Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

luận văn chuyên ngành bảo hiểm Hoàn thiện và phát triển hệ thống bán lẻ bảo hiểm xe cơ giới tại công ty bảo hiểm PVI Bắc Sông Hồng – Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.82 KB, 79 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
HỌ TÊN SV : NGUYỄN THỊ THỦY
MÃ SV : CQ502595
LỚP : KINH TẾ BẢO HIỂM 50B
GVHD : TH.S NGUYỄN THỊ CHÍNH
ĐỂ TÀI: Hoàn thiện và phát triển hệ thống bán lẻ bảo hiểm xe cơ giới
tại công ty bảo hiểm PVI Bắc Sông Hồng – Bắc Ninh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BH XCG : Bảo hiểm xe cơ giới
BH TNDS : Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
BH VCXCG : Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
STBH : Số tiền bảo hiểm
STBT : Số tiền bồi thường
GTBH : Giá trị bảo hiểm
DNBH : Doanh nghiệp bảo hiểm
XCG : Xe cơ giới
KDKV : Kinh doanh khu vực
XCG-CN : Xe cơ giới-con người
QLĐL : Quản lý đại lý
DANH MỤC SƠ ĐỒ - BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 : Biểu phí bảo hiểm vật chất xe
Bảng 1.2 : Bảng tỷ lệ giảm phí theo số năm không tổn thất
Bảng 1.3 : Tỷ lệ giảm phi theo số lượng xe tham gia bảo hiểm
Bảng 1.4 : Tỷ lệ giảm phí theo mức miễn thường
Bảng 1.5 : Tỷ lệ tăng phí theo tỷ lệ bồi thường
Sơ đồ 2.1 : Cơ cấu tổ chức của PVI Bắc Sông Hồng
Bảng 2.1 : Doanh thu của PVI Bắc Sông Hồng giai đoạn 2008 – 2011
Bảng 2.2 : Tình hình thực hiện kế hoạch của PVI Bắc Sông Hồng
Biểu đồ 2.1 : Tình hình thực hiện kế hoạch của PVI Bắc Sông Hồng
Bảng 2.3 : Tình hình bồi thường tại PVI Bắc Sông Hồng giai đoạn 2008-2011
Biểu đồ 2.2 : Số tiền bồi thường và doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 2008-2011


Bảng 2.4 : Kết quả và hiệu quả kinh doanh của PVI Bắc Sông Hồng giai đoạn
2008 – 2009
Sơ đồ 2.2 : Kênh bán lẻ của PVI Bắc Sông Hồng
Sơ đồ 2.3 : Báo cáo phát sinh
Bảng 2.5 : Tình hình phát triển hệ thống bán lẻ bảo hiểm xe cơ giới giai đoạn
2008 – 2011
Bảng 2.6 : Tình hình khai thác bảo hiểm xe cơ giới tại PVI Bắc Sông Hồng giai
đoạn 2008 – 2011
Bảng 2.7 : Tình hình thực hiện kế hoạch khai thác bảo hiểm xe cơ giới tại PVI Bắc
Sông Hồng giai đoạn 2008 – 2011
Biểu đồ 2.3 : Tình hình thực hiện kế hoạch khai thác bảo hiểm xe cơ giới tại PVI Bắc
Sông Hồng
Bảng 2.8 : Tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới trong tổng doanh thu phí
của toàn công ty
Biều đồ 2.4 : Tỷ trọng doanh thu phí BH XCG
Bảng 2.9 : Tình hình bồi thường BH XCG tại PVI Bắc Sông Hồng giai đoạn
2008 – 2009
Biểu đồ 2.5 : Số tiền bồi thường và doanh thu phí BH XCG tại PVI Bắc Sông Hồng
Bảng 2.10 : Kết quả và hiệu quả kinh doanh BH XCG tại PVI Bắc Sông Hồng giai
đoạn 2008 – 2011

LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng toàn cầu hoá trên thế giới cùng với việc Việt Nam trở thành thành
viên thứ 150 của WTO đã mở ra nhiều cơ hội mới cho mọi nhà, mọi doanh nghiệp, mọi
lĩnh vực trong đó không thể không nói tới bảo hiểm - một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở
Việt Nam. Chúng ta đang thực hiện các cam kết mở cửa, khiến cho các doanh nghiệp
đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng
không nhỏ. Chính vì lẽ đó, các công ty bảo hiểm đang phải nỗ lực hết mình để tạo
dựng được niềm tin đối với khách hàng và không ngừng nghiên cứu, sáng tạo, phát
triển sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày một cao của khách hàng.

