C¸c víng m¾c trong qu¸ tr×nh xÐt hëng
bhxh hiÖn nay
Môc lôc
LỜI NÓI ĐẦU
1
I. VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH XÉT HƯỞNG
CÁC CHẾ ĐỘ BHXH
2
1. Chế độ chăm sóc y tế
2
I.1. Những vướng mắc trong xét hưởng BHYT.
2
1.2.Giải pháp khắc phục
4
2. Chế độ trợ cấp TNLĐ $ BNN
5
2.1.Vướng mắc trong trợ cấp TNLĐ & BNN
5
2.2.Một số biện pháp khắc phục
6
3. Chế độ hưu trí
6
3.1 Vướng mắc khi xét hưởng chế độ hưu trí.
7
3.2 . Vướng mắc khi xét hưởng chế độ hưu trí tự nguyện.
8
3.3 . Giải pháp khắc phục
8
4. Chế độ thai sản
8
4.1.Vướng mắc trong xét duyệt trợ cấp thai sản
9
1
4.2.Một vài đề xuất giải quyết vướng mắc
10
5. Chế độ trợ cấp ốm đau
11
5.1. Vướng mắc trong xét hưởng trợ cấp ốm đau
11
5.2. Giải pháp khắc phục
12
6. Chế độ trợ cấp tử tuất
12
6.1. Vướng trong xét hưởng chế độ tử tuất
12
6.2. Chế độ tử tuất trong BHXH tự nguyện
13
6.3. Đề xuất giải pháp
14
7. Chế độ BHTN
14
7.1. Vướng mắc trong BHTN
15
7.2. Giải pháp khắc phục
16
II. NHỮNG BIỆN PHÁP THÁO GỠ VƯỚNG MẲC TRONG CÔNG TÁC XÉT
HƯỞNG HIỆN NAY.
17
2
LỜI NÓI ĐẦU
`BHXH là một chính sách xã hội lớn của mỗi quốc gia, chính sách được xây dựng
nhằm bảo vệ, trước hết cho một lực lượng lao động đông đảo trong xã hội, đó là những
người làm công ăn lương, trước những sự kiện, những “rủi ro xã hội”, dẫn đến làm giảm
hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp. Tiếp đến là sự mở rộng phạm vi áp dụng cho những
nhóm đối tượng khác. Đây chính là tính nhân văn khách quan của BHXH, là nền tảng
cho sự ổn định và phát triển xã hội.
Ở Việt Nam, chính sách BHXH đã có từ những năm 60 của thế kỷ trước và từng
bước được hoàn thiện, được cải cách, được đổi mới phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
và hoàn cảnh của từng giai đoạn lịch sử. Đến nay, hệ thống chế độ BHXH ở Việt Nam
bao gồm 7 chế độ: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp TNLĐ
& BNN, chế độ trợ cấp hưu trí, chế độ trợ cấp tử tuất, chế độ chăm sóc y tế( theo quyết
định số 20/2002/QĐ/TTG về việc chuyển BHYT Việt Nam sang sát nhập cùng BHXH
Việt Nam), bảo hiểm thất nghiệp (thực hiện từ ngày 01/01/2009).
Về mặt luật pháp, các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH cũng từng bước
được hoàn thiện, nâng tính pháp lý của chính sách BHXH cao hơn, chặt chẽ hơn. Từ chỗ
chỉ có các Nghị định về BHXH, điều chỉnh một số vấn đề cơ bản của BHXH hoặc điều
chỉnh một nhóm đối tượng nào đó của BHXH, đến nay Việt Nam đã có Luật BHXH.
Luật BHXH đã pháp điển hoá các văn bản quy phạm pháp luật BHXH đã có trước đây;
đồng thời điều chỉnh, tiếp cận dần với những quy định của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) về BHXH. Đối tượng điều chỉnh của Luật BHXH đến nay đã rất lớn, bao trùm tất
cả những NLĐ làm việc ở những nơi có quan hệ lao động (BHXH bắt buộc) và những
NLĐ tự do, lao động trong khu vực kinh tế tập thể, lao động là nông dân (BHXH tự
nguyện). Đây có thể là bước tiến vô cùng quan trọng trong chính sách BHXH của Việt
Nam, góp phần tạo nên một lưới an sinh xã hội rộng rãi, góp phần bảo vệ NLĐ trước
những biến cố, những “rủi ro xã hội” dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập; góp phần vào ổn
định chính trị - xã hội, làm động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, để chính sách BHXH mới “vào” cuộc sống, có tính khả thi cao, thì còn
rất nhiều việc phải làm, rất nhiều vấn đề cần phải được hiểu rõ và được giải quyết. Một
trong những vấn đề cần được giải quyết đó chính là “Các vướng mắc trong quá trình xét
hưởng BHXH hiện nay” đây cũng là nội dung chính trong bài tìm hiểu này.
Do đặc thù của các chế độ có sự khác biệt nên trong bài tìm hiểu này chúng ta sẽ
đi xem xét những vướng mắc trong quá trình xét hưởng của từng chế độ và giải pháp cho
từng chế độ cụ thể, từ đó chúng ta sẽ đưa ra được giải pháp mang tính tổng quát để tháo
gỡ những vướng mắc chung của toàn bộ hệ thống BHXH Việt Nam.
Với góc độ là người tìm hiểu vốn kiến thức thực tế và kinh nghiệm còn hạn chế
nên trong quá trình tìm hiểu không tránh khỏi những sai sót. Vì thế, chúng em rất mong
có sự góp ý của cô và các bạn, xin chân thành cảm ơn!
III. VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH XÉT HƯỞNG
CÁC CHẾ ĐỘ BHXH
8. Chế độ chăm sóc y tế
Năm 1992, chính sách BHYT ra đời, đến năm 2002 Thủ tướng chính phủ đã ký
quyết định số 20/TTG sáp nhập BHYT vào BHXH Việt Nam. Chính sách BHYT áp
3
dụng bắt buộc đối với những người có tiền lương, thu nhập ổn định, công tác trong các
đơn vị hành chính và cơ quan sự nghiệp, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội,
hội đoàn thể đồng thời, khuyến khích các đối tượng khác tham gia BHYT tự nguyện Có
thể nói đây là chế độ có đối tượng áp dụng lớn nhất trong hệ thống các chế độ BHXH,
đặc biệt khí mục tiêu sắp tới của Đảng và Chính phủ là thực hiện thành công chế độ
BHYT toàn dân.Sau 17 năm thực hiện, chế độ khám chữa bệnh BHYT đã đi vào cuộc
sống, được nhân dân đồng tình ủng hộ.Tuy nhiên, quá trình thực hiện chế độ khám chữa
bệnh BHYT còn có một số bất cập trong quá trình xét huởng đã tác động ảnh hưởng
không tốt đến quyền lợi của người tham gia BHYT tạo dư luận không đồng tình, ủng hộ
chính sách BHYT:
III.1. Những vướng mắc trong xét hưởng BHYT.
