Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

Phân tích và lựa chọn công nghệ xử lý nước thải tái chế giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (817.22 KB, 148 trang )

1 | P a g e
MỞ ĐẦU

Trong thời đại ngày nay phát triển kinh tế luôn đi kèm với bảo vệ môi
trường, không thể chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế mà bỏ qua yếu tố môi
trường. Tuy nhiên đây là một vấn đề khá khó khăn khi tiếp cận bởi vì ta có
thể thấy rõ là không có một hoạt động phát triển kinh tế nào mà lại không tác
động đến môi trường dù ít hay nhiều. Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là chúng
ta phải làm sao để cho kinh tế vẫn tăng trưởng tốt, ổn định mà môi trường
vẫn được bảo vệ đầy đủ. Có nhiều phương án đưa ra, và một trong các
phương án được chấp nhận rộng rãi đó là tái chế chất thải.
Trong ngành tái chế chất thải sinh hoạt, tái chế giấy là một ngànhh kinh
tế đang được chú trọng đến được chú trọng và thu hút đầu tư và nền tái chế
giấy đang ngày càng phát triển và mang lại lợi ích về kinh tế cũng như về
môi trường như tiết kiệm khai thác tài nguyên rừng, giảm bớt lượng giấy
thải ra môi trường, tiết kiệm chi phí vận chuyển xử lý rác thải do giấy phát
sinh ra, giảm thiểu lượng thải khi sản xuất… Nhưng bên cạnh đó ngànhh tái
chế giấy cũng gây ra những vấn đề về môi trường đặc biệt là nước thải gây
ảnh hưởng đến con người và môi trường. Vì vậy việc “phân tích và lựa chọn
công nghệ xử lý nước thải tái chế giấy” hết sức quan trọng và đây cũng là
đề tài tốt nghiệp mà em chọn
2 | P a g e
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH TÁI CHẾ GIẤY CÁC VẤN
ĐỀ LIÊN QUAN MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN
I.1 Giới thiệu về ngành tái chế giấy
Tái chế là hoạt động thu hồi lại từ chất thải các thành phần có thể sử
dụng để chế biến thành các sản phẩm mới sử dụng lại cho các hoạt động sinh
hoạt và sản xuất. Tái chế là ngành xuất hiện rất sớm theo cuốn tạp chí “ tái
chế qua các nền văn minh “ thì Alfred Nijkerk đã tham gia vào công nghiệp
phế liệu từ 1956, nhưng nay ông còn muốn đi ngược trở lại xa hơn vào lịch
sử thì tới 7000 năm trước đã xuất hiện các hoạt động. Qua đó ta có thể thấy


tái chế xuất hiện rất sớm hoạt động tái chế. Qua các thời kỳ ngành tái chế
ngày càng phát triển và cho đến thời đại ngày nay thì tái chế là ngành công
nghiệp được quan tâm và chú trọng hết sức đặc biệt. Nhất là khi tài nguyên
thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, nguồn nguyên liệu để phục vụ cho sản xuất
công nghiệp bị hạn chế và tái chế có thể giảm bớt lượng chất thải thải ra môi
trường và đem lại thu nhập về kinh tế.Trên thế giới đang tận dụng triệt để
nguồn phế thải để tái chế chất thải mang lại lợi nhuận khổng lồ cho họ theo
The Time (11/8/2008) thì” Hiện nay giá của các giá của đồ phế liệu đang
tăng lên cao. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do giá dầu thô tăng cao
(dầu mỏ là nguồn sản xuất nhựa chủ yếu hiện nay) buộc các nhà sản xuất
3 | P a g e
tăng cường thu mua đồ phế thải tái chế. Nếu như cách đây 6 năm chỉ có 10
bảng Anh/tấn chai nhựa hỗn hợp thì nay giá cả của mặt hàng này đã là 230
bảng chỉ trong vòng 6 tháng tăng giá. Giấy báo và bìa cũng tăng gấp đôi so
với năm ngoái, ở mức 100 bảng/tấn. Giá đồng tái chế hiện nay đã là 3000
bảng/tấn, gấp 10 lần so với thời điểm năm 2002. .Còn đối với trong nước,
“hiện nay trên cả nước có khoảng 1.450 làng nghề nhưng vùng châu thổ
sông Hồng tập trung nhiều nhất với khoảng 800 làng, trong đó Hà Tây, Thái
Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định và Thanh Hóa là những địa phương
có mật độ làng nghề cao nhất. Với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8%, làng
nghề được coi là có tác động mạnh mẽ nhất làm thay đổi đời sống và bộ mặt
nhiều vùng nông thôn, mang lại nhiều lợi nhuận kinh tế và là nguồn thu chủ
yếu của nhiều hộ gia đình. Tuy nhiên, với đặc trưng sản xuất manh mún, thủ
công, nhỏ lẻ hộ gia đình, làng nghề đang trở thành gánh nặng về môi trường
với những địa phương có nhiều làng nghề phát triển. Chế biến lương thực
thực phẩm, tái chế, dệt nhuộm được coi là một trong những làng nghề có
mức độ gây ô nhiễm môi trường khủng khiếp nhất. Còn “Hiện trên địa bàn
TP Hồ Chí Minh có khoảng gần 1.000 cơ sở tái chế chất thải đang hoạt
động, trong đó phần lớn là cơ sở có quy mô vừa và nhỏ với công nghệ khá
lạc hậu và máy móc, trang thiết bị khá cũ kỹ. Mỗi ngày các cơ sở này có thể

