định hành vi cá nhân hay chính các hành vi của con người tạo thành
sự tồn tại của xã hội (Cái nào quyết định cái nào?)
Thoát thai từ triết học, các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn (tâm lý học, nhân

học, xã hội học ) đều chịu ảnh hưởng những tư tưởng, những quan điểm của triết học
khi xem xét các sự vật, hiện tượng. Đến nay, có nhiều kiểu phát biểu khác nhau về vấn
đề này, nhưng tựu trung lại, có thể được tóm lược thành hai khuynh hướng đối lập
nhau như sau:
7
1.2.1 Kiểu bản thể luận thứ nhất
1.2.1.1 Nhìn nhận xã hội và văn hóa như là thực tại khách quan:
Đại biểu cho quan điểm này có thể kể từ Francis Bacon ( 1561-1626 ) - người cha
đẻ của tinh thần thực nghiệm khoa học. Nhưng phải đến khi Auguste Comte (1798-
1857) đặt tên sociology cho một bộ môn khoa học mới, thì quan điểm coi xã hội là
một thực tại khách quan và xã hội cũng cần được nghiên cứu bằng những "phương
pháp khoa học"- tức được nghiên cứu theo cách của khoa học tự nhiên- mới được thừa
nhận và phát triển. ( Nói theo ngôn từ của A. Comte thì khoa học nghiên cứu về xã hội
ấy phải được hiểu như là "Vật lý xã hội ")
Trong các nghiên cứu văn hoá của các chuyên ngành như Tâm lý học, Nhân học,
Xã hội học khuynh hướng trên cũng được thể hiện rất rõ.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này trước hết phải kể đến E. Durkheim. Thực tại xã
hội - theo Durkheim - là thực tại khách quan, tính khách quan đó được thể hiện ở “sự
kiện xã hội”, ở “ý thức tập thể”. ông cho rằng, “sự kiện xã hội”-những cách thức hành
động, kể cả tư duy và cảm giác - có đặc tính đáng chú ý là tồn tại ngoài ý thức của cá
nhân.
Các loại hình hành vi hay tư duy đó chẳng những ở bên ngoài cá nhân, mà còn có
sẵn một sức mạnh ra mệnh lệnh và cưỡng bức, nhờ đó mà chúng được áp đặt cho cá
nhân, dù cá nhân đó muốn hay không. Chắc chắn là khi tôi hoàn toàn tự nguyện phù
hợp với nó, sự cưỡng bức ấy sẽ không còn làm cho cảm thấy, hoặc chỉ cảm thấy ít
thôi, vì vô ích. Nhưng nó vẫn là một thực chất bên trong của các sự kiện ấy, chứ không
ít hơn, và bằng chứng là nó tự khẳng định khi tôi cố chống lại.
Trong tác phẩm Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo, Durkheim đã
củng cố lý thuyết của mình về sự kiện xã hội bằng cách cấp cho ý thức tập thể những
biểu hiện cụ thể: Tôn giáo cấp cho nhóm tín đồ một tính thống nhất, một sự gắn bó,

nuôi dưỡng họ bằng hệ thống biểu tượng như nhau về thế giới, các nghi lễ tôn giáo kết
hợp người ta lại trong việc lặp lại những cử chỉ như nhau Cuối cùng, ông đã cố gắng
chứng minh rằng, tôn giáo thực chất là một cách biểu trưng của xã hội - thực tại khách
quan - mà thôi.
Trong nhân học, L. Strauss cũng thể hiện rất rõ quan điểm này khi lập thuyết cấu
trúc luận của mình. Trước hết, ông cho rằng chính Ferdinand de Saussure là tiền bối
8
trực tiếp của mình bởi nhà ngôn ngữ học cấu trúc ấy đã có cách tiếp cận khách quan
hơn cả khi coi ngôn ngữ học chính là tín hiệu học và “cấp cho nó đối tượng là nghiên
cứu sự sống của các tín hiệu trong lòng đời sống xã hội”[dẫn theo 6, tr.43]. Để chỉ rõ
hơn tính khách quan của các tín hiệu ngôn ngữ, ông đã phân biệt ngôn ngữ và lời nói.
“Lời nói là cá nhân, cụ thể và ngẫu nhiên. Trái lại, ngôn ngữ là có tính chất xã hội, trìu
tượng và tất yếu. Muốn làm thành một khoa học ngôn ngữ học phải lấy đối tượng là
ngôn ngữ, là cái duy nhất có thể tiếp cận một cách duy lý, và gạt bỏ lời nói. Như vậy là
con người nói năng, cái chủ thể kinh nghiệm luận bị loại trừ”. Trong nghiên cứu nhân
học, Strauss đã lấy giao tiếp tín hiệu như là một thực tế khách quan để khảo cứu, đó là
“ngôn ngữ huyền thoại, tín hiệu bằng miệng, và bằng cử chỉ tạo nên nghi lễ, qui tắc
hôn nhân, các hệ thống thân tộc, các tục lệ, một vài dạng thức của những trao đổi kinh
tế” [dẫn theo sđd, tr.50]. ông đã khái quát hoá xã hội - cái thực tại khách quan, có thể
quan sát được - bằng định nghĩa sau:{Một xã hội là gồm những cá nhân và những
nhóm giao tiếp với nhau”
Ngoài ra, có thể kể đến những quan điểm trong nhân học của R. C. Brown, hay
Prichart về “thể chế xã hội”, "cấu trúc xã hội " và "liên hệ xã hội ", những nghiên cứu
tâm lý học của E. Fromm về "Tính cách tập thể " hay của K. G. Jung về " Vô thức tập
thể " Tất cả đều thể hiện rất rõ quan điểm: Coi xã hội và văn hóa là thực tại khách
quan.
1.2.1.2 Xã hội quy định hành vi của cá nhân
Trong các chuyên ngành nghiên cứu văn hoá, đặc biệt là trong nhân học và xã hội
học, kiểu bản thể luận thứ nhất thường được thể hiện ở việc lựa chọn lý thuyết tổng thể
luận, coi xã hội là một cấu trúc hữu cơ, tồn tại khách quan và quy định hành vi của các

