Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Viết bài văn phân tích đoạn trích” hạnh phúc của một tang gia” trong tác phẩm số đỏ của vũ trọng phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.77 KB, 3 trang )

Viết bài văn Phân tích đoạn trích” Hạnh phúc của
một tang gia” trong tác phẩm Số đỏ của Vũ trọng
Phụng.
Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa.
Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng
trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế ki XX.
Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn
như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn tượng là chương Hạnh phúc của một tang
gia. Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang,
thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng náo, ấy vậy mà lại hạnh phúc.
Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại
chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui như Tết: con cái, cháu chắt, họ
hàng thân thích, người quen biết… ai cũng thấy đây là một dịp may hiếm có để thoả mãn
một nguyện vọng, một ý đồ nào đó. Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố
bịch của những hạng người mang danh là thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng
thực chất lại là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy. Trong
chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những
tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ
Tổ. Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ
mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của cụ đã đem
đến cho họ niềm vui to lớn không che giấu nổi – một “hạnh phúc”: Cái chết kia đã làm
cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng vui sướng thoả thích…
Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma… Tang
gia ai cũng vui vẻ cả… Cậu tú Tân, chậu nội cụ Tổ hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có
dịp trổ tài sử dụng cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu
dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn trắng viền đen… để
quảng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ của cửa hàng Âu hoá vừa mới chế ra. Còn người
con trai cả của cụ Tổ thì sung sướng vì một lí do khác lớn hơn. Cụ cố Hồng mơ màng đến
cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ
bình phẩm, ngợi khen: úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Văn Minh (cháu nội),
đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có lấy một mảnh bằng, chỉ nhăm


nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì
thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Riêng người cháu rể (Phán mọc
sừng) lại khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia
cho con gái và con rể thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị
đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế! Không khí của đám ma là không
khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt
xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay., Có
đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng
điếu, vài trăm người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ,
trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn
rã của lốc bốc xoảng và bu-dích… Đám ma cụ Tổ trở thành dịp may hiếm có để trưng
bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hoá mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh –
sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typn. Cô Tuyết cháu gái cụ Tổ với bộ y phục
ngây thơ khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà
có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong
làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn… ai oán,
não nùng. Bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh cũng làm cho mọi người phải
xuýt xoa, trầm trồ… Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè,
quan khách của tang chủ, đi đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy
những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng
bội tinh…. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung
hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loàn quản…Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái
lịch đang theo đuổi, học đòi phong trào Âu hoá, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau,
bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những
chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma (!) Điều đó chứng tỏ họ
hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá. Người dân
hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người
trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma
to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong
quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai,

chua chát! Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời
đến mức lố lăng, là thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và bao
trùm lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người. Song song với việc mô tả
hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể
hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những
bức biếm hoạ trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát
ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người.
Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức loè
loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt
trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức. Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy
sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt,
trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ,
sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến
cho bà cố Hồng càng thêm sung sướng: Ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được
to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng
phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn. Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa
mai, trào phúng. Vũ Trọng Phụng tả nó như một vở kịch mà bận tay dàn dựng của đạo
diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn: cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong
lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi
mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười
ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng: ông oặt
người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức. Ông
thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi
người. Thực ra, cụ Tổ chết ông ta rất mừng vì được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của
bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông Phán dúi nhanh vào tay
Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư… để trả công hắn đã gọi ông là
Phán mọc sừng trước họ hàng nhà vợ, nhờ đó mà ông ta có thêm được một món tiền lớn.
Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện
của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại,
làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật, ông chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng

và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu
sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động, một bức biếm hoạ khổng lồ
và chi tiết về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày
tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại trước mắt mọi người.

×