tái chế khoảng trên 2.000 tấn chất thải rắn công nghiệp, sản phẩm sau tái chế
4 | P a g e
chất lượng và giá trị kinh tế thấp. Mỗi ngày TP Hồ Chí Minh thải ra trên
6.000 tấn chất thải rắn sinh hoạt, trong đó có khoảng 2.000 tấn chất thải rắn
công nghiệp có thể tái chế, sử dụng lại được, còn lại là chất thải hữu cơ được
xử lý chủ yếu bằng phương pháp chôn lấp tại các bãi rác Phước Hiệp (huyện
Củ Chi), Đa Phước (huyện Bình Chánh) và một số ít dùng sản xuất phân
compost. Việc tái chế chất thải công nghiệp như nhựa, giấy, thủy tinh, sắt
thép chủ yếu dựa vào hoạt động thu gom, phân loại chất thải từ đội ngũ
khoảng gần 20.000 lao động mua ve chai ở khắp các quận huyện, phường xã
và do các cơ sở tư nhân có quy mô vừa và nhỏ đảm trách. Phần lớn thiết bị,
máy móc của các cơ sở tái chế chất thải công nghiệp được các cơ sở tự chế
tạo, hoặc mua công nghệ chế tạo trong nước theo kiểu bán tự động nên thiếu
độ chuẩn xác cao, gây lãng phí khá nhiều năng lượng và ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng nơi sản xuất. Điển hình là các cơ sở cao su tái sinh, giấy, bao
bì đã gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn kênh rạch, không khí của nhiều Khu
dân cư ở các quận, huyện vùng ven như Bình Tân, Tân Phú, Bình Chánh,
quận 12, huyện Hóc Môn, Củ Chi trong khi chỉ cho ra sản phẩm chất lượng
thấp như túi nilon, nhựa tái sinh, giấy vụn, thủy tinh”. (kinh tế hợp tác Việt
Nam 11/3/2009). Như vậy tái chế chất thải mang lại hiệu qua kinh tế khá lớn
nhưng cũng gây ra ô nhiễm môi trường đối với khu vực sản xuất trong đó tái
chế giấy là một điển hình
5 | P a g e
I.2 Hiện trạng tái chế giấy trên thế giới và Việt Nam
I.2.1 Tái chế trên thế giới
Trên thế giới việc sản xuất tái chế rất phổ biến, từ các sản phẩm tái chế
100% như giấy bao bì đóng gói, bao bì nhựa, túi nhựa cho đến những sản
phẩm cao cấp có hàm lượng tái chế từ 30% tới 80% như giấy văn phòng,
giấy in báo, giấy ăn Nghiên cứu của Tom Soder thuộc chương trình công
nghệ giấy và bột giấy, Trường Đại học tổng hợp Maine cho rằng sản xuất 1