thành viên trong xã hội. Xã hội học cấu trúc - chức năng của Talcott Parsons chẳng
hạn: Trong lý thuyết này, ông không phủ nhận rằng các chủ thể cá nhân trong xã hội
đã có những giá trị, những niềm tin, những động cơ và những thái độ tương đối riêng,
nhưng các phân tích của Parsons cho rằng các khía cạnh này của kinh nghiệm và ý
nghĩa của nó đến từ bên ngoài cá nhân.
Thái độ và hành vi cá nhân trước tiên và trên hết là những phản chiếu hoặc những
biểu đạt của một văn hóa tập thể không - cá nhân làm phát sinh những mong đợi, niềm
tin và thực hành. Như vậy hệ thống văn hóa được coi như ở bên ngoài ý thức cá nhân,
9
những thành phần cấu trúc của nó, đặc biệt tập hợp thiết chế những chuẩn mực của nó,
cưỡng buộc các cá nhân xử sự theo một cách riêng biệt.
Bởi vậy, kiểu phân tích này cho rằng các cấu trúc xã hội, với tư cách là những cái
quyết định hành vi, không thể bị giảm xuống thành những hành động cá nhân kín đáo
hoặc được xác định bằng những hành động đó.
Có thể đưa ra một vài ví dụ về vấn đề này:
- E.Durkhem có thể được coi là đại biểu thứ nhất cho quan điểm phương pháp luận
này. ông luôn cho rằng, xã hội tồn tại khách quan và độc lập với cá nhân, có thể
nghiên cứu được bằng những phương pháp khoa học. Theo ông, mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội là: các cá nhân bị cưỡng ép phải chấp nhận nền văn hoá của họ chính vì
họ là thành viên của nền văn hoá đó. Xã hội nào cũng thế, các cá nhân không hành
động một cách tuỳ tiện, tự do, vô lối, mà trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định,
trong những tương quan vai trò nhất định, nó phải ứng xử theo những khuôn mẫu nhất
định. Quan điểm phương pháp luận này đã được Durkhem thể hiện khá rõ nét ở tác
phẩm Tự tử: Sự tự tử không phải là hành vi cá nhân (mặc dầu theo quan niệm thông
thường, đây là hành vi mang tính cá nhân nhất ), ngược lại, đó là hành vi mang bản
chất xã hội. Bởi chỉ có sự "điều chỉnh tinh thần" của xã hội mới có thể giải thích được
những biến đổi trong tỷ lệ tự tử ở các dân cư, các nhóm xã hội khác nhau, điều mà
những giải thích tâm lý học về tự tử không làm được.
- Ferdinand Toennies cũng tuân thủ phương pháp luận này khi phân tích mối
tương quan giữa các kiểu xã hội và các tính cách điển hình. Ví dụ, ông cho rằng, trong

các kết cấu xã hội kiểu "cộng đồng" (Khái niệm này chỉ toàn bộ thực tế của một xã hội
tiền công nghiệp, trong đó sự chung sống được xác định bởi sự gần gũi thân thiện, sự
gắn bó và các nhận thức chung, các mối quan hệ giữa con người chưa trở nên xa lạ.
Các mối quan hệ họ hàng, láng giềng bạn bè, hành vi của con người trong xã hội này
được nẩy sinh từ nội lực cá nhân và không chịu ảnh hưởng của bên ngoài) thì kiểu đàn
bà điển hình là nặng về tình cảm, rụt rè, có nhiều năng khiếu mỹ thuật Nhưng khi xã
hội công nghiệp làm tan rã hình thức cuộc sống cộng đồng đó và hình thành một kết
cấu xã hội kiểu mới (Toennies dùng thuật ngữ " xã hội" để chỉ kiểu kết cấu xã hội này)
thì “đàn bà trở nên thông tuệ, lạnh lùng và tự tin. Không còn gì như họ xưa kia, dù có
nhiều biến cải vẫn luôn xa lạ với tự nhiên bẩm sinh, rõ là ghê gớm. Không có gì có thể
10
đặc trưng hơn và có ý nghĩa hơn thế đối với quá trình hình thành và tan rã của cuộc
sống cộng đồng".
Những người theo bản thể luận này (bao gồm 2 điểm 1.1. và 1.2.) được gọi là
những người theo thực chứng luận (positivism). Vì vậy, có thể nói rằng, thực chứng
luận là một kiểu bản thể luận.
Chính kiểu bản thể luận của nhà nghiên cứu sẽ quyết định quan điểm phương pháp
luận và cả sự lựa chọn các phương pháp nghiên cứu của anh ta. Ai nhìn nhận các hiện
tượng xã hội (văn hoá cũng là hiện tượng xã hội) là thực tại khách quan, người đó sẽ
lựa chọn phương pháp luận tổng thể- cấu trúc- thực chứng cho nghiên cứu của mình.
Thực tại xã hội (văn hoá cũng thế) - theo quan điểm thực chứng luận, coi xã hội là
tồn tại khách quan - được cấu tạo bằng những hiện tượng liên kết lẫn nhau một cách
nhân quả.
Cái gì là "thực" chỉ có thể chứng minh là thực do quy chiếu vào bằng cứ thực
nghiệm về sự tồn tại của nó. Trong khi các loại giải thích khác rõ ràng là tồn tại, thì
đối với các nhà khoa học thực chứng luận, chúng không thể chấp nhận được trừ phi
chúng dựa trên cơ sở những bằng cứ có tính thực nghiệm, có thể quan sát được.
Như vậy, các nghiên cứu về xã hội và văn hoá là nhằm vào sự khám phá ra những
mối quan hệ nhân - quả giữa các hiện tượng (hay giữa các thành tố trong một sự vật,
hiện tượng) trong thực tế. Nói cách khác là chúng phải đi tìm những qui luật khoa học

trong các mối tương liên nhân - quả ấy. Theo cách đó, các sự kiện trong tương lai cũng
có thể được dự báo.
Tiếp theo, những nghiên cứu tuân thủ phương pháp luận này phải đưa ra những
giả định về cấu trúc và những quan hệ nhân - quả vẫn còn chưa được chứng minh của
đối tượng nghiên cứu. Đó là giả thuyết. Giả thuyết có thể được xây dựng thành một
lý thuyết nếu nó được kiểm chứng.
1.2.2 Kiểu bản thể luận thứ hai
1.2.2.1 Nhìn nhận xã hội và văn hóa như là thực tại chủ quan :
Quan niệm này có gốc rễ đầu tiên ở nền triết học và khoa học xã hội Đức cuối thế
kỷ XIX-đầu XX. Các học giả Đức như Sombart, Dilthey, Rickert và Weber, tất thảy
đều quan tâm theo nhiều cách phân biệt các khoa học "nhân văn" hoặc "văn hoá" với
11
các khoa học tự nhiên. Họ cho rằng, khác với khoa học tự nhiên (có đối tượng nghiên
cứu là những sự vật tồn tại khách quan, và tìm ra qui luật nhân quả của những sự kiện
"bên ngoài" là mục đích của các nghiên cứu),"đặc trưng của "khoa học nhân văn" (hay
"triết học đời sống") là quan tâm đến tri thức bên trong của "cách cư xử có ý nghĩa",
hoặc, quan tâm đến sự "nắm bắt ý nghĩa" của một kinh nghiệm cá nhân về thế giới.
Một nhà xã hội học đã phát biểu quan điểm của mình về vấn đề này như sau:
Con người không phải là những "sự vật" phải được nghiên cứu theo cách người ta
nghiên cứu cây cỏ hoặc đá, mà là những sinh vật kèm theo giá trị, ý nghĩa mà phải
được hiểu như là những chủ thể và được biết như là chủ thể. Xã hội học đề cập đến
hành động có ý nghĩa, và mọi sự hiểu biết, giải thích, phân tích, hoặc bất cứ gì khác,
phải được tiến hành với sự cân nhắc tới những ý nghĩa đang khiến cho sắp xếp hành
động con người trở nên khả thể áp đặt những ý nghĩa thực chứng luận lên lĩnh vực
các hiện tượng xã hội, đó là bóp méo bản chất cơ bản của sự tồn tại con người.
Theo quan điểm này, nhiều nhà nghiên cứu văn hoá đã nhấn mạnh đến khía cạnh
chủ quan của chủ thể ở từng xã hội cụ thể, cho rằng, văn hoá của một xã hội chỉ được
cấu thành và biểu thị thông qua sự tác động qua lại giữa những chủ thể cụ thể (những
con người cụ thể, trong nhóm cụ thể, trong những hoàn cảnh cụ thể, và ở một xã hội cụ
thể). Có thể dẫn ra ở đây một số ví dụ về cách nhìn nhận thực tại văn hóa theo quan