Thứ nhất, Các vướng mắc trong trong tính viện phí: Do lập luận rằng dân ta còn
nghèo nên khi tính các yếu tố để xác định viện phí, không được tính đầy đủ mọi yếu tố
theo giá thành mà chỉ tính một số yếu tố rất cần thiết và trực tiếp phục vụ cho người bệnh
(thuốc, máu, dịch truyền ). Thậm chí, chưa tính đến công lao động đầy đủ của công
chức, nhân viên ngành y tế. Cũng do chưa thiết lập "giá" trên cơ sở "giá thành", nên một
số yếu tố trong danh mục dịch vụ không được bệnh viện công có sẵn và hào hứng phục
vụ, mà người bệnh phải mua ở các hiệu thuốc bên ngoài (các thuốc đặc trị và các dụng cụ
tiêu hao đắt tiền ).
Theo phản ảnh của một một bệnh nhân đi khám răng sâu trong bài “Khổ vì đi
khám bằng BHYT” của vietnamnet thì chi phí cận lâm sàng và thăm dò chức năng, khám
chữa bệnh: 68.000 đồng (trong đó tiền xét nghiệm hết 65.000 đồng); tiền thuốc: 110.320
đồng; tổng chi phí buổi khám chữa bệnh hết 178.320 đồng. Và liệu thầy thuốc có mặn mà
với khám chữa bệnh BHYT khi trong phiếu thanh toán, bảo hiểm chi trả tiền công khám
chữa bệnh chỉ có 3.000 đồng (ít hơn tiền gửi xe). Tiền công khám chữa bệnh trả cho dịnh
vụ y tế là quá thấp so với khám tư chính vì thế đã gây nên thái độ không mặn mà với
khám chữa bệnh bằng thẻ của nhân viên y tế. Chính thái độ không nhiệt tình này đã gây
rất nhiều bức xúc cho người dân khi KCB bằng BHYT kiến cho số lượng người tham gia
bảo hiểm y tế giảm.
Thứ hai, Tuyến khám chữa bệnh bất công cho người nghèo: Có thể nói việc áp
dụng Nghị định 172/NĐ-CP vào tổ chức y tế địa phương một cách vội vã và áp đặt khi
mà chưa tiến hành tổng kết mô hình Trung tâm y tế huyện đã gây nhiều khó khăn cho
việc vận hành y tế cơ sở trong đó có cả việc khuyến khích việc đưa bác sỹ về công tác ở
trạm y tế xã và việc đưa BHYT đến tuyến xã.
4
Đại bộ phận người nghèo chỉ có khả năng tiếp cận tuyến y tế cơ sở nhất là tuyến
xã, nhưng việc đưa BHYT về trạm y tế xã còn nhiều khó khăn: số xã có bác sỹ không
những không tăng trong những năm gần đây mà có chiều hướng giảm sút ở nhiều địa
phương (ngay cả những tỉnh trước đây là những tỉnh tiên phong trong việc đưa bác sỹ về
xã như Cần Thơ, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thái Bình, Thái Nguyên ). Vì vậy, chất
lượng khám chữa bệnh không được tăng cường như mong muốn; về tổ chức, trạm y tế xã
lại nằm trong sự quản lý của phòng y tế huyện (theo Nghị định 172/NĐ-CP ban hành
ngày 29/9/2004 thì trạm y tế xã trực thuộc phòng y tế huyện mà không trực thuộc Trung
tâm y tế huyện như trước đây), trong khi theo điều lệ, cơ quan BHYT chỉ ký kết việc chi
trả với các cơ sở trực tiếp khám chữa bệnh là bệnh viện huyện mà không ký kết với các
cơ quan hành chính như phòng y tế (đấy là chưa nói tới việc phòng y tế huyện không có
tài khoản riêng, không có cán bộ kế toán riêng).
Thứ ba, Chuyển tuyến khó khăn: Để tránh vượt quỹ KCB, nhiều cơ sở y tế nơi
bệnh nhân đăng ký KCB ban đầu có xu hướng giữ bệnh nhân, hạn chế chuyển bệnh nhân
lên điều trị tuyến trên ảnh hưởng đến quyền lợi của người bệnh.
Ngoài ra, do trình độ tay nghề của các cơ sở y tế cấp địa phương còn nhiều yếu
kém, dẫn đến tâm lý khi có bệnh thì phải lên tuyển trung ương cho bảm bảo. Điều này, đã
gây rất nhiều khó khăm trong khám chữa bệnh ở tuyên trến và đặc biệt rất khó khăm
trong công tác xét hường BHYT.
Thứ tư,Thủ tục hành chính phức tạp: Cũng theo phản ánh của vietnamnet trong
bài báo trên thì với tổng chi phí buổi khám chữa bệnh hết 178.320 đồng nhưng bệnh nhân
đã tiếp xúc với hơn 20 thầy thuốc, nhân viên hành chính, kế toán; 14 người để lại chữ kí
trên hồ sơ khám bệnh. Trung bình trong một buổi, một nhân viên kế toán đã phải lập
biểu, kí duyệt hồ sơ của 600 bệnh nhân. Những thủ tục hành chính này là không cần thiết
và gây nhiều phiền hà cho người bệnh.
Đặc biệt, đối NLĐ được cấp phiếu khám chữa bệnh BHYT khi đi học, đi công
tác, muốn được khám chữa bệnh ở tỉnh, thành phố khác gặp nhiều khó khăn trong
thủ tục khám chữa bệnh và trong việc chi trả viện phí.
Thứ năm, Lạm dụng quỹ BHYT: Việc lạm dụng từ phía người có thẻ BHYT tập
trung chủ yếu là hình thức tích cực đi KCB để lấy thuốc mặc dù chưa có nhu cầu sử
dụng, điều trị hoặc cho người khác mượn thẻ đi KCB. Từ ngày 01/7/2005 Nghị định số
63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ có hiệu lực theo đó người có thẻ BHYT
khi đi KCB không phải thực hiện cùng chi trả chi phí KCB thì tình trạng lạm dụng này
càng tăng nhanh. Một số người có thẻ BHYT đã khai thác triệt khía cạnh này, mặc dù
5
không ốm những vẫn đi KCB để lấy thuốc về cho người nhà sử dụng, có trường hợp còn
lấy thuốc bán lại cho các của hàng thuốc cạnh bệnh.
Ngoài ra có một số nơi cán bộ nhân viên y tế còn làm hồ sơ không để rút tiền của
BHYT đã bị cán bộ giám định viên y tế của cơ quan BHXH phát hiện đề nghị các cơ
quan chức năng của địa phương xử lý (bệnh viện Cái Bè tỉnh Tiền Giang ).
Do những vướng mắc trên mà trong thời gian qua xu hướng số người tham gia
BHYT tự nguyện ngày càng giảm, thời điểm người dân tham gia BHYT tự nguyện nhiều
nhất là năm 1996, khoảng 300 nghìn người, đến cuối năm 2002 trong cả nước chỉ còn
khoảng 30 nghìn người tham gia. Trở ngại lớn nhất của BHYT giai đoạn này là chưa có
hướng dẫn chung của các bộ quản lý nhà nước. Cũng từ năm 2003 đến năm 2007, chưa
tròn năm năm mà liên Bộ Y tế - Tài chính phải ban hành liên tiếp ba Thông tư hướng dẫn
về BHYT tự nguyện, nhằm kịp thời điều chỉnh các vướng mắc nảy sinh trong quá trình
thực hiện. Ðiều đó cho thấy, đây thật sự là một lĩnh vực có nhiều khó khăn và phức tạp,
cần được đầu tư nghiên cứu, tìm giải pháp cơ bản trong thực hiện chính sách BHYT ở
Việt Nam. Đặc biệt với mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân trong thời gian tới, đòi hỏi
các nhà hoạch định chính sách cần có những điều chỉnh kịp thời hơn nữa để từng bước
hoàn thiện chế độ BHYT cho phù hợp hơn và thu hút đựợc người dân tham gia.