tấn giấy in/viết bằng qui trình sản xuất bột giấy kraft tốn trung bình khoảng
24 cây gỗ cao 40 bộ Anh có đường kính 6-8 inches (16-20 cm). Vì vậy việc
sản xuất và sử dụng tái chế trên thế giới được khuyến khích như một biện
pháp hiệu quả để tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên
Năm 1989, Quốc hội Mỹ đã sửa đổi Đạo luật bảo vệ môi trường và thu hồi
giấy loại, trong đó nhấn mạnh việc phải tập trung chú ý nhiều hơn vấn đề thu
hồi giấy loại. Ở Nhật Bản theo thống kê năm 1995 có khoảng 50% giấy loại
được thu hồi và tái chế, ở Đức là 52%.Và tỷ lệ thu hồi, tái chế giấy trung
bình trên Thế giới cũng xấp xỉ mức 50%.[1]
Theo báo cáo của hiệp hội giấy Trung Quốc tại Hội giấy Châu Á tại hội
ngụy giấy Châu Á (15 – 17/10/2008) tại Osaka (Nhật Bản) thu gom giấy đã
qua sử dụng chưa trở thành một ngành công nghiệp vì nhận thức của xã hội
chưa cao, các doanh nghiệp tái chế phần lớn phần lớn là doanh nghiệp quy
6 | P a g e
mô nhỏ kỹ thuật lạc hậu. Để phát triển ngành giấy Trung Quốc, một chính
sách về thu gom tái chế và thu hồi chuẩn bị được ban hành đề cập toàn diện
vấn đề từ giáo dục cộng đồng, những quy định kỹ thuật thị trường và và
công cụ tài chính để khuyến khích và phát triển công nghiệp tái chế giấy.
Những công cụ đó đã làm tăng tỷ lệ thu hồi ở Trung Quốc 31% lên 34%
(2010). Tỷ lệ sử dụng giấy cũng tăng lên từ 32% lên 38% 2010 tỷ lệ tái sử
dụng giấy cũng tăng lên
Ở tại nhiều nước trên Thế giới, việc thu hồi và sử dụng giấy loại trong
Công nghiệp sản xuất giấy được Chính phủ qui định thành luật pháp ( Mỹ,
Đức, Đan Mạch….).
Các hoạt động sản xuất giấy từ nguyên liệu giấy loại luôn được Chính phủ
ủng hộ, giấy làm từ bột tái sinh được miễn thuế từ khâu sản xuất đến khâu in
ấn; việc thu hồi giấy loại sẽ được trợ cấp ( Nhật Bản, Hà Lan…).[1]
I.2.2 Tái chế giấy ở Việt Nam
Nguồn giấy đã qua sử dụng : hộ gia đình, các trường học văn phòng các
tổ chức, công ty nhà máy( in, bao bì…), siêu thị, cửa hàng, nhà ga, sân

bay…
Những loại giấy không thể tái chế: giấy cảm nhiệt; giấy (tự) dính băng keo,
giấy cacbon, giấy bóng kính, giấy phủ chất dẻo và sáp…
7 | P a g e
Thu gom giấy đã qua sử dụng ở trong nước. Về tổ chức thu gom bao gồm
đồng nát (người thu gom người thu gom riêng lẻ lùng sục từng ngõ ngách
các công ty vệ sinh, những người bới rác, trạm thu trung gian. Hiện chưa có
công ty chuyên kinh doanh giấy thu hồi
Theo thống kê của Bộ Công nghiệp, hiện nay toàn ngành giấy Việt Nam
có 1.408 cơ sở sản xuất bột và giấy. Tổng thư ký Hiệp hội Giấy và Bột giấy
Việt Nam, Tiến sĩ Vũ Ngọc Bảo, cho biết, nhu cầu giấy trong nước mỗi năm
hiện cần tới hơn 1,8 triệu tấn giấy. Song, sản xuất trong nước mới chỉ cung
cấp được 1,13 triệu tấn, còn lại là giấy nhập khẩu.[8]
Trong tổng số giấy sản xuất trong nước, có tới 70% là nguyên liệu từ
nguồn giấy tái chế, nhưng hiện chỉ có 25% giấy đã qua sử dụng được thu
hồi. Hơn nữa, lượng giấy đã qua sử dụng này cũng chỉ đáp ứng được 50%
tổng lượng giấy phế liệu mà ngành công nghiệp giấy trong nước cần. Như
vậy,theo ước tính hầu hết số giấy còn lại bị đem tiêu hủy một cách lãng phí
và một lượng ít được giữ lại trong các thư viện, văn phòng trong lúc đó,
Việt Nam phải dùng ngoại tệ để nhập khẩu một lượng giấy phế liệu, giấy tái
chế khổng lồ từ nước ngoài để làm nguyên liệu sản xuất giấy. Hiện nay, tỉ lệ
thu hồi giấy đã qua sử dụng ở Việt Nam thuộc loại thấp nhất khu vực, chỉ
đạt 25% so với Thái Lan là 65% (Theo báo cáo của Hiệp Hội giấy của các
nước trong khu vực, năm 2007 hiệu suất thu hồi giấy tại Trung Quốc là
8 | P a g e
31%; Nhật Bản, 61,4%; Đài Loan, 88%; Hàn Quốc, 67% ). Nguồn giấy đã
qua sử dụng chủ yếu được thu gom riêng lẻ chứ chưa có công ty chuyên
doanh giấy thu hồi. Tỉ lệ giấy đã sử dụng thu hồi được so với tổng lượng
giấy tiêu dùng ít thay đổi, chỉ ở mức 24-25% và tỉ lệ giấy thu hồi trong nước
so với giấy thu hồi nhập khẩu hầu như không thay đổi từ 48% (1999) lên