điểm này:
- Khác với một người thường, một nhà nhân học văn hóa khi quan sát sẽ cố gắng
tìm hiểu để phân biệt sự khác biệt của một cái nháy mắt với một cái chớp mắt. Các nhà
nhân học sẽ dựa vào những hiểu biết về văn cảnh mà hành động được quan sát diễn ra
và cá nhân ấy để phân biệt ý nghĩa của những tín hiệu dường như giống nhau ấy: hoặc
ý nghĩa ấy sẽ là “tôi đang đùa”, hay “em đẹp thật”, hoặc “được đấy” …
- Chúng tôi xin dẫn lại từ cuốn “Nhập môn xã hội học” một ví dụ khác. Sau khi
dẫn quan diểm của W. I. Thomas (cho rằng, hành vi xã hội của con người là sản phẩm
của cái mà họ cho là đang có xung quanh họ và là cái mà họ coi là ý nghĩa trong
những hành vi của những người khác), các tác giả viết:
Ở cấp độ đơn giản nhất, điều này có nghĩa là, nếu ta thấy một người mặc váy, ta sẽ
cho rằng người đó là phụ nữ, và ta sẽ hành động trên cơ sở quyết định đó; hay cho
rằng ai đó đang gào hết sức và đang trong trạng thái kích động hay giận dữ, và ta có
thể hành động tương ứng với suy luận đó. Trong thực tế thì người {phụ nữ{ đó có thể
12
là một người đóng giả đàn bà hay một diễn viên thủ vai phụ nữ trên đường tới nhà hát;
người đang “giận dữ{ hay “kích động” có thể là người bị điếc, hay một ai đó đang gọi
bạn mình ở phía xa. Những cái “sự thực” ở đây không phải là điều quan trọng; vấn đề
là, chúng ta, những con người, cần thiết phải có những quá trình suy luận khi tiếp xúc
với những người khác, cũng như ngược lại khi họ gặp gỡ chúng ta. Từ quan điểm đó,
xã hội là một tập hợp những hoạt động như vậy và trật tự xã hội là trật tự của những
quy ước.
Chính vì thế, những nghiên cứu theo quan điểm bản thể luận này không nhằm vào
việc giải thích các hiện tượng, quá trình văn hoá bằng những qui luật xã hội. Họ cho
rằng, bằng việc "hiểu" các ý nghiã ở những quan hệ tương tác cụ thể, người ta mới có
thể tránh được những áp đặt có tính cách phương pháp luận và lý giải được những
khác biệt và những đặc thù của các nền văn hoá. Đại diện cho khuynh hướng này có
thể kể đến B. Malinowski khi ông cho rằng mục tiêu cuối cùng của các nhà dân tộc
học - nhân học là “nắm bắt cách nhìn nhận của người bản địa, mối quan hệ của họ với
đời sống, hiểu được sự nhìn nhận của họ về thế giới của họ” và những nhà nhân học

văn hóa nổi tiếng khác như F. Boas (khi ông nhấn mạnh vào tính duy nhất của mỗi nền
văn hóa ) Trong Xã hội học những đại biểu cho khuynh hướng này là M. Weber
(người đã ngưòi phát triển từ ngữ Verstehen thành một thuật ngữ điển hình cho
phương pháp “hiểu biết có tính chất giải thích” của phản thực chứng luận),
1.2.2.2 Thế giới được cấu thành thông qua sự tác động qua lại giữa những
chủ thể
Những người theo quan điểm này cho rằng, "Thực tại xã hội được tạo ra một cách
có ý thức và tích cực bởi các cá nhân có ý định làm các chuyện này chuyện nọ và gán
những ý nghĩa cho hành vi những người khác. Vậy là, về mặt bản thể luận, thực tại xã
hội chỉ tồn tại như sự tác động qua lại có ý nghĩa giữa các cá nhân ".
Những ngôn từ trên giống như tuyên ngôn của kiểu bản thể luận thứ hai: Không có
sự tồn tại của xã hội hay văn hoá một cách chung chung, trừu tượng, ngược lại chỉ khi
có những con người cụ thể giao tiếp với nhau trong những hoàn cảnh cụ thể mới tạo ra
thực tại xã hội.
Những người bị chi phối bởi kiểu bản thể luận thứ hai này được coi là những
người theo phản - thực chứng luận, họ luôn cố gắng "xem xét thế giới qua những đôi
mắt của chủ thể và đem ý nghĩa cho nó qua những phương tiện họ sử dụng, bởi lẽ
13
không có thế giới xã hội nào ngoài cái thế giới này". Như vậy, phản- thực chứng luận
là một kiểu bản thể luận.
Thực ra, thuật ngữ "phản - thực chứng" chỉ là một thuật ngữ mang tính qui ước,
dùng để chỉ những quan điểm đối lập với quan điểm thực chứng luận.
Quan điểm này phê phán thực chứng luận chủ yếu ở việc bác bỏ quan điểm " xã
hội có thể được mô tả và hiểu theo một bản thể luận và phương pháp luận coi hành vi
xã hội như phạm trù được quan niệm trước mà thực chứng luận nghĩ ra để định nghĩa
thực tế xã hội".
Phản- thực chứng luận coi mọi sự hiểu biết phải được xuất phát từ các ước vọng
chủ quan, các ý nghĩa giá trị và ngôn ngữ của con người trong đời sống hàng ngày.
Người phản - thực chứng phát hiện hay "mở ra" thực tế xã hội, không phải như
người thực chứng đang làm bằng cách áp đặt những phạm trù người quan sát cho hành