III.2. Giải pháp khắc phục:
Với góc độ là người tìm hiểu, em có một số ý kiến khắc phục những vướng mắc
trong khâu xét hưởng như sau:
- Các cơ quan ban ngành lên kế hoạnh kiểm tra danh mục thuốc và các vật dụng
phục vụ khám chưa bệnh thường xuyên, xác định mức viện phí dựa trên cơ sở “ giá
thành” từ đó đảm bảo quyền lợi cho cơ sở khám chữa bệnh và quyền lợi chính đánh của
người tham gia BHYT.
- Chúng ta cần nghiên cứu sớm thay đổi phương thức thanh toán chi phí KCB
BHYT như thực hiện phương thức thanh toán theo chẩn đoán. Thực hiện phương thức
này các cơ sở KCB chủ động được nguồn kinh phí trong KCB BHYT hạn chế những chỉ
định không cần thiết để tiết kiệm chi phí KCB. Mặt khác, tiết kiệm đáng kể chi phí quản
lý hành chính trong KCB, đồng thời các cơ sở KCB chủ động trong việc đảm bảo quyền
lợi của người có thẻ BHYT.
- Việc phòng chống các hình thức lạm dụng BHYT là trách nhiệm của các cấp, các
ngành và của mọi người tham gia BHYT. Việc đầu tiên là phải tăng cường công tác tuyên
truyền chính sách BHYT, đi sâu tính cộng đồng và tính nhân đạo của chính sách. Việc
6
tuyên truyền phải thực hiện một cách rộng rãi và chú trọng việc tuyên truyền cho đội ngũ
cán bộ ngành y tế người cung cấp dịch vụ y tế cho bệnh nhân BHYT.
9. Chế độ trợ cấp TNLĐ $ BNN
TNLĐ-BNN là một trong những chế độ BHXH trong hệ thống an sinh xã hội nước
ta, nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ và gia đình họ khi
họ bị mất nguồn thu nhập do bị TNLĐ hoặc BNN, đồng thời đảm bảo an sinh xã hội. Vì
vậy chế độ này mang tính chất xã hội, nhân đạo và tính nhân văn sâu sắc.Tuy nhiên, việc
xét hưởng trợ cấp cho chế độ này hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc cần giải quyết.
2.1. Vướng mắc trong trợ cấp TNLĐ & BNN
Thứ nhất, về phía NLĐ: Công tác tuyên truyền pháp luật về BHXH còn yếu nên
nhiều NLĐ chưa hiểu hết quyền và nghĩa vụ của mình, không dám đấu tranh với người
sử dụng lao động để đòi hỏi quyền lợi BHXH. Ngược lại, cũng không ít NLĐ lợi dụng
hoàn cảnh hoặc hiện trường tai nạn, khai báo không trung thực để được xác nhận là bị tai
nạn lao động.
Thứ hai, về phía người sử dụng lao động: Theo Bộ LĐTBXH, năm 2007, cả nước
xảy ra gần 6.000 vụ tai nạn lao động, làm 620 người chết, hơn 2.500 người bị thương
nặng. Song, thực tế con số này cao hơn nhiều, bởi hiện nay chỉ có 4,5% trong tổng số hơn
250.000 doanh nghiệp của cả nước báo cáo tai nạn lao động, phần đông còn lại đều trốn
tránh. Đặc biệt, có những doanh nghiệp thu tiền đóng BHXH của NLĐ nhưng không
đóng cho cơ quan BHXH nên đến khi xảy ra sự cố, NLĐ không được hưởng sự trợ cấp,
từ đó làm mất lòng tin vào chính sách này.
Thứ ba, về phía cán bộ BHXH: Đa phần những vụ làm giả hồ sơ đều có sự tham
gia của cán bộ bảo biểm, bởi bản thân NLĐ, nếu không am hiểu về chính sách và thủ tục
BHXH thì không thể thực hiện được hành vi gian lận. Ngoài ra, còn rất nhiều cán bộ
BHXH lợi dụng uy tín, chức vụ, quyền hạn… để chiếm dụng quỹ BHXH, chiếm đoạt tiền
hưởng BHXH của NLĐ, lừa đảo người tham gia BHXH…
Thứ tư, Việc giám định: việc giám định cho người bị bệnh còn nhiều khó khăn
trong việc hoàn tất thủ tục, đặc biệt là biên bản và kết quả giám sát môi trường lao động;
chưa có sự thống nhất và kết hợp chặt chẽ giữa y tế cơ sở - Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh
- Hội đồng giám định y khoa tỉnh/thành phố vì thế chưa đảm đảm bảo được quyền lợi cho
NLĐ theo đúng qui định của Nhà nước. Một nghiên cứu thực tế cho thấy tỷ lệ giám định
bệnh bụi phổi silic tại các cơ sở khảo sát chỉ đạt 17,9% tổng số trường hợp được chẩn
đoán mắc bệnh bụi phổi silic.
7
Thứ năm, Danh mục bệnh nghề nghiệp chưa đày đủ: BNN do mang tính chất đặc
trưng của nghề nghiệp tác động thường xuyên, kéo dài của các yếu tố nguy hiểm đến cơ
thể NLĐ gây ra hiện tượng bệnh lý đang có chiều hướng gia tăng. Ở nước ta, đến nay đã
có 25 BNN được Nhà nước công nhận. Đây là con số quá ít so với thế giới. Tại các nước
phát triển người ta đã nghiên cứu và phân ra có 29 nhóm BNN khác nhau và số người
mắc BNN nhiều vẫn là các công nhân trong lĩnh vực công nghiệp. Còn ở Việt Nam số
người mắc BNN đã được công bố tăng dần theo từng năm song còn rất nhiều căn bệnh
khác chưa công bố. Thực tế ở nước ta mỗi năm có từ 1.000- 1.500 NLĐ mắc các BNN
mới. Vì vậy trong điều kiện phát triển như hiện nay BNN cũng cần được nghiên cứu để
có biện pháp phòng ngừa và chính sách đền bù thoả đáng.
2.2. Một số biện pháp khắc phục:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giúp NLĐ chủ động trong lúc không may gặp
TNLĐ hoặc BNN có tự bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình.
- Các bộ liên quan, đặc biệt là Bộ y tế lên danh mực các BNN rõ ràng, thường
xuyên bổ sung, sửa đổi đảm bảo lợi ích chính đáng của NLĐ khi họ mắc phải những căn
bệnh liên quan đến công việc họ đang và đã từng làm.
- Hoàn thiện hành lang pháp lý và bộ máy tổ chức làm công tác BHLĐ; xây dựng
cơ sở dữ liệu ban đầu về TNLĐ; nâng cao năng lực hệ thống thanh tra, giám sát, báo cáo
TNLĐ; đảm bảo 100% số vụ TNLĐ chết người và TNLĐ nặng được điều tra và xử lý.