Trong bảo hiểm không thể không nói tới bảo hiểm xe cơ giới - loại hình bảo hiểm
phổ biến tại hầu hết các DNBH phi nhân thọ. Bảo hiểm xe cơ giới đóng góp một phần
quan trọng trong doanh thu của các công ty bảo hiểm. Số lượng các loại xe cơ giới
ngày một tăng theo sự tăng lên về mức sống của người dân, kéo theo nhu cầu về bảo
hiểm xe cơ giới ngày càng lớn. Cũng vì thị trường đầy tiềm năng này mà các công ty
bảo hiểm luôn giành giật để chiếm thị phần lớn, tạo chỗ đứng cho mình trên thị trường
bảo hiểm. Và các doanh nghiệp đã làm gì để chiếm lĩnh thị trường của mình một cách
hiệu quả nhất.
Một phần không thể thiếu, vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến sự thành bại trong
kinh doanh bảo hiểm là kênh phân phối. Các sản phẩm bảo hiểm được cung cấp cho
khách hàng là những sản phẩm vô hình. Chính vì vậy, việc lựa chọn kênh phân phối
phù hợp là một yêu cầu quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào kinh doanh trong
lĩnh vực bảo hiểm. Bên cạnh việc nắm bắt nhu cầu để thiết kế ra những sản phẩm đáp
ứng và thỏa mãn nhu cầu ngày một đa dạng và phong phú của khách hàng, doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải lựa chọn hệ thống kênh phân phối phù hợp với từng
nhóm khách hàng và từng thị trường mục tiêu. Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế,
doanh thu của các công ty bảo hiểm từ khu vực khách hàng doanh nghiệp và tổ chức bị
giảm mạnh. Để bù đắp cho những khoảng trống này, nhiều DNBH đã chọn giải pháp
tập trung vào thị trường bán lẻ, cung cấp dịch vụ trực tiếp đến khách hàng cá nhân.
Thấy được tầm quan trọng của hệ thống bán lẻ trong kinh doanh bảo hiểm nói
chung và trong bảo hiểm xe cơ giới nói riêng, sau một thời gian thực tập tại công ty
bảo hiểm PVI Bắc Sông Hồng- Bắc Ninh, em chọn đề tài “Hoàn thiện và phát triển hệ
thống bán lẻ bảo hiểm xe cơ giới tại công ty bảo hiểm PVI Bắc Sông Hồng- Bắc
Ninh”.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Khái quát về bảo hiểm xe cơ giới và hệ thống bán lẻ bảo hiểm xe cơ
giới.
Chương II: Thực trạng hệ thống bán lẻ bảo hiểm xe cơ giới tại công ty bảo hiểm
PVI Bắc Sông Hồng – Bắc Ninh.
Chương III: Giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống bán lẻ bảo hiểm xe

cơ giới tại công ty bảo hiểm PVI Bắc Sông Hồng – Bắc Ning trong thời gian tới.
Bảo hiểm xe cơ giới bao gồm:
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
- Bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với hàng hóa chở trên xe.
- Bảo hiểm tai nạn hành khách trên xe.
- Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của em, em chỉ chú trọng vào hai nghiệp vụ: Bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và bảo hiểm vật chất
xe cơ giới. Vì đây cũng là hai nghiệp vụ chính trong bảo hiểm xe cơ giới tại công ty
bảo hiểm PVI Bắc Sông Hồng.
Em xin chân thành cảm ơn cô Th.s Nguyễn Thị Chính đã giúp đỡ và hướng dẫn
em tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp. Em
cũng chân thành cảm ơn các anh chị trong công ty Bảo hiểm dầu khí PVI Bắc Sông
Hồng đã chỉ bảo và tạo điều kiện cho em nghiên cứu, hoàn thiện Luận văn này.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên
bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong được sự góp ý của thầy
cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI VÀ HỆ
THỐNG BÁN LẺ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI
1.1. Khái quát về bảo hiểm xe cơ giới
1.1.1. Đặc điểm hoạt động của xe cơ giới và sự cần thiết phải bảo hiểm xe cơ
giới
XCG có thể hiểu là các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ
của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô, xe máy.
XCG có tính việt giã, cơ động, hoạt động được trên các địa bàn có địa hình khác
nhau, đặc biệt phù hợp với giao thông đường bộ nước ta. Chính vì vậy XCG được sử
dụng phổ biến trong giao thông đường bộ, vận tải hành khách và hàng hóa ở nước ta.
Nhờ có tính cơ động của mình, XCG góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế, văn hóa ở
những vùng núi xa xôi, củng cố tính thống nhất của nền kinh tế, tăng cường sức mạnh

quốc phòng của đất nước. Với chi phí rẻ hơn so với các loại phương tiện vận tải khác
nên XCG rất được ưa chuộng đối với người dân. Tuy nhiên, trong những năm qua để
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, số lượng XCG lưu hành gia tăng khá nhanh
trong khi cơ sở hạ tầng lại hoàn thiện không kịp dẫn đến số lượng tai nạn giao thông
đường bộ do XCG gây ra cũng tăng nhanh với mức độ thảm khốc hơn.
Sự phát triển nhanh chóng của phương tiện cơ giới một mặt đem lại cho con
người hình thức vận chuyển thuận tiện, kịp thời với chi phí rẻ, đặc biệt phù