50% (2007).[1]
Một vài nguyên nhân dẫn đến việc thu hồi giấy đã qua sử dụng ở Việt Nam
không đạt được hiệu quả là:
- Việt sử dụng giấy chưa hợp lý ưa thích sử dụng giấy có độ trắng cao( trên
90% ISO thay vì 80% ISO như các nước phát triển ), định lượng cao (giấy in
báo 58 g/m
2
thay vì 42 – 52g/m
2
), để lề văn bản quá rộng cỡ chữ lớn
(.VnTime 14, thay vì VnTime 12), ít sử dụng hai mặt giấy
- Lượng giấy thải loại ở các văn phòng, trường học và các hộ gia đình nhưng
không có hoạt động hoạt động có tổ chức thu gom rác không tổ chức phân
loại và kinh doanh vật liệu có thể tái chế mà đổ thẳng ra bãi chôn lấp[1]
1.2.3 Lợi ích của tái chế giấy
 Tiết kiệm khai thác tài nguyên rừng
Ngành giấy là ngành sử dụng nguyên vật liệu chủ yếu từ gỗ. Bên cạnh đó
các loại tre nứa cũng được dùng làm nguyên liệu. Cộng với việc công nghệ
sản xuất lạc hậu, sử dụng lãng phí thì đây là nguyên nhân chính làm cạn kiệt
9 | P a g e
tài nguyên rừng. Việc sử dụng giấy loại để làm nguyên liệu sản xuất là 1 giải
pháp rất tốt nhằm ngăn chặn sự cạn kiệt rừng.
Bên cạnh đó việc tiết kiệm được tài nguyên rừng cũng đem lại những lợi ích
to lớn về mặt Kinh tế. Theo tính toán để sản xuất 1 tấn bột giấy cần 5m
3
gỗ,
nhưng nếu dùng giấy loại thì chỉ cần 1,25 tấn giấy loại. Trong quy hoạch
vùng nguyên liệu giấy đến năm 2010 và theo tính toán của Công ty nguyên
liệu giấy Đồng Nai bình quân mỗi m
3

gỗ giá vốn ít nhất đã là 642.595
đồng/m
3
. Trong khi đó, giá mua giấy in báo phế liệu tại nhà máy là 2.000
đồng/kg. Hàng năm từ lượng giấy phế liệu thu mua được trung bình 120.000
tấn/năm, có thể sản xuất được 80.000 tấn bột giấy. Nếu việc sản xuất giấy tái
chế thành hiện thực, chúng ta sẽ tiết kiệm được ít nhất 400.000 m
3
gỗ/năm,
về mặt chi phí tiết kiệm được 57,038 tỷ đồng/năm[1]. Như vậy việc sản xuất
giấy tái chế của nhà máy sẽ đem lại lợi ích to lớn cho chính sách qui hoạch
vùng nguyên liệu giấy trong điều kiện diện tích vùng nguyên liệu và kinh
phí đều đang thiếu.
 Tiết kiệm tài nguyên khác
Việc sản xuất giấy tái chế góp phần tiết kiệm được nhiều nguyên nhiên liệu
trong đó có than và nước. Nước được sử dụng chủ yếu trong quá trình rửa
bột, sử dụng cho lò hơi trong quá trình xeo giấy. Than được sử dụng để tạo
năng lượng khi phơi sấy Nghiên cứu trên thế giới cho biết bột từ giấy đã
10 | P a g e
qua sử dụng đã được xử lý từ lần sử dụng trước nên quá trình tái chế giấy
chỉ cần từ 10% đến 40% năng lượng được chuyển từ gỗ sang bột giấy
nguyên chất. Hiện nay ở Mỹ, trước tình trạng ngành công nghiệp giấy sử
dụng quá nhiều nước, đã đề ra các biện pháp tiết kiệm nước trong quy trình
"Sản xuất sạch hơn" và lượng nước sử dụng đã được rút xuống bằng 1/7 so
với trước.
Ở Việt Nam, do công nghệ lạc hậu nên mức tiêu hao năng lượng để sản xuất
ra 1 tấn giấy rất cao. Ví dụ ở Công ty Giấy Việt Trì, 1 tấn giấy sản xuất trên
dây chuyền thiết bị mới chỉ tốn 30m
3
nước, trong khi dây chuyền cũ tốn gấp