10.Chế độ hưu trí
Trong hệ thống chín chế độ bảo hiểm xã hội thì chế độ trợ cấp hưu trí là một trong
những chế độ quan trọng nhất vì: nó liên quan đến tất cả các mọi NLĐ từ khi bước vào
độ tuổi đến chết. Đặc biệt là mức đóng và mức hưởng của chế độ này luôn chiếm tỷ trọng
cao nhất trong tổng mức phí và trong tổng quỹ bảo hiểm xã hội, ngoài ra hoạt động thu -
chi cho chế độ này cũng có liên quan đến toàn bộ hoạt động của tất cả các cơ quan bảo
hiểm xã hội. Chính vì thế chế độ hưu trí được đại đa số các quốc gia thực hiện và thực
hiện sớm nhất. Nhưng trong quá trình xét hưởng gặp rất nhiều vướng mắc
10.1 Vướng mắc khi xét hưởng chế độ hưu trí.
Thứ nhất,Tuổi già là quá trình tất yếu không thể đảo ngược, chế độ hưu trí tất yếu
về thời kỳ nhưng ngẫu nhiên về thời điểm, cho nên việc quản lý sinh tử gặp rất nhiều khó
khăn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Vấn đề này liên quan đến hai vấn đề chính trong
quá trình xét hưởng:
8
Người được trợ cấp hưu trí mất, gia đình không báo tử để dấn đến họ vẫn nhận
được tiền trợ cấp chính điều này gây thâm hụt quỹ bảo hiểm xã hội.Trong nhiều trường
hợp gia đình người được trợ cấp hưu trí liên kết với cơ quan bảo hiểm cấp phường, xã, thị
trấn…không báo tử để vẫn nhận trợ cấp gây thâm hụt quỹ.
Thứ hai, Do quá trình già hóa dân số thế giới, tuổi thọ trung bình ngày càng cao,
nên việc trợ cấp bao nhiêu, thời gian nghỉ hưu, mức hưởng hưu, cũng ảnh hưởng rất lớn
đến việc chi quỹ bảo hiểm xã hội, chính vì thế việc đề ra các chính sách thực hiện chế độ
cũng gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, những hành vi vi phạm pháp luật: giả mạo giấy tờ, khai man thời gian
công tác và tuổi đời để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội cấp phường xã nhằm chuộc lợi bảo
hiểm xã hội gây tổn thất quỹ bảo hiểm xã hội, tạo tâm lý bức xúc trong nội bộ những
người nghỉ hưu nói riêng và trong toàn bộ những người tham gia BHXH nói chung.
Thứ tư, Chế độ hưu trí thường áp dụng đối với những người từng tham gia kháng
chiến. Nhưng việc xác định thời gian họ tham gia kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn, do
đó việc xét hưởng chế độ hưu trí và chế độ bảo hiểm y tế cho họ gặp rất nhiều khó khăn.
Vướng mắc này nếu được giải quyết tốt không những thể hiện trách nhiệm của nhà nước
đối với người có công đối với cách mạng, thể hiện lòng biết ơn đối với họ mà còn thể
hiện đạo lý của mỗi dân tộc, mỗi nước, mỗi chế độ chính trị, tính ưu việt của chế độ đang
thực hiện. Nhưng nếu không thực hiện tốt có thể ảnh hưởng lớn đến quỹ bảo hiểm xã hội,
tạo điều kiện cho người dân chuộc lợi làm thâm hụt quỹ bảo hiểm xã hội.
Thứ năm, Ở Việt Nam thu nhập làm cơ sở hưởng lương hưu là cơ sở: Thu nhập
bình quân một số năm cuối trước khi nghỉ hưu. Chưa phản ánh toàn bộ quá trình cống
hiến của NLĐ đối với xã hội, không đảm bảo tính công bằng giữa những NLĐ, hạn chế
cống hiến cho xã hội. Ngoài ra nếu áp dụng cơ sở này giúp cho người sử dụng lao động
tăng lương vô tội vạ cho NLĐ gây ảnh hưởng đến quỹ bảo hiểm xã hội làm thâm hụt quỹ
bảo hiểm xã hội.
Thứ sáu, Việc giải quyết đối với những trường hợp nghỉ hưu sớm( do mất sức lao
động hoặc do một số lý do khác), nghỉ hưu muộn hơn so với độ tuổi lao động( do tính
chất công việc: làm trong ngành nghiên cứu…hoặc do họ vẫn muốn cống hiến cho xã
hội) thì được xét hưởng như thế nào và cách tính cụ thể ra sao.Vấn đề này liên quan đến
công tác giám định y khoa, đây là thực trạng xảy rất phổ biến ở Vệt Nam. Mặc dù NLĐ
đã hồi phục nhưng không chịu đi là tiếp hoặc làm công việc khác có thu nhâp cao hơn mà
vẫn được hưởng lương làm tổn thất quỹ bảo hiểm xã hội.
10.2 . Vướng mắc khi xét hưởng chế độ hưu trí tự nguyện.
9
Những người tham gia chế độ tự nguyện chủ yếu là những người có thu nhập cao
và chỉ thiếu vài năm đóng bảo hiểm xã hội cho đủ thời gian quy định để được nhân lương
hưu khi về già, còn đối với những người có thu nhập thấp, lao động nông nghiệp, lao
động tự do thì việc tham gia bảo hiểm để được trợ cấp hưu trí lúc tuổi già gặp rất nhiều
khó khăn.
10.3 . Giải pháp khắc phục
- Các tổ hưu cần có trách nhiệm nắm bắt những tâm tư nguyện vọng của tổ viên;
tổ chức thăm hỏi động viên tổ viên khi ốm đau, hoạn nạn; thay mặt BHXH thành phố tổ
chức phúng viếng những hội viên từ trần; trực tiếp phổ biến các văn bản chế độ chính
sách khi có sự thay đổi về chế độ tiền lương và trợ cấp BHXH; báo cáo kịp thời những
biến động đối tượng và phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật, giả mạo giấy tờ, khai
man thời gian công tác và tuổi đời… để hưởng chế độ BHXH với ban liên lạc cấp
phường, xã.
- Ngoài sự chủ động về kinh phí và nội dung hoạt động của tổ chức hội và sự quan
tâm của chính quyền địa phương, cần có một cơ chế chính sách hỗ trợ cho hoạt động của
hội mang tính thống nhất, tạo nền tảng lâu dài cho tổ chức hội hoạt động có hiệu quả,
nhằm động viên và phát huy những khả năng tiềm ẩn và những kinh nghiệm quý báu
trong đội ngũ những người hưởng chế độ BHXH nói chung và đội ngũ những người nghỉ
hưởng chế độ hưu trí nói riêng trong việc góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội.
11.Chế độ thai sản
Trợ cấp thai sản được quy định nhằm hỗ trợ cho bản thân lao động nữ và trẻ sơ
sinh trước và sau khi sinh để bảo vệ sức khoẻ cho người mẹ và trẻ em. Nhằn góp phần tái
sản xuất sức lao động cho NLĐ nữ và các thế hệ lao động tương lai. Đây có thể nói là chế
độ có nhiều ưu đãi nhất về mức hưởng trợ cấp ( 100% mức tiền lương đóng BHXH trước
khi nghỉ) .