động cá nhân, mà bằng cách lĩnh hội và chấp nhận những nhận thức của các chủ thể và
những giải thích về thế giới được cấu thành thông qua sự tác động qua lại với những
chủ thể khác.
Những người phản - thực chứng luận luôn cố gắng "xem xét thế giới qua những
đôi mắt của chủ thể và đem ý nghĩa cho nó qua những phương tiện họ sử dụng, bởi lẽ
không có thế giới xã hội nào ngoài cái thế giới này". (Các nhà thực chứng luận thường
đặt ra trước những giả thuyết về các mối quan hệ nhân quả và như thế, họ thường nhìn
các sự kiện, hiện tượng bằng đôi mắt của chính mình rồi áp đặt một cấu trúc hoàn toàn
chủ quan vào đối tượng khảo cứu ).
Do vậy, nhiệm vụ chính của các nhà phản thực chứng "không phải sự đo lường
các mối quan hệ được coi là nhân quả giữa các biến cố, mà là sự nắm bắt cách thức mà
cá nhân tạo ra thực tế trong mối tác động qua lại với những người khác ".
Tuy nhiên, trên thực tế, quan điểm phương pháp luận này rất hiếm khi được thực
thi một cách triệt để: thực chứng luận có thể ảnh hưởng ngay từ khi bắt tay vào thiết kế
nghiên cứu (ví dụ vẫn có những giả thiết nghiên cứu hay đánh giá sơ bộ giả thuyết
nghiên cứu ấy), nó cũng có thể tác động vào quá trình phân tích, giải thích thực tế (ví
dụ, mặc dù báo cáo nghiên cứu có tính cách chủ đạo là định tính, nhưng nó vẫn không
thể từ chối những bằng cứ mang tính định lượng công khai hoặc ngấm. Nói như cách
của một số nhà xã hội học thì những nghiên cứu kiểu này đi theo con đường phản thực
14
chứng nhưng “trước khi đến cuối một tý thì dừng phắt lại”. Điều này cũng không phải
là ngoại lệ với M. Weber - ngưòi phát triển thuật ngữ Verstehen thành một thuật ngữ
điển hình cho phương pháp “hiểu biết có tính chất giải thích” của phản thực chứng
luận - đúng như một nhà xã hội học đã nhận xét:
Như chúng ta sẽ thấy về sau, Weber không ăn khớp rõ ràng với quan niệm phản
thực chứng phác hoạ dưới đây, bởi vì, mặc dù ông quan tâm đến việc xã hội học phải
xem xét các ý nghĩa nằm phía sau hành động xã hội, ông vẫn tin rằng một kiểu giải
thích theo thực chứng luận cho một hành động như vậy là điều khả thể.
Trong nghiên cứu văn hoá đương đại, với bản thể luận phản- thực chứng, nhiều
nhà khoa học đã đạt được những thành tự mang tính đột phá, đặc biệt trong lĩnh vực

nghiên cứu tộc người và nhân học sinh thái. Thành tựu ở lĩnh vực này được thể hiện ở
một loạt những thuật ngữ mang tính lý thuyết mới như bản thể luận tham dự
(participatory ontology), liên chủ thể (intersubjecktivity), liên nhân (interperson),{
[xem thêm 3]: Bằng cách này mà các nhà nhân học có thể phát hiện ra, hiểu được và
diễn giải được những vấn đề quan trọng của thế giới quan bản địa của những tộc người
khác nhau (mà kiểu bản thể luận tách biệt -ontology of detachment- phân tách chủ thể
và khách thể, không thể nào hiểu và diễn giải được). Từ đó, những ý tưởng mới mẻ
cho việc nghiên cứu và công cuộc tuyên truyền- vận động bảo vệ môi trường được
hình thành và hiện thực hoá. Vì vậy có thể coi quan điểm nhìn nhận thế giới theo cách
tách biệt chủ thể- khách thể hay tham dự là một tiêu chí mới để phân biệt quan điểm
bản thể luận của từng nhà nghiên cứu.
1.2.3 Có hay không một bản thể luận dung hoà được những hạt nhân tích cực
của hai kiểu bản thể luận trên?
Văn hoá/ xã hội - dù nhìn từ góc độ nào - cũng phải thông qua hoạt động người, vì
thế nó là một thực tại hai mặt: Nó là thực tại khách quan của sự khách thể hoá những
suy tư, kinh nghiệm của con người ở những hành vi xã hội, ở những vai trò xã hội, ở
ngôn ngữ, ở những thể chế và ở hệ thống biểu tượng; Mặt khác, văn hóa/ xã hội cũng
là thực tại chủ quan, bởi nó được tiếp nhận, được sáng tạo và trở thành có ý nghĩa nào
đó bởi chính từ các cá nhân (chứ không phải văn hóa/ xã hội là những gì hoàn toàn
mang tính khách quan, áp đặt vào tất cả các thành viên trong xã hội ở một cường độ và
trình độ như nhau, phản ứng của các thành viên trong xã hội đối với một biểu thị văn
hóa không giống nhau như những phản ứng của các người máy ). Tuy nhiên điều đó
15
không có nghĩa là có hai thực tại văn hóa/ xã hội, mà chỉ có hai mặt của một thực tại,
giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Bởi, xét cho đến cùng, chẳng có một cá thể người nào sống biệt lập một cách tuyệt
đối, (cho dù những cá nhân sống biệt lập với xã hội như Rôbinson thì cũng vẫn phải
thực hành những văn hóa mà xã hội đã áp lên anh ta trước đó), mà nó phải sống, hoạt
động trong nhóm, trong một tập thể, trong một xã hội nhất định. Đúng là, trong một xã
hội có những khác biệt cá thể, nhưng điều đó không có nghĩa là cứ có bao nhiêu cá thể

là có bấy nhiêu sự khác biệt, mà trong một chừng mực nào đó những khác biệt tưởng
như cá thể ấy đã được qui nạp thành một số loại hạng, nhóm xã hội xác định. Như thế,
dù cá nhân có phát triển đến thế nào thì nó cũng bị khuôn hạn bởi những điều kiện
nhất định của xã hội, hay ít nhất cũng bị áp chế bởi những nhóm xã hội mà nó sở
thuộc. A. L. Kroeber đã chứng minh rằng, văn hóa dù là do các cá nhân sáng tạo ra
nhưng nó vẫn manh tính xã hội - khách quan. Ví dụ nổi tiếng của ông là: những đặc
điểm cơ bản của quần áo phụ nữ xuất hiện, sau đó trở nên lỗi thời là một việc bình
thường và có thể dự đoán trước và những khuôn mẫu này độc lập với những nhà thiết
kế riêng lẻ và ông còn nói thêm một ví dụ khác: ở điều kiện của các xã hội nguyên
thuỷ thì một thiên tài như Mozar không thể sáng tạo nổi dù chỉ là một bản sonat.
Về vấn đề này, nhiều nhà xã hội học đã cố gắng đưa ra một cách nhìn nhận biện
chứng đối với thực tế, ví dụ như Anthony Giddens trong cuốn “Sự tổ chức xã hội”
(1985). Ở đây, một mặt chống lại những lập trường cực đoan của thực chứng luận,
Giddens cho rằng, thực tế xã hội không thể được xem như là một vũ trụ có trước, mà
đúng ra phải hiểu nó như một sản phẩm đang xẩy ra của các chủ thể tạo lập một cách
có ý thức thế giới của họ với tư cách là các tác nhân lịch sử. Mặt khác, cùng một lúc
ông lại lý luận rằng, các chủ thể bị kiềm chế bởi các điều kiện cấu trúc trong đó họ
đang sống và mặc dù con người sản sinh ra xã hội nhưng họ vẫn không có quyền lựa
chọn khi làm điều đó. Ở đây, ông đã đưa ra phương án “hoà giải” giữa hai kiểu bản
thể luận thông qua mối quan hệ giữa cấu trúc và hành động như sau: Một mặt, các cấu
trúc được cấu tạo bởi hành động; mặt khác, hành động được cấu tạo về mặt cấu trúc.
[xem 1, tr.466]. Quan điểm này của Giddens càng ngày càng nhận được sự ủng hộ của
giới khoa học, ví dụ các nghiên cứu của Paul Willis: Học tập và lao động (1997) và
Văn hóa trần tục (1978), ở những công trình này ông đã xem xét cung cách trong đó
16
con người - với tư cách là những cá nhân hay những nhóm - đáp ứng với các hoàn
cảnh cấu trúc của họ như thế nào.
Trong các khoa học nghiên cứu văn hóa ngày nay, quan điểm biện chứng ấy về
thực tại văn hóa đã được thể hiện trong những lý thuyết kiểu như lý thuyết tương tác
tượng trưng, phương pháp luận dân tộc học…hay ở những thuật ngữ mang tính