3-4 lần tức là khoảng 100m
3
. Mức tiêu thụ năng lượng ở dây chuyền mới của
công ty chỉ chiếm 7% giá thành giấy, bằng 1/3 đến 1/2 mức tiêu hao của dây
chuyền cũ. Sản xuất giấy tái chế tại làng nghề ở Việt Nam tiết kiệm được
388m
3
nước và 3,8 tấn than để sản xuất ra 1 tấn giấy so với giấy làm từ
nguyên liệu gốc[1]. Với công nghệ lạc hậu của làng nghề đã tiết kiệm được
một lượng tài nguyên như vậy, nếu các nhà máy giấy hiện nay được đầu tư
dây chuyền sản xuất giấy tái chế hiện đại hiện tại thì lượng tài nguyên được
tiết kiệm sẽ cao hơn nhiều.
Theo số liệu ngành giấy, để sản xuất 1 tấn bột giấy phải cần tới 5m
3
gỗ; 300-
400 kg xút; 1.000m
3
nước; 1.000-1.200 kwh điện. Nếu sản xuất từ giấy phế
11 | P a g e
liệu chỉ cần 1,25 tấn giấy loại; 20m
3
nước; 200 -300kwh điện và rất ít hóa
chất.
Bảng 1. Lợi ích tiết kiệm được khi sản xuất 1 tấn giấy bằng nguyên liệu là
giấy loại[1]
Giá
thành
Lượng sử dụng Tiết kiệm
Sản xuất
với

nguyên
liệu gỗ
Sản xuất
với
nguyên
liệu là
giấy loại
Điện 1.000
đ/kw
1.000 kwh 200 kwh 800 kwh
Thành
tiền
1.000.000
đ
200.000đ 800.000đ
Nước 238,1
đ/m
3
1.000 m
3
20 m
3
980 m
3
Thành
tiền
238.100đ 4.762đ 233.338đ
Xút 3.200 300 kg 10 290 kg
12 | P a g e
đ/kg

Thành
tiền
960.000đ 0 960.000đ
Tổng lượng tiết kiệm: 1.993.338đ
Như vậy mỗi tấn bột giấy làm từ giấy phế liệu tiết kiệm cho nhà sản xuất
ít nhất là 1.993.338 đồng. Theo thống kê của Viện công nghiệp giấy, hàng
năm lượng giấy phế liệu bình quân ở nước ta là 100.000 - 120.000 tấn có thể
sản xuất được ít nhất 80.000 tấn bột giấy. Từ đó tính ra mỗi năm khoản tiền
tiết kiệm được trong sử dụng điện nước từ việc sản xuất bột giấy tái chế có
thể giảm được một khoản chi phí khoảng 153,5 tỷ đồng/năm. Theo số liệu
của ngành giấy, đầu tư cho 1 tấn sản phẩm/năm công suất thiết kế vào
khoảng 1.500-3.000 USD. Với khoản tiền 153,5 tỷ đồng từ chi phí điện và
nước tiết kiệm được khi sử dụng giấy phế liệu thay vì dùng gỗ để sản xuất
bột giấy hàng năm, có thể xây dựng được ít nhất 1 nhà máy giấy công suất
khoảng 3.400 tấn/năm, lớn hơn công suất của Công ty Giấy Trúc Bạch
(3.000 tấn/năm).
Với những lợi ích về kinh tế và môi trường của ngành tái chế giấy như vậy
13 | P a g e
nhưng ở Việt Nam thì tái chế giấy cũng đang trên đà phát triển được hình
thành dưới hình thức các làng nghề. Ở các làng nghề chủ yếu là các cơ sở
vừa và nhỏ áp dụng công nghệ lạc hậu tạo ra nhiều chất thải giây ô nhiễm
môi trường tại các làng nghề đó đặc biệt là nước thải. Phần lớn các cơ sở tái
chế giấy ở các làng nghề của Việt Nam tạo ra lượng nước thải tương đối và
chưa có hệ thống xử lý nước thải. Vì vậy mà em muốn tìm hiểu đặc trưng
của nước thải và thiết hệ thống xử lý nước thải của một cơ sở tái chế giấy
điển hình

Hình 1.Sự ô nhiễm môi trường tại các làm nghề giấy
I.3 Quy trình tái chế giấy điển hình và hiện trạng môi trường tại các cơ
sở tái chế