4.1. Vướng mắc trong xét duyệt trợ cấp thai sản
Quỹ bảo hiểm 2% để giải quyết chế độ ốm đau, thai sản giữ lại cho đơn vị sử dụng
lao động theo Luật Bảo hiểm xã hội gặp nhiều khó khăn trong khâu thanh quyết toán.
Nằm trong tình trang chung của việc thực hiện xét duyệt trợ cấp các chế độ BHXH ,việc
xét duyệt trợ cấp thai sản còn nhiều vướng mắc.Cụ thể:
10
Thứ nhất, Công tác xét duyệt: Việc xét duyệt trơ cấp thai sản còn chậm, chưa đảm
bảo được tính hỗ trợ kịp thời trong thời gian NLĐ nghỉ chế độ. Trên thực tế, theo thống
kê, nhiều doanh nghiệp thậm chí cả cơ quan Nhà Nước cũng chỉ đi làm thủ tục trợ cấp
thai sản cho NLĐ 2 năm/lần - 6 tháng/lần với lý do thủ tục rườm rà. Trong khi đó các
doanh nghiệp không chịu ứng trước tiền trợ cấp thai sản
Ngoài ra, chính sách xét duyệt trợ cấp thai sản hiện nay vẫn còn bất hợp lý và
thiếu công bằng với NLĐ:
Việc khấu trừ 5% tiền lương của NLĐ để đóng BHXH là việc làm rất dễ của
người sử dụng lao động. Mặt khác người sử dụng trây ỳ, đóng chậm, nợ đọng, trốn nộp
15% và lấy luôn 5% của NLĐ. Rõ ràng lỗi là ở chủ sử dụng lao động nhưng NLĐ phải
hoàn toàn gánh chịu và tất nhiên sẽ không được hưởng chính sách ưu đãi của chế độ thai
sản.
Kiểm tra các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Hà Nội thì lao đông nữ chì được
nhận trợ cấp thai sản khi sinh con là 53,8%.Việc thực hưởng cũng theo các mức lương
trung bình và thời gian nghỉ cũng rất khác nhau 100%,50%,40% dao động 1-4 tháng.Chủ
lao động thường không thực hiện các quy định về chế độ nghỉ thai sản ,thời gian khám
thai.Do đó việc xét duyệt rất khó khăn
Bên cạnh đó, việc xét duyệt chưa đồng bộ và thống nhất, trong quá trình xét duyệt
cơ quan BHXH chưa thực hiện tốt phối hợp đồng bộ với Bộ Y Tế, tổ chức phụ nữ, tổ
chức Công đoàn để phản ánh đúng thực trạng của lao động nữ chính xác và kịp thời.
Thứ hai, vấn đề sinh con thứ 3: Theo quy định hiện hành, khi sinh con thứ 3 thì
lao động nữ không được hưởng trợ cấp; song trên thực tế có nhiều người do ảnh hưởng
của chiến tranh hoặc mắc bệnh lý khi thai nghén nên khi sinh con hay bị dị tật, thường
gắng sinh con lần thứ 3 và như vậy thì sẽ không được hưởng trợ cấp thai sản. Điều này,
đã gây khó khăn cho chị em khi sinh con thứ 3 trong việc phục hồi sức khoẻ và chăm sóc
trẻ sơ sinh, đồng thời cũng tạo ra sự mất công bằng giữa trẻ em. Vì vậy, pháp luật nên có
sự điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình thực tế cuộc sống, cần đặc biệt quan tâm và
có giải pháp phù hợp với những trường hợp như đã nêu.
Thứ ba, việc xét hưởng trợ cấp thai sản chưa bao quát được hết các đối tượng
cần được bảo vệ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế: Đối tượng lao động nam không
thuộc đối tượng hưởng trợ cấp thai sản. Mặc dù họ thoả mãn:
+Đóng BHXH
+Học cũng cần chia sẽ trách nhiệm với vợ trong quá trình thai sản và nuôi con.
11
Trong cơ chế thị trường, mô hình gia đình chỉ có 1 NLĐ làm công ăn lương có thể
tăng lên. Loại hộ gia đình chỉ có lao động nam làm việc trong lĩnh vực làm công ăn lương
thì khi người vợ mang thai và sinh con .Vừa phải chăm sóc vợ con vừa phải lo kinh tế gia
đình. Do đó trong việc xét duyệt trợ cấp cũng cần mở rộng cho đối tượng này.
Thứ tư, vấn đề sinh con bằng phương pháp khoa học: Trên thực tế, hiện nay có
những trường hợp lao đông cả nam lẫn nữ làm việc trong lĩnh vực làm công ăn lương đã
và đang thực hiện các biện pháp khoa học để có con.
Vấn đề đặt ra là chưa có phương án xét duyệt trợ cấp cụ thể cho những đối tượng
này. Mặc dù đã có quan tâm, nhưng vẫn chỉ dừng lại ở hướng dẫn chung chung, gây khó
khăn trong việc xét duyệt trợ cấp. Trong khi đó, họ cũng đóng BH đầy đủ để hưởng trợ
cấp chế độ thai sản, nhưng trong trường hợp này chỉ khi họ mang thai mới được hưởng
chế đô trợ cấp thai sản, còn thời gian để thực hiện các biện pháp khoa học có thể mang
thai trước đó nằm trong quá trình thai sản, họ thường phải nghỉ không lương hoặc chấp
nhận nghỉ việc. Trong khi đó thời gian để thực hiện các biện pháp để có thể mang thai và
sinh con theo phương pháp khoa học mất nhiều thời gian, có thể thực hiện nhiều lần.
Trong thời gian đó lại không được xét hưởng trợ cấp thai sản.
4.2. Một vài đề xuất giải quyết vướng mắc
Để triển khai tốt việc xét duyệt trợ cấp thai sản. Dưới góc độ người nghiên cứu
chúng tôi có 1 số khuyến nghị như sau:
- Mở rộng đối tượng xét duyệt trợ cấp thai sản cho cả đối tượng nam giới
- Cần có những biện pháp mạnh hơn trong viêc bắt buộc chủ sử dụng lao động
thực hiện quy định về bảo hiểm thai sản .Bên cạnh việc khoanh nợ cho chủ sử dụng lao
động còn nợ nghĩa vụ nộp BHXH để giải quyết chế độ thai sản kip thời cho NLĐ khi quá
trình xét duyệt chưa xong.
- Phát huy hơn nữa vai trò của tổ chức công đoàn, tổ chức phụ nữ ,ban nữ công đại
diện bảo vệ quyền lợi cho NLĐ trong quá trình thực hiện các chế độ trợ cấp thai sản.