phương pháp luận như tiểu văn hóa, tâm lý nhóm, tâm lý tộc người, kiểu tâm lý hướng
ngoại và kiểu tâm lý hướng nội
Chúng ta đều biết rằng, mỗi quan điểm bản thể luận đều có những mặt hợp lý và
ưu thế của mình nhưng nhà nghiên cứu lại khó có thể cùng một lúc sử dụng cả hai
phương pháp luận cho cùng một nghiên cứu (bởi, nhiều khi đó là hai quan điểm trái
ngược nhau và chúng quyết định việc sử dụng những phương pháp nghiên cứu khác
nhau). Vấn đề là ở chỗ, có thể tìm được mối quan hệ biện chứng giữa hai quan điểm
đối lập này không?
Khi quan niệm: Văn hóa - đối tượng nghiên cứu của văn hóa học - là một hiện
tượng xã hội tổng thể. Điều đó cũng có nghĩa là: Văn hóa học - theo quan điểm của
chúng tôi - cần lựa chọn bản thể luận thực chứng là phương pháp luận chủ đạo. Tuy
nhiên, những yếu tố hợp lý của bản thể luận phản thực chứng cũng sẽ được lưu ý, tiếp
thu hợp lý trong tổng thể của một quy trình nghiên cứu khoa học: Từ bản thể luận tới
hệ thống lý thuyết, tới phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. Theo chúng tôi,
sự tiếp thu này có thể được diễn ra ở hai cấp độ:
a- Cấp độ lý thuyết - phương pháp luận: Về căn bản, Văn hóa học phải coi đối
tượng nghiên cứu là thực tại khách quan và đặt nó vào mối quan hệ với cái tổng thể và
lấy phương pháp luận chủ đạo là phương pháp luận cấu trúc - thực chứng. Tuy nhiên,
cần luôn lưu ý đến những hạt nhân hợp lý của các lý thuyết phản thực chứng, đó là:
- Các lý thuyết phản thực chứng nhấn mạnh vào việc phân tích khả năng cá nhân
hiểu và suy luận ý nghĩa của những hành động của các cá nhân khác trong cùng một
xã hội. Cơ sở của khả năng đó (khả năng biểu nghĩa - tương tác xã hội) là ngôn ngữ
(ngôn ngữ nói, ngôn ngữ cử chỉ, kiểu lối, ) của xã hội ấy. Theo các nhà lý thuyết này,
con người (cá nhân) trong một xã hội không chỉ đơn thuần tiếp thu nền văn hóa đã có
sẵn của xã hội (một cách thụ động) - như cách tuyệt đối hoá của một số quan điểm
thực chứng luận, mà có sự lựa chọn và sáng tạo. Nói cách khác, trong các nghiên cứu
văn hóa và xã hội, những quy luật xã hội hoá được coi là những nguyên tắc phương
17
pháp luận căn bản, nhưng vẫn cần lưu ý đến vai trò của cá nhân, bởi “ xã hội hoá
không bao giờ chỉ đơn giản là vấn đề tiếp thu những quy luật xã hội có sẵn” và “về

bản chất, xã hội hoá cũng là một phương tiện tạo ra sự thay đổi do con người học được
hành vi chứ không phải hành vi được xã hội khoác lên con người”
Như vậy, mối quan hệ biện chứng ở đây là: Cá nhân, trước hết là sản phẩm của xã
hội, nhưng cá nhân lại cũng có thể khởi xướng ra hành động mới và đổi mới ý thức
[xem sđd, tr. 38] Chính điều này giải thích được những biến động trong lĩnh vực tư
tưởng, đặc biệt trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật: cùng một mặt bằng kinh tế, cùng
chịu chung những cưỡng chế xã hội, cùng tiếp thu một truyền thống, thậm chí cùng
trình độ học vấn nhưng lại có những cá nhân vượt trội lên trên những người khác trở
thành những nhà tư tưởng có tính cách cách mạng, hoặc những nghệ sỹ sáng lập ra
những trào lưu nghệ thuật mới. Và chính những đột biến tưởng chừng cá thể ấy đã làm
thay đổi có khi là cả một xã hội.
- Chính các quan điểm phương pháp luận hành vi - phản thực chứng tránh được
cái nhìn chủ quan, mang tính áp đặt của các nhà nghiên cứu đối với đối tượng khảo
cứu, điều mà L. Strauss đã cảnh báo đối với các nhà xã hội học thực chứng: “Khi một
nhà xã hội học Pháp của thế kỷ XX khởi dựng một lý thuyết đại cương về đời sống
trong xã hội, thì lý thuyết ấy sẽ luôn xuất hiện và theo cách hợp thức nhất ( ), là tác
phẩm của một nhà xã hội học Pháp của thế kỷ XX"[dẫn theo 2, tr.23]. Đây cũng là sự
khuyến cáo xác đáng đối với giới khoa học ở nước ta: Không thể áp dụng một cách
máy móc, y nguyên một chương trình nghiên cứu, hay nhỏ hơn là một bộ câu hỏi điều
tra của các nhà nghiên cứu nước ngoài cho người Việt Nam. Cũng tương tự như thế,
không thể áp dụng y nguyên những gì đã dùng để nghiên cứu người Việt (ở đồng bằng
Bắc Bộ chẳng hạn) cho người Việt ở vùng khác, lại càng không thể như thế đối với
những đối tượng khảo sát là đồng bào các dân tộc ít người.
Ở nước ta, đây là vấn đề không chỉ mang tính lý thuyết thuần tuý, mà nó còn có ý
nghĩa rất quan trọng trong quá trình nhận thức và tác động đến thực tiễn. Thực tiễn văn
hóa - xã hội ở Việt Nam trong nhiều năm qua đã cho thấy, nhiều chính sách xã hội
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống cho đồng bào các
dân tộc ít người đã không phát huy được tác dụng, sở dĩ như vậy là những người đề ra
chính sách đã không thực sự “hiểu” được con người, văn hóa, xã hội của đồng bào dân
tộc, thậm chí lại lấy chính những tiêu chí về văn hóa - xã hội của người Việt để áp đặt