14 | P a g e
I.3.1. Quy trình sản xuất điển hình của cơ sở tái chế giấy
- Giấy vụn: Đây chính là nguồn nguyên liệu cơ bản của quá trình tái
chế giấy. Giấy được thu gom thông qua các đại lý và sau đó trở về cơ sở tái
chế của làng.
- Ngoài nguyên liệu chính là giấy vụn thì làng nghề còn sử dụng một
số nguyên liệu khác như: than hóa chất (NaOH, phèn cho xử lý nước, nước
Javen, nhựa trong, điện )

15 | P a g e
Hình I.1: Quy trình sản xuất tái chế giấy ăn, giấy vệ sinh kèm dòng thải
Giấy loại
Phân loại
Giấy lề
Ngâm, tẩy
Nghiền thuỷ lực
xeo
Sấy
Sản phẩm thô
Chất thải rắn
Nước thải cũng
chứa một lượng
sơ sợi lớn
Hơi được
cung cấp từ
là hơi
Hơi nước thoát
ra
Nghiền đĩa
Nhựa thông

Javen
Nước thải có
lẫn hóa chất
Kiềm
Nước thải
có hóa chất
Nước
bể chứa
Bể trộn
Nước
16 | P a g e
- Các công đoạn trong chính trong quá trình sản xuất giấy tái chế :
+ Công đoạn chuẩn bị nguyên liệu:
Giấy vụn sau khi được tập kết về kho phải qua khâu phân loại. Có thể
chia giấy vụn thành các loại sau: Giấy lề trắng, giấy viết, giấy in, giấy bìa cát
tông,giấy xi măng
- Ô nhiễm chủ yếu trong khâu này là ô nhiễm bụi và các chất thải vẫn
như: Nilong, phế phẩm loại bỏ của quá trình phân loại chiếm 1 tỷ lệ không
nhỏ.
+ Công đoạn ngâm kiềm
Giấy được đưa vào 1 bể ngâm kiềm để tẩy trắng. Thời gian ngâm tùy
thuộc vào loại giấy.
VD: Giấy in thì thời gian ngâm lâu nhất, các hóa chất sử dụng trong
khâu này là NaOH, Javen.
- Ô nhiễm chính trong công đoạn này là ô nhiễm nguồn nước do
lượng hóa chất được hòa tan trong bể ngâm kiềm được được thải trực tiếp ra
ngoài không hề qua bất kỳ một khâu xử lý nào.
+ Công đoạn nghiền giấy
Đây là công đoạn kết hợp sau công đoạn tước giấy sau khi ngâm tẩy
được đưa vào máy nghiền và tạo ra bột giấy có màu đục được chứa trong 1

bể rộng.
17 | P a g e
- Ô nhiễm chủ yếu trong khâu này là do lượng bột giấy bị hòa vào
nước thải ra môi trường bên ngoài tạo ra một lớp bột tương đối dày trong các
kênh, mương và nó cũng là nguyên nhân gây ra hiện tượng yếm khí trong
nước tạo mùi hôi thối khó chịu.
+ Công đoạn nghiền đĩa : bột được đưa vào hệ thống nghiền đĩa nhằm
nghiền nhỏ bột đạt đến độ nghiền theo chỉ tiêu kỹ thuật của sản phẩm rồi cho
vào bể chứa để pha loãng trước khi đưa vào công đoạn xeo giấy
+ Công đoạn xeo giấy
Bột giấy được dẫn qua 1 hệ thống máy lên lưới hình thành và đưa trực
tiếp lên máy xeo, ép ướt bằng một nhiệt độ cao được cung cấp từ lò hơi.
Giấy sau khi được sấy, ép được chuyển đến bộ phận hoàn thành để gia
công, chế biến thành sản phẩm cuối cùng.
- Phế phẩm của công đoạn này là các đấu xén, đấu lề giấy và được tận
dụng đưa lại quá trình tái chế.
Hầu hết các khâu trong quá trình tái chế giấy đều gây ra ô nhiễm mà
ảnh hưởng lớn nhất chính là đến môi trường nước. Nước ô nhiễm không qua
bất kỳ một công đoạn xử lý nào lại xả ra hệ thống cống, mương, ao hồ gây
ảnh hưởng trầm trọng tới môi trường đất. Với một quy trình sản xuất điển
hình ngành của tái chế giấy hiện trạng ô nhiễm môi trường mà các cơ sở tái
chế giấy mang lại
18 | P a g e
Ngoài ra còn có một số có một số công nghệ tái chế giấy khác
Sản xuất Kraft máy lạnh: các xưởng này sản xuất những tấm bìa riêng biệt
có độ dày, mỏng khác nhau và không sử dụng nồi hơi.
Nguyên
liệu
Làm ẩm
Nước