Đồng thời cung cấp thông tin trong quá trình xét duyệt trợ cấp bảo đảm thông tin chính
xác ,kịp thời và sát thực
Tóm lại, chế độ trợ cấp thai sản nằm trong hệ thống chế độ trợ cấp BHXH. Nhằm
trợ giúp bảo đảm công bằng về thu nhập và bảo đảm sức khoẻ của phụ nữ khi mang thai
và sinh con. Song qua việc xét duyệt trợ cấp còn nhiều vướng mắc, do đó cần xem xét
nghiên cứu hoàn thiện
12
12.Chế độ trợ cấp ốm đau
Trong cuộc sống ốm đau là loại rủi ro rất phổ biến của con người mà ai cũng gặp
phải, khi bị ốm đau bản thân người ốm và gia đình phải gánh chịu những chi phí phát
sinh (và nếu tham gia BHXH thì chế độ chăm sóc y tế gánh vác cho). Tuy nhiên, nếu ốm
đau phải nghỉ dài ngày thì những ngày ốm của NLĐ sẽ mất thu nhập và bị gián đoạn thu
nhập. Khoản thu nhập này sẽ được bù đắp bằng chế độ ốm đau. Bởi vậy thực hiện chế độ
này sẽ bảm bảo thu nhập liên tục cho NLĐ và gia đình của họ ổn định cuộc sống. Với
mục tiêu cao cả của nó, cho nên đây là một trong chế độ đầu tiên mà BHXH Việt Nam
thực hiện. Nhưng tuy mức hưởng và điều kiện hưởng đã được quy định chi tiết cụ thể
trong Luật BHXH nhưng vẫn còn một số bất cập trong thực tế triển khai.
5.1. Vướng mắc trong xét hưởng trợ cấp ốm đau
Thứ nhất: Luật BHXH quy định rất rõ điều kiện hưởng và mức hưởng chế độ ốm
đau đối với NLĐ và cũng xác định rõ chế độ áp dụng với chế độ ốm đau dài hạn. Song
danh mực bệnh cần chữa trị dài hạn do bộ y tế ban hành lại chưa quy định đến các bệnh
liên quan đến chức năng sinh sản của người phụ nữ. Hiện nay, có không ít mang thai
bệnh lý, thụ tinh trong ống nghiệm phải nằm điều trị dài ngày tại các cơ sở chuyên khoa.
Nhưng do pháp luật chưa đầy đủ và quy định không rõ nên việc giải quyết cho những đối
tượng này gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ hai: Đối với NLĐ có dưới 7 tưổi ốm đau, khoản 2 điều 22 Luật BHXH quy
định điều kiện để NLĐ nghỉ chăm sóc con là có xác nhận của cơ sở y tế. Quy định này
trên thực tế chỉ áp dụng cho những trường hợp trẻ bị ốm nặng phải điều trị nội trú ở các
cơ sở y tế; trường hợp trẻ bị ốm dịch, ốm nhẹ, điều trị tại nhà thong thường khi nghỉ việc
không được nhận chế độ bảo hiểm. Việc quy định chặt chẽ này gây khá nhiều khó khăn
cho lao động nữ nhất là trong trường hợp con họ thương xuyên bị ốm vặt. Trong các gia
đình thong thương khi con ốm, người mẹ phải nghỉ việc để chăm sóc con, nên ảnh hưởng
rất lớn đến thời gian làm việc của họ tại các cơ quan, xí nghiệp.
Thứ ba: Điều 2 khoản 24 quy định trường hợp cả bố và mẹ đều tham gia BHXH
nếu người mẹ đã nghỉ hết thời gian mà con vẫn ốm thì người bố được phép nghỉ tiếp hoặc
ngược lại. Đây là quy định mới đáp ứng quyền lợi chính đáng của NLĐ. Tuy nhiên, việc
quy định một người đã nghỉ hết thời hạn cho phép thì người kia mới được nghỉ tiếp; trên
thực tế kiến cho NLĐ gặp rất nhiều khó khăn, nhất là những trường hợp điều kiện công
việc và sức khỏe không cho phép.
13
Thứ tư: Một số trường hợp cán bộ quản lý và công nhân của công ty làm thủ tục
nghỉ ốm đau hưởng trợ cấp bảo hiểm nhưng thực tế vẫn đi làm và có lương. Ngoài ra, có
rất nhiều trường hợp khai tăng số ngày được nghỉ hưởng trợ cấp như khi làm hồ sỡin trợ
cấp ốm đau cho công nhân là 55 ngày trong khi căn cứ theo thời gian đóng góp, công
nhân này chỉ được hưởng không quá 30 ngày trong năm. Điều này cho thấy trong công
tác xét hưởng còn có nhiều khe hở. Cho nên, bất kể ốm thật hay “ giả vờ ốm” cứ có giấy
của bác sĩ cho nghỉ thì sẽ được trợ cấp ốm đau.
5.2. Giải pháp khắc phục
- Phải có một đội ngũ giám định y khoa để giám định những trường hợp ốm đau
tránh tình trạng xét nhầm đối tượng.
- Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến quyền và nghĩa vụ của NLĐ trong
chế độ ốm đau.
- Các bộ BHXH cũng cần phải linh hoạt trong xử lý các trường hợp đặc biệt bảo
vệ quyền lợi chính đáng cho NLĐ nhưng cũng phải theo quy định của pháp luật.
- Phải phối kết hợp với các cơ sở y tế để nắm rõ tình hình ốm đau của NLĐ và có
những biện pháp cụ thể, đúng đắn và kịp thời trong công tác xét hưởng.
13.Chế độ trợ cấp tử tuất
Ngay từ khi thành lập chính quyền nhân dân và trong suốt TK kháng chiến, mặc
dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song chính phủ đã luôn chăm lo cải thiện đời sống
của nhân dân lao động nói chung và riêng đối với công nhân viên chức nhà nước. Ngoài
việc ban hành tiền lương, chính phủ đã ban hành các chế độ trợ cấp xã hội mà thực chất
là các chế độ BHXH, trong đó một trong những chế độ được triển khai đầu tiên là chế độ
tử tuất, đây là chế độ nhân đạo nhất trong các hệ thống các chế độ BHXH.
6.1. Vướng trong xét hưởng chế độ tử tuất
Mặc dù sớm được triển khai nhưng cho đến nay chế độ này vẫn còn nhiều hạn chế
trong công tác xét hưởng:
Thứ nhất, mức hưởng chế độ chưa rõ ràng: Hiện nay chính phủ vừa ban hành
nghị định 101/2008/NĐ-CP về việc tăng 15% lương hưu, trơ cấp bảo hiểm và trợ cấp
hàng tháng đối với một số đối tượng tham gia BảO HIểMXH, có một số điều mà nghị
định không nói rõ. Hai đối tượng hưởng tử tuất hàng tháng và trợ cấp tai nạn hàng tháng
14
không có qui định trong nghị định nên hiện nay phải chờ hướng dẫn của BLĐTBXH để
thưc hiện.
Chế độ trợ cấp tử tuất về nguyên tắc càng trợ cấp nhiều càng tốt tuỳ vào khả năng
của quỹ. Vì vậy, nên tăng mức trợ cấp hàng tháng. Hơn nữa hiện nay trong luật cũng
chưa có qui định về chế độ trợ cấp hàng tháng của chế độ tử tuất tự nguyện. Nên có qui
định về trợ cấp tuất hàng tháng đối với chế độ này để người được hưởng trợ cấp tuất hàng
tháng có thể chọn một trong hai hình thức hưởng hàng tháng hoặc một lần.
Thứ hai, về đối tượng hưởng:
Khi trợ cấp mai táng phí để chi trả ma chay tang lễ về nguyên tắc là thực hiện
đồng đều cho tất cả mọi NLĐ nhưng trong trường hợp ngoại lệ phaỉ xét đến yếu tố tín
ngưỡng và văn hoá…
Cần qui định thêm trường hợp trợ cấp tử tuất hàng tháng đối với người vợ goá
hoặc chồng goá nếu có tái hôn thì phải xét lại chế độ trợ cấp.