18
vào cuộc sống của họ: Ví dụ, nhiều buôn làng ở Tây Nguyên được nhà nước hỗ trợ để
định cư, trồng lúa nước hai vụ, đào giếng nước, xây nhà văn hóa, ở theo lối nhà của
người Việt, thậm chí, có nơi đồng bào còn thờ cúng tổ tiên như người Việt vv Rõ
ràng là, nếu có những nghiên cứu dân tộc học, nhân học theo cách “thâm nhập” và
“hiểu” đồng bào các dân tộc thì chúng ta sẽ biết rằng, nhiều tộc người không phải du
canh, du cư (như chúng ta thường diễn đạt), mà là chuyển canh theo cách hiểu khoa
học của từ này: Họ có ý thức về địa lý, sở hữu và thổ nhưỡng của những khu đất mà
họ canh tác; họ hiểu rằng khi nào thì phải chuyển địa điểm canh tác, khi nào thì những
địa điểm đã được khai thác lại có thể canh tác trở lại được.
- Nhiều khi những nghiên cứu theo quan điểm thực chứng thường ưu tiên cho mục
đích khái quát hoá, tìm ra cái chung và tính qui luật của hiện tượng mà không lưu ý
đúng mức tới cái riêng, cái đặc thù của hiện tượng, do đó nhiều khi dẫn tới những kết
luận khoa học khái quát có tính khiên cưỡng.
Các nghiên cứu dân tộc học, nhân học về hiện tượng Totem là một ví dụ. Khởi
đầu, một thông dịch viên đưa vào ngôn từ dân tộc học danh từ Totem, gần 100 năm
sau, Mac Lennan đã đưa danh từ này trở thành một thuật ngữ dân tộc học nổi tiếng với
công thức:
Đạo vật tổ= Thờ vật+ kết hôn ngoại tộc+ mẫu hệ.
Từ đó, các nhà nghiên cứu càng ra sức khái quát hoá thuật ngữ này và đã có lúc,
nhiều nhà nghiên cứu đã coi những cố gắng ấy như những tiên đề lý thuyết có tính
phổ quát. Sau này, nhờ những tư liệu đa dạng hơn, phong phú hơn, chi tiết và mang
tính thâm nhập hơn, người ta đã nhận ra rằng: Totemism không phải là hiện tượng
phổ biến, toàn cầu như người ta tưởng, và nhiều hiện tượng mà bề ngoài tưởng như
giống Totem, nhưng thực chất không phải là thế. Vì thế, nhiều nhà khoa học đã phản
bác lại lý thuyết trên, ví dụ, Goldenweiser cho rằng không thể xác định một cách tuyệt
đối đạo vật tổ được, bởi nó “không có tính cách hệ thống và tổng quát” [sđd,tr. 33];
Hoặc như Lowie (trong cuốn Primitive Society) cũng cho rằng, thuyết vật tổ tỏ ra quá
tham lam và quá tổng quát.
Rõ ràng là, nếu các nhà nghiên cứu biết kết hợp quan điểm phản thực chứng ở đây

thì sẽ tránh được cách nhìn ngộ nhận về thực tại văn hóa ấy - hiện tượng Tôtem.
19
b- Cấp độ thực thao: Sự tiếp nhận quan điểm và phương pháp phản thực chứng ở
cấp độ này - theo chúng tôi - là dễ dàng hơn, nếu chúng ta coi việc sử dụng chúng
trong sự kết hợp với các quan điểm và phương pháp cấu trúc - thực chứng như là
những chuỗi phương pháp liên tiếp của một quá trình nghiên cứu: từ “hiểu” thực tế
đến khái quát, mô hình hoá, cấu trúc hoá thực tế.
Thực vậy, nếu các quan điểm bản thể luận khác nhau như thế không bị tuyệt đối
hoá về mặt phương pháp luận, thì trên bình diện phương pháp, chúng ta sẽ thấy ở đó
chỉ là sự khác biệt về cấp độ khảo sát và khả năng liên kết của các phương pháp ấy-
đúng như L. Strauss đã viết:
Người ta trước tiên thấy sự quan sát, là điều tiêu biểu cho dân tộc học miêu tả. Qui
tắc là phải miêu tả cho tốt, càng khách quan càng tốt, bằng cách gạt bỏ mọi thành kiến
về lý luận. Nhà dân tộc học miêu tả cung cấp như vậy một tài liệu mà nhà dân tộc học
lý luận phải thâu tóm lần này trong một công trình lý luận, bằng cách kiến tạo một mô
hình sẽ cho phép hiểu được các dẫn liệu đã được quan sát. Đó là cấu trúc. Sự quan sát
và phương pháp cấu trúc như vậy được hiểu như là hai chặng đường bổ sung cho nhau
trong việc xây dựng một nhân học thực nghiệm.
Kết thúc bài viết này, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng: Bản
thể luận là tri thức căn cốt của một nhà nghiên cứu xã hội- nhân văn nói chung và
nghiên cứu văn hoá nói riêng, bởi nó không chỉ quy định việc anh ta lựa chọn những lý
thuyết, phương pháp luận cho các nghiên cứu của mình mà còn quyết định cả việc lựa
chọn và phối hợp các phương pháp nghiên cứu nữa.
1.3 Thành phần
Các thành phần thường gặp của Ontology bao gồm:
 Các cá thể(individuals): các thực thể hoặc các đối tượng (các đối tượng cơ
bản hoặc cấp độ nền).
 Các lớp(classes): các tập hợp, các bộ sưu tập, các khái niệm, các loại đối
tượng, hoặc các loại khác.
 Các thuộc tính(attributes): các khía cạnh, đặc tính, tính năng, đặc điểm,