Nghiền thủy lực
Bể chứa
Nghiền đĩa
Bể đảo
trộn
Máy xeo
Phơi khô tự nhiên
Sản phẩm
19 | P a g e
Hình 2. Sơ đồ công nghệ sản xuất giấy Kraft máy lạnh

Sản xuất giấy Kraft máy lạnh là dây chuyền sản xuất giấy bằng cơ khí đơn
giản nhất sản phẩm thường được làm tấm lót trong các loại bìa bao gói, bìa
sổ sách …
Nguyên liệu : giấy bìa phế liệu, giấy cattông chất lượng thấp, tạp chất lớn
Quy trình sản xuất giấy giấy Kraft máy nóng
Sản phẩm
Khí
thải
Xỉ
than
Lò sấy
Lò hơi
Nước than
Nước
Bể pha bột
Bể khuấy
Máy xeo Nước xeo
Nước
Nguyên liệu

Bìa cattông, bao gói mùn cưa
Làm ẩm
Nghiền thủy lực
Nghiền đĩa
20 | P a g e
21 | P a g e
Hình 3. Quy trình sản xuất giấy Kraft máy nóng
Các sản phẩm của dây chuyền giấy loại này bao gồm : giấy Kraft loại dày,
kraft loại mỏng làm đồ hộp, giấy bao gói, giấy Kraft hai mặt, giấy lót kính,
giấy lót vỏ bao xi măng…
22 | P a g e
I.3.2 Hiện trạng môi trường tại các cơ sở tái chế giấy
1. Nước thải
Để sản xuất ra 1 tấn giấy sản phẩm cần từ 30m
3
- 100m
3
nước (được
lấy từ nguồn nước ngầm thông qua các giếng khoan). Vậy lượng nước cần
dùng trong 1 ngày lên tới khoảng 120 m
3
- 400 m
3
nên lượng nước thải
tương ứng cũng vào khoảng trên dưới 500 m
3
. Ngoài ra nước thải còn có từ
sinh hoạt, chăn nuôi Đây là một lượng nước thải không nhỏ so với dân cư
cũng như diện tích tự nhiên của làng. Hơn thế nữa thành phần nước thải lại
rất đa dạng, phức tạp bao gồm: Hóa chất từ khâu ngâm kiềm như NaOH,

Javen, phẩm màu từ khâu xeo màu và đặc biệt là 1 lượng lớn bột giấy được
hòa vào nước sau khâu xeo giấy. Nước thải từ các khâu sản xuất được thải
trực tiếp ra bên ngoài không qua bất kỳ một khâu xử lý nào đã gây nên tình
trạng ô nhiễm trầm trọng đối với nguồn nước mặt cũng như nguồn nước
ngầm của làng.
Làng nghề ngoài diện tích nông nghiệp, thổ cư và đất phát triển sản xuất
thì còn 1 diện tích không nhỏ là các ao hồ, đầm. Tuy nhiên hiện nay có thể
nói rằng tất cả các loại ao hồ này đều đã không còn sử dụng được do tình
trạng ô nhiễm quá nặng của nước. Trên bề mặt các ao hồ này là 1 lớp bột
giấy dày từ 20 - 30 cm, ngoài ra còn có các loại rác thải được đổ ra. Hệ
thống kênh mương thủy lợi phục vụ cho nông nghiệp cũng trở thành nơi xả
23 | P a g e
nước thải vô tội vạ của các hộ sản xuất. Nước ở đây có màu đen, mùi hôi
thối khó chịu. Trong nước chứa rất nhiều loại vi khuẩn do sự tồn đọng quá
lâu của các chất cặn bã trên bề mặt. Nồng độ pH từ 8,3 - 9,9 lượng ôxi hòa
tan thấp và đây chính là nguyên nhân gây ra hiện tượng yếm khí nguồn gốc
của mùi hôi thối. Đặc biệt vào mùa hè với những đợt mưa lớn lớp váng bề
mặt nổi lên, trào ra ngoài diện tích đất nông nghiệp gây ảnh hưởng không
nhỏ tới năng suất diện tích cây trồng. Có thể thấy rằng nguồn nước mặt của
làng nghề là hoàn toàn bị ô nhiễm và ô nhiễm ở mức trầm trọng.
Qua sơ đồ trên ta thấy dòng thải chính của quy trình sản xuất giấy tái chế
(hình 1) ở các công đoạn sau:
+ Dòng thải từ các nhà máy tái chế giấy bao gồm một lượng đáng kể các
chất lắng lơ lửng, các chất hữu cơ hòa tan và xơ sợi việc thải các chất hữu
cơ sẽ dẫn tới tiêu thụ oxy bằng phản ứng phân hủy trong nguồn tiếp nhận,
gây hại tới đời sống thủy sinh dưới nước
+ Dòng thải từ quá trình nghiền bột và xeo giấy chủ yếu là chứa các sơ sợi
mịn, phụ gia và phẩm màu. Tác dụng chính của phẩm màu là làm giảm sử
truyền ánh sáng trong nước, điều này làm giảm năng suất của các nguồn
tiếp nhận. Ngoài ra dòng nước thải này các hóa chất rơi vãi, rò rỉ