Theo điều 64 mục 5 Luật BHXH, khi NLĐ chết, thân nhân được hưởng trợ cấp
khi người này đã đủ 15 đóng góp BHXh trở lên hoặc chết do TNLĐ & BNN. Như vậy,
thân nhân những của NLĐ chưa đủ điều kiện trên sẽ không được hưởng sự bảo vệ của
chế độ này. Đặc biệt nếu NLĐ là người mang lại thu nhập chính cho gia đình, khi họ mất
đi sẽ gây rất nhiều khó khăn cho thân nhân.
Đối với đối tượng là con đã đủ 18 tuổi nhưng không thể tự chăm sóc cho bản thân
( ví dụ bị tàn tật), khi mất người nuôi dưỡng, họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn nhưng cho đến
nay vẫn chưa được sự đảm bảo của chế độ này
6.2. Chế độ tử tuất trong BHXH tự nguyện.
Luật hiên hành ra đời năm 2006 quy định chế độ tử tuất có 2 loại hình là bảo hiểm
bắt buộc va bảo hiểm tự nguyện.Theo em không cần quy định riêng cho loại hình bảo
hiểm tự nguyện ma những quy định về nghĩa vụ đóng góp và quyền hưởng bảo hiểm có
thể áp dụng cho cả hai loại hinh bắt buộc và tự nguyện.chỉ nên có 1 quy định chung cho
cả hai loại hình bảo hiểm có như vậy mới bảo đảm tính thống nhất trong tổ chức quản lý
cũng như trong quy trình chuyên đổi giữa hai loại hình bảo hiểm mà không gây trở ngại
gì cho NLĐ và cơ quan quản lý. Do khac nhau về trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh,
quản lý lao động,việc làm và tiền lương nên loại hình bảo hiểm bắt buộc mang tính
cưỡng chế theo pháp luật con tự nguyện la mang tính vận động thuyết phục. Quá trình
tham gia bảo hiểm sẽ từng bước chuyển hoá từ tự nguyện sang bắt buộc, phụ thuộc vào
yếu tố thời gian đóng bảo hiểm và sự ràng buộc giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Vì vậy
15
không nên quy định riêng loại hình bảo hiểm tự nguyện chỉ nên quy định trình tự thủ tục
cho việc tự nguyện sao cho có tính thuyết phục cao, đó là yêu cầu chính để người sử
dụng lao động và NLĐ cùng hướng tới.
6.3. Đề xuất giải pháp
Chính phủ cần ngày càng hoàn thiện và phát triển hơn các chế độ BHXH nói
chung và chế độ tử tuất nói riêng. Nó sẽ là động lực góp phần hoàn thành tốt mục tiêu ổn
định chính trị và phát triển kinh tế của nước ta.
- Khi NLĐ không may qua đời, trong lúc thân nhân NLĐ còn nhiều bối rối, cán bộ
BHXH cần phối kết hợp với cơ quan, đơn vị mà NLĐ làm việc linh hoạt giải quyết chế
độ tử tuất kịp thời cho thân nhân.
- Trợ cấp mai táng cần tăng mức trợ cấp để đảm bảo tốt hơn nhu cầu và đảm bảo
cho sự đóng góp của chính NLĐ
- Vì đối tượng BHXH tự nguyện khó quản lý hơn bắt buộc nên việc làm thủ tục
chi trả cho người được hưởng cần đơn giản hơn.
14.Chế độ BHTN
Ngày 12/12/2008 Chính phủ ban hành Nghị định số 127/2008/NĐ-CP Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về bảo hiểm thất nghiệp. Đến
ngày 01/01/2009 BHTN chính thức được triển khai trên toàn quốc. Việt Nam hiện có trên
9 triệu lao động chính thức và gần 36 triệu lao động phi chính thức, vì vậy việc triển khai
BHTN cho NLĐ là một chính sách vô cùng thiết thực và mang tính nhân đạo nhân văn
cao cả. Tuy nhiên, cho đến nay mặc dù chưa có đối tượng nào được hưởng trợ cấp từ
chính sách này nhưng đã xuất hiện rất nhiều vướng mắc xung quanh việc xét hưởng chế
độ này:
7.1. Vướng mắc trong BHTN
Thứ nhất,Về điều kiện hưởng BHTN:Theo điều 15 Nghị định 127/2008: Để hưởng
chính sách BHTN, NLĐ phải đủ 3 điều kiện: đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở
lên trong vòng 24 tháng trước khi bị mất việc làm; đã đăng ký với cơ quan lao động khi
bị mất việc làm; chưa tìm được việc sau 15 ngày, kể từ khi đăng ký.Theo quy định này
thì những NLĐ mới đóng BHTN dưới 12 tháng nhưng sau đó bị thất nghiệp, lúc này khi
bị mất việc thì họ sẽ không được hưởng BHTN.
16
Trường hợp NLĐ khi cộng dồn các thời gian đóng BHTN thì đã đủ điều kiện
hưởng TCTN nhưng lại không đảm bảo điều kiện đủ 12 trên 24 tháng liền kề trước khi bị
thất nghiệp theo quy định sẽ không được chính sách này bảo vệ.
Theo Khoản 1 điều 41 Nghị định này quy định: Thời gian NLĐ đóng BHTN theo
quy định không được tính để hưởng trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm theo quy
định của pháp luật về lao động và pháp luật về cán bộ công chức. điều này gây nhiều hiểu
lầm cho NLĐ
Thứ hai, Về mức hưởng BHTN: Theo điều 82, Luật BHXH: Mức hưởng trợ cấp thất
nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của
6 tháng liền kề trước khi NLĐ thất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp sẽ là 3
tháng nếu có từ đủ 12 tháng - dưới 36 tháng đóng BHTN; 6 tháng nếu có từ đủ 36 tháng -
dưới 72 tháng đóng BHTN; 9 tháng nếu có từ đủ 72 tháng - dưới 144 tháng đóng BHTN;
12 tháng nếu có từ đủ 144 tháng đóng BHTN trở lên.
Dựa vào quy định trên, với NLĐ có tiền lương 1 triệu đồng/tháng, nộp phí bảo
hiểm 1% (tương đương 120 ngàn đồng/năm). Nếu như sau 1 năm bị thất nghiệp, số tiền
mà BHTN chi trả cho họ là 1,8 triệu đồng. Như vậy, sau khi trừ 120.000 đồng phí BHTN
đã đóng, NLĐ sẽ thực nhận số tiền là 1,68 triệu đồng/năm.
Tuy nhiên, với những người tham gia BHTN 10 năm, họ chỉ được nhận khoản tiền
5,4 triệu đồng. Sau khi trừ đi phí đóng trong 10 năm, NLĐ thực nhận chỉ là 4,2 triệu
đồng. Như vậy, số tiền thực nhận 1 năm của người đóng bảo hiểm thất nghiệp sẽ chỉ là
420.000 đồng, bằng 1/4 số tiền trợ cấp cho người mới đóng một năm. Cũng với cách tính
tương tự, nếu tham gia BHTN 20 năm, thì số tiền BHTN được nhận chỉ còn 240.000
đồng/năm.