hoặc các thông số mà các đối tượng (và các lớp) có thể có.
20
 Các quan hệ(relations): cách thức mà các lớp và các cá thể có thể liên kết
với nhau.
 Các thuật ngữ chức năng(function terms): cấu trúc phức tạp được hình
thành từ các mối quan hệ nhất định có thể được sử dụng thay cho một thuật
ngữ cá thể trong một báo cáo(statement).
 Các sự hạn chế(restrictions): những mô tả chính thức được tuyên bố về
những điều phải chính xác cho một số khẳng định được chấp nhận ở đầu
vào.
 Các quy tắc(rules): tuyên bố có hình thức như một cặp nếu-thì (if-then) mô
tả suy luận logic có thể được rút ra từ một sự khẳng định trong từng hình
thức riêng.
 Các tiên đề(axioms): các khẳng định (bao gồm các quy tắc) trong một hình
thức hợp lý với nhau bao gồm các lý thuyết tổng thể mà Ontology mô tả
trong lĩnh vực của ứng dụng.
 Các sự kiện(events): sự thay đổi các thuộc tính hoặc các mối quan hệ.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu một số thành phần quan trọng nhất của một
Ontology.
1.3.1 Các cá thể (Individuals):
Các cá thể là các thành phần cơ bản, nền tảng của một Ontology. Các cá thể trong
một Ontology có thể bao gồm các đối tượng cụ thể như con người, động vật, cái bàn…
cũng như các cá thể trừu tượng như các thành viên hay các từ. Một Ontology có thể
không cần bất kỳ một cá thể nào, nhưng một trong những lý do chính của một
Ontology là để cung cấp một ngữ nghĩa của việc phân lớp các cá thể, mặc dù các cá
thể này không thực sự là một phần của Ontology.
1.3.2 Các lớp (Classes):
Các lớp là các nhóm, tập hợp các đối tượng trừu tượng. Chúng có thể chứa các cá
thể, các lớp khác, hay là sự phối hợp của cả hai. Một số ví dụ về các lớp học:
Người (person), các lớp của tất cả mọi người, hay đối tượng trừu tượng có thể

được mô tả bởi các tiêu chí để trở thành một con người.
21
Phương tiện xe cộ (vehicle), các lớp của tất cả các phương tiện xe cộ, hay đối
tượng trừu tượng có thể được mô tả bởi các tiêu chí để được một phương tiện xe cộ.
Xe hơi (cars), các lớp của tất cả các xe ô tô, hoặc đối tượng trừu tượng có thể được
mô tả bởi các tiêu chí để được một chiếc xe hơi.
Lớp học (class), đại diện cho lớp của tất cả các lớp học, hay đối tượng trừu tượng
có thể được mô tả bởi các tiêu chí để được một lớp học.
Đồ vật (Thing), đại diện cho lớp của tất cả mọi đồ vật, hoặc đối tượng trừu tượng
có thể được mô tả bởi các tiêu chí để được đồ vật.
Các Ontology biến đổi tuỳ thuộc vào cấu trúc và nội dung của nó: Một lớp có thể
chứa các lớp con, có thể là một lớp tổng quan (chứa tất cả mọi thứ), có thể là lớp chỉ
chứa những cá thể riêng lẻ, Một lớp có thể xếp gộp vào hoặc bị xếp gộp vào bởi các
lớp khác. Mối quan hệ xếp gộp này được sử dụng để tạo ra một cấu trúc có thứ bậc các
lớp, thường là với một lớp thông dụng nhất ở trên đỉnh và các lớp có kiểu rõ ràng cụ
thể ở phía dưới cùng.
1.3.3 Các thuộc tính (Attributes):
Các đối tượng trong Ontology có thể được mô tả thông qua việc khai báo các
thuộc tính của chúng. Mỗi một thuộc tính đều có tên và giá trị của thuộc tính đó. Các
thuộc tính được sử dụng để lưu trữ các thông tin mà đối tượng có thể có. Ví dụ, đối với
một cá nhân có thể có các thuộc tính: Họ tên, ngày sinh, quê quán, số CMND… Giá trị
của một thuộc tính có thể là một kiểu dữ liệu phức tạp.
1.3.4 Các mối quan hệ (Relationships):
Mối quan hệ (còn gọi là quan hệ) giữa các đối tượng trong Ontology định rõ như
thế nào các đối tượng này có liên quan đến các đối tượng khác. Đặc trưng là một mối
quan hệ loại riêng biệt (hay lớp) mà quy định cụ thể trong chiều hướng các đối tượng
này có liên quan đến các đối tượng khác trong Ontology.
Chủ yếu sức mạnh của Ontology đến từ khả năng mô tả các mối quan hệ. Cùng
với nhau, tập hợp các mối quan hệ mô tả ngữ nghĩa trong một lĩnh vực nào đó. Các
thiết lập của các loại quan hệ được sử dụng(các lớp của các quan hệ) và hệ thống phân

cấp của nó mô tả sức mạnh biểu hiện của ngôn ngữ trong đó Ontology được thể hiện.
22
Một kiểu quan hệ quan trọng là kiểu quan hệ xếp gộp (subsumption). Kiểu quan
hệ này mô tả các đối tượng nào là các thành viên của các lớp nào của các đối tượng.
Ontology có thể phân biệt giữa các loại khác nhau của các quan hệ.
Ví dụ:
Loại quan hệ dành cho các quan hệ giữa các lớp
Loại quan hệ dành cho các quan hệ giữa các cá thể
Loại quan hệ dành cho các quan hệ giữa một cá thể và một lớp
Loại quan hệ dành cho các quan hệ giữa một đối tượng đơn lẻ và một bộ sưu
tập (collection)
Loại quan hệ dành cho các quan hệ giữa các bộ sưu tập
Loại quan hệ đôi khi là một lĩnh đặc trưng và sau đó được dùng để lưu trữ các
loại đặc trưng của sự kiện hoặc trả lời từng loại câu hỏi riêng biệt. Nếu các định
nghĩa của các loại quan hệ được bao gồm trong một Ontology, sau đó Ontology
định nghĩa riêng ngôn ngữ Ontology của nó.
1.4 Phân loại
Từ khi bắt đầu nghiên cứu về Ontology trong Khoa học máy tính, Ontology đã
được quan tâm với mong muốn tăng cường việc sử dụng lại hệ thống cơ sở tri thức bên
trong, và nó cũng đưa ra nhiều dạng Ontology mô tả khả năng khác nhau cho việc tái
sử dụng hệ thống cơ sở tri thức. Sự phân loại Ontology có thể được tạo ra theo chủ đề
của sự khái niệm hóa.Trong khía cạnh này, phần cốt lõi nhất được tổng kết theo hình
bên cạnh.
23
Top - Level Ontology
Domain Ontology
Task - Ontology
Application Ontology
Hình 2. Phân loại Ontology
Top-level Ontology: còn gọi là Ontology lớp cao, nhằm diễn tả những khái niệm