+ Đối với nước thải từ quá trình sản xuất giấy chứa hàm lượng các chất
hữu cơ có thể phân hủy sinh học tương đối cao nếu thải chúng trực tiếp
24 | P a g e
vào môi trường thì quá trình ổn định sinh học của chúng có thể dẫn đến
giảm lượng Oxy trong nước tự nhiên và dẫn đến nguyên nhân gây mùi vị
trong nước. Điều đáng quan tâm nhất ở đây là làm giảm lượng Oxy hòa
tan trong nước vì Oxy không thể thiếu được đối với tất cả các sinh vật
sống trên cạn cũng như dưới nước. Oxy duy trì quá trình trao đổi chất,
sinh ra năng lượng cho cho sự sinh trưởng, sinh sản và tái sản xuất. Do
vậy, khi thải các chất thải sử dụng Oxy vào nguồn nước, quá trình oxy
hóa chúng sẽ làm giảm nồng độ Oxy hòa tan trong các nguồn nước này,
thậm chí có thể đe dọa sự sống của các loài cá cũng như sinh vật sống
trong nước. Ngoài ra, khi nồng độ DO trong nước giảm làm cho tầng đáy
của các thủy vực tiếp nhận nước thải thiếu O
2
nên xảy ra hiện tượng phân
hủy yếm khí tạo ra mùi hôi và các chất khí như CH
4
, CO
2
, NH
3
, H
2
S ô
nhiễm hữu cơ làm cho các loại thủy sinh chết dần, làm biến đổi hệ sinh
thái.
+ Đặc biệt khi dòng thải chứa Clo, đây là tác nhân gây độc đối với đời
sống và con người, khó bị phân hủy bởi vi sinh vật, chúng tồn lưu lâu dài
trong môi trường và cơ thể sinh vật gây độc tích lũy, ảnh hưởng nguy hại

đến cuộc sống và gây ô nhiễm lâu dài làm ảnh hưởng xấu đến hệ sinh
thái. Chúng có thể tích lũy trong cơ thể thủy sinh, gây ngộ độc lâu dài hay
là tác nhân gây những bệnh hiểm nghèo cho động vật cũng như con
25 | P a g e
người nếu ăn phải nguồn thủy sinh: tôm, cá, mực Ngoài ra, dòng thải
chứa Clo đây là chất rất độc đối với tảo và gây ra các tác động gián tiếp
lên các sinh vật khác sống trong quần xã của tảo.
Tóm lại, đối với nước thải ngành tái chế giấy nếu không được quan tâm
xử lý thích đáng sẽ gây tác động xấu đến chất lượng nước mặt, đến quá
trình sinh trưởng của các thủy sinh dưới nước và ngay cả con người tại
những vùng chịu ảnh hưởng trực tiếp của nước thải, ảnh hưởng đến tưới
tiêu nông nghiệp. Theo chuỗi thức ăn, một cách gián tiếp tác động đến
sức khỏe con người.
2 Chất thải rắn
Rác thải vẫn của quá trình sản xuất đặc biệt là trong khâu phân loại giấy
nhiều nilong và phế phẩm 1 lượng lớn xỉ than không sử dụng được vứt bỏ
bừa bãi ra ngoài không hề có bất cứ khâu xử lý nào. Sự tích tụ lâu dài của
các nguồn rác thải này có một ảnh hưởng lâu dài tới môi trường đất từ đó
ảnh hưởng tới việc trực tiếp tới khả năng canh tác của đất. Đất đã không còn
màu mỡ phì nhiêu như trước đây mà 1 ví dụ rất dễ thấy là sự suy giảm mạnh
của năng suất cây trồng.
3. Khí thải

×