Như vậy theo tính toán thời gian tham gia BHTN càng dài thì số tiền bảo hiểm mà
NLĐ nhận đựợc bình quân theo mức đóng càng giảm. Đây là điều bất công bằng giữa
những người tham gia BHTN. Như vậy, những người tham gia càng lâu lại càng thiệt. Đó
là chưa kể, nếu không thất nghiệp, họ sẽ chẳng được nhận khoản trợ cấp nào, trong khi
nguyên tắc chung của BHXH là có đóng, có hưởng; đóng càng nhiều, hưởng càng nhiều.
7.2. Giải pháp khắc phục:
Đây là loại hình bảo hiểm mới lần đầu được triển khai ở Việt Nam, không tránh
khỏi những thiếu sót trong luật và trong thực tế triển khai. Vì thế, theo ý kiến bản thân
em cần phải thực hiện các giải pháp sau:
17
- Do chế độ mới đi vào triển khai thực hiện, vì thế công tác tuyền truyền cho NLĐ
và NSDLĐ hiểu được tính chất đúng đắn, hiệu quả của chính sách. Tạo tâm lý tự nguyện
tham gia, giảm tình trạng trốn đóng phí BHTN.
- Cơ quan chức năng cần phải nắm bắt tình hình thực tế về cơ cấu lao động của
nền kinh tế hiện nay để có những bổ sung kịp thời, từng bước hoàn thiện về mặt luật
pháp. Bỏ những ràng buộc không cần thiết về điều kiện hưởng để có thêm nhiều NLĐ
được sự bảo vệ của chính sách này.
Xem xét lại về mức hưởng, tạo sự công bằng cho tất cả NLĐ. Nên chăng tạo lập
quỹ cá nhân cho NLĐ, trong trường hợp NLĐ đến khi về hưu nhưng không bị mất việc
làm được trả lại khoản tiền mà mình đã đóng góp.
IV. NHỮNG BIỆN PHÁP THÁO GỠ VƯỚNG MẲC TRONG CÔNG TÁC XÉT
HƯỞNG HIỆN NAY.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật về BHXH, phối hợp với các cơ quan,
ban, ngành chức năng, như tổ chức Công đoàn, ngành Lao động- Thương binh và Xã
hội… tổ chức tuyên truyền, đặc biệt là đối với NLĐ và người sử dụng lao động, để nâng
cao ý thức trách nhiệm của các bên liên quan trong BHXH. Có thể nói công tác tuyên
truyền được coi là khâu yếu nhất trong triển khai BHXH hiên nay, một minh chứng cho
nhận xét này đó là việc tuyên truyền cho chính sách BHTN trong thời gian qua. Mặc dù
18
đã đi vào triển khai được hơn 3 tháng nhưng cho đến này rất nhiều doanh nghiệp và NLĐ
vẫn chưa thực sự hiểu về chế độ này, làm xuất hiện những hiểu lầm không đáng có về
vấn đề xét hưởng.
- Thường xuyên rà soát và tổ chức thực hiện nghiêm các qui trình nghiệp vụ, đặc
biệt là khâu chi trả BHXH để phát hiện và khắc phục kịp thời những kẽ hở.
Xây dựng một quy trình xét duyệt hồ sơ đơn giản nhanh chóng nhưng phải đảm bảo
chính xác, đúng chế độ, đúng đối tượng và đúng mức trợ cấp. Quy trình xét duyệt hồ sơ
được thực hiện thông qua ba cấp: đơn vị sử dụng lao động hướng dẫn NLĐ lập hồ sơ,
BHXH cấp tỉnh sẽ thực hiện kiểm tra và ra quyết định mức hưởng cho NLĐ, BHXH Việt
Nam thẩm định tính chính xác của quyết định trên. Muốn thực hiện được như vậy trước tiên
chúng ta phải có những cán bộ xét duyệt được đào tạo và có năng lực, trình độ và phải có
đạo đức nghề nghiệp, tránh tình trạng thông đồng. Phải thực hiện việc đào tạo các cán bộ
chuyên trách của đơn vị tham gia BHXH về thủ tục và các giấy tờ cần thiết để họ hướng dẫn
lại cho các đối tượng được hưởng của đơn vị mình, tránh tình trạng thiếu giấy tờ cần thiết
trong hồ sơ. Phải phối hợp với các cơ quan đơn vị khác để kiểm tra tính hợp pháp của các hồ
sơ hưởng như: bên bệnh viện, cảnh sát, toà án,
Cần tích cực kiểm tra và rà soát lại các hồ sơ đã xét duyệt, nếu phát hiện ra những
vi phạm phải lập tức điều chỉnh hoặc dừng việc trợ cấp lại ngay. Và việc kiểm tra này
phải được thực hiện định kì, nếu có sai sót mà BHXH tỉnh không thu hồi lại được thì phải
có trách nhiệm bội thường cho quỹ. Đặc biệt nếu phát hiện ra cán bộ BHXH có thông
đồng với người được hưởng trợ cấp thì phải xử phạt nghiêm minh.
Lập hệ thống đại lí thực hiện chi trả kịp thời đảm bảo công tác chi được thực hiện
một cách nhanh chóng, chính xác. Theo như tình hình hiện nay, đối với các chế độ ngắn
hạn đại lí chính là người sử dụng lao động, đối với các chế độ dài hạn chủ yếu là các cán
bộ xã phường là phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay. Tuy vậy cùng với sự phát triển
của hệ thống ngân hàng hiện nay thì chúng ta có thể triểm khai áp dụng hình thức chi tra
thông qua hệ thống tài khoản. Đây cũng là định hướng tốt bởi nếu thực hiện được thì chi
phí quản lí sẽ tiết kiệm được chi phí quản lí lại vừa đảm bảo tính an toàn.
- Từng bước hoàn thiện những quy định về đối tượng hưởng, điều kiện hưởng,
mức hưởng… mở rộng phạm vi bảo vệ của hệ thống BHXH, tạo điều kiện nâng cao đời
sống cho NLĐ và gia đình của họ.
Cán bộ BHXH cấp dưới phải thường xuyên tìm hiểu tâm tư nguyên vọng của
NLĐ, xem xét những vướng mắc trong thực tế xét hưởng để có những để xuất, kiến nghị
đúng đắn lên cấp trên. Cán bộ cấp trên phải biết tiếp nhận ý kiến, đề xuất của cấp dưới,
19
để có những điều chỉnh kịp thời trong chế độ chính sách, từng bước tăng diện bảo vệ của
BHXH trong điều kiện cho phép của Quỹ BHXH, bảo vệ quyền lợi chính đáng của NLĐ.
Ngoài ra, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH. Tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật BHXH của các cá nhân, đơn vị tham gia
BHXH, tổ chức BHXH. Đưa ra chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi gian lận.
- Công khai hoá về đối tượng, thủ tục, mức hưởng BHXH… cho NLĐ, đặc biệt là
các đối tượng hưởng bổ sung, những đối tượng đặc thù tránh tình trạng NLĐ bị lừa vì
thiếu hiểu biết. Thường xuyên rà soát và tổ chức thực hiện nghiêm các qui trình nghiệp
vụ, đặc biệt là khâu chi trả BHXH để phát hiện và khắc phục kịp thời những kẽ hở.
20