tổng quan và trừu tượng có thể được chia sẻ qua nhiều lĩnh vực và ứng dụng. Nó mượn
các ý niệm triết học mô tả những khái niệm lớp cao cho mọi vật về sự tồn tại của
chúng, như đối tượng vật chất hay đối tượng trừu tượng như là các ý niệm có đặc điểm
chung về tri thức nhận thức thông thường về hiện tượng như thời gian, không gian, các
tiến trình Do sự tổng quan của đó, nó không sử dụng trực tiếp trong các ứng dụng,
mà thông qua các Ontology khác.
Domain Ontology và task Ontology: các loại Ontology này lấy tri thức từ trong
những lĩnh vực xác định, như trong y khoa, địa lý hay tri thức về một tác vụ riêng biệt
như sự chẩn hoặc sự cấu hình. Về mặt ý tưởng thì Ontology loại này thu hẹp hơn và
xác định hơn so với Top-level Ontology. Sự khái niệm hóa trong một Domain
Ontology là giữ các tác vụ độc lập, khi những ý niệm trong một tác vụ Ontology được
miêu tả không có tính chất rõ rệt với chi tiết cụ thể đến một lĩnh vực. Sự phát triển của
Domain Ontology được thực hiện nhiều ở các lĩnh vực: y học, di truyền, địa lý, du
lịch, thông tin môi trường. Còn Task Ontology được phát minh cho các tác vụ xây
dựng, sắp xếp kế hoạch làm việc, giám sát trong một lĩnh vực khoa học, cơ sở tri thức
máy tính dạy học, sự theo dõi phóng tên lửa, các tác vụ hướng dẫn điều trị bệnh
Application Ontology: càng thu hẹp về phạm vi, Application Ontology cung cập
một bộ từ vựng xác định được yêu cầu để mô tả sự ban hành các tác vụ chắc chắn
trong một ngữ cảnh ứng dụng cụ thể. Đặc biệt, nó sử dụng cả Domain Ontology và
Task Ontology và mô tả vai trò của chúng trong một tác cụ thể.
Chúng ta có thể thấy hệ thống phân cấp của Ontology thông qua sự trình bày ở
trên: Ontology ở lớp thấp hơn kế thừa và chuyên môn hóa các khái niệm và mối quan
hệ từOntology lớp trên. Ontology lớp thấp cụ thể hơn và phạm vi ứng dụng thu hẹp
hơn, còn Ontology ở lớp cao có khả năng rộng hơn, chủ yếu dành cho việc kế thừa và
sử dụng lại.
24
1.5 Xây dựng Ontology
1.5.1 Yêu cầu
Ngôn ngữ Ontology cho phép người sử dụng viết rõ ràng, các khái niệm hình thức
của mô hình miền. Các yêu cầu chính:

Cấu trúc rõ ràng: đây là điều kiện cần cho máy có thể xử lý thông tin.
Ngữ nghĩa hình thức miêu tả ý nghĩa tri thức một cách chính xác: Ý nghĩa của ngữ
nghĩa hình thức tồn tại trong một thời gian dài trong miền toán logic. Việc sử dụng
ngữ nghĩa hình thức cho phép con người suy diễn tri thức. Với tri thức trong Ontology
chúng ta có thể suy diễn về:
Thành viên của lớp: Nếu x là một thể hiện của lớp C và C là lớp con của lớp D
thì chúng ta có x là thể hiện của lớp D
Các lớp tương đương: Nếu lớp A tương đương với lớp B và lớp B tương đương
với lớp C, thì lớp A cũng tương đương với lớp C.
Tính nhất quán: Giả sử chúng ta khai báo x là thể hiện của lớp A và A là lớp con
của B∩ C, A là lớp con của lớp D, Lớp B và lớp D không có quan hệ với nhau
(disjoint). Thì chúng ta không nhất quán bởi vì A nên là rỗng nhưng lại có thể hiện là
x. Đây là một dấu hiệu của một lỗi trong Ontology.
Phân loại : nếu chúng ta khai báo các cặp thuộc tính giá trị đã biết là điều kiện đủ
cho thành viên trong một lớp A, thì nếu một cá thể x thỏa mãn các điều kiện, chúng ta
có thể kết luận x phải là một thể hiện của A.
Ngữ nghĩa là điều kiện tiên quyết cho việc hỗ trợ suy diễn: Hỗ trợ suy diễn rất
quan trọng bởi vì nó cho phép kiểm tra tính nhất quán của Ontology và tri thức, kiểm
tra các quan hệ thừa giữa các lớp, tự động phân loại các thể hiện trong lớp.
Ngữ nghĩa hình thức và hỗ trợ suy diễn thường được cung cấp bởi việc ánh xạ
một ngôn ngữ Ontology đến hình thức logic và sử dụng suy diễn tự động bởi các hình
thức luôn tồn tại. OWL được ánh xạ logic miêu tả và sử dụng các suy diễn đang tồn tại
như FaCT và RACER. Các logic mô tả là tập con của logic vị từ nhằm hỗ trợ suy diễn
hiệu quả.
25
1.5.2 Phương pháp
Ngày nay, việc nghiên cứu quá trình xây dựng ontology ngày càng được quan tâm
nhiều hơn. Có rất nhiều nhóm sau quá trình nghiên cứu đã đưa ra các phương pháp
khác nhau nhằm xây dựng Ontology.
Phương pháp Ushold & King được xây dựng dựa trên việc phát triển Enterprise

Ontology. Phương pháp này chủ yếu tập trung vào việc giúp người phát triển từ mục
đích của ontology có thể có những hướng phát triển như thế nào, sau đó đánh giá và
viết tài liệu cho ontology. Trong quá trình xây dựng, người dùng có thể tích hợp các
ontology có sẵn vào ontology đang xây dựng. Ba cách tiếp cận sau được đưa ra nhằm
định nghĩa các khái niệm chính trong ontology: cách tiếp cận top-down, bottom-up và
middle-out. Phương pháp luận này được xây dựng không phụ thuộc vào ứng dụng,
nghĩa là mục đích xây dựng ontology độc lập với quá 13 trình xây dựng chúng, không
phụ thuộc vào nhau. Với bất kì ứng dụng nào, chúng ta đều có thể sử dụng chung
phương pháp này.
Phương pháp luận tiếp theo được phát triển bởi Gruninger và Fox, được phát triển
thông qua dự án ontology Toronto Virtual Enterprise (TOVE). Hệ thống này được xây
dựng bắt nguồn từ tư tưởng về sự phát triển hệ thống dựa trên tri thức, sử dụng first
order logic. Trong phương pháp này, các khái niệm nổi bật nhất được định nghĩa trước
tiên, sau đó làm chi tiết và tổng quát hóa các khái niệm đó theo các hướng thích hợp.
Như vậy, phương pháp này bắt đầu từ một số các khái niệm ở mức cao, đi rồi đến các
khái niệm ở mức thấp và tổng quát ở các mức cao hơn. Phương pháp này sử dụng cách
tiếp cận middle-out để định nghĩa các khái niệm và một phần phụ thuộc vào ứng dụng
sau này của ontology, nghĩa là trước khi xây dựng ontology, người dùng cần quyết
định mục đích sử dụng và tích hợp ontology vào ứng dụng gì.
METHONTOLOGY là một phương pháp xây dựng Ontology được phát triển từ
phòng nghiên cứu trí tuệ nhân tạo của trường ĐH Polytechnic Madrid. Phương pháp
này cho phép người sử dụng có thể xây dựng một ontology mới dựa trên bản mẫu thiết
kế mới hoặc có thể sử dụng những ontology có sẵn. Bộ framework của
METHONTOLOGY có thể giúp người dùng xây dựng cấu trúc ontology ở mức độ tri
thức và bao gồm: định nghĩa quy trình phát triển ontology, một số kỹ thuật trong quá
trình xây dựng quy trình trên (ví dụ quản lý và lập lịch, quản lý chất lượng, thu thập dữ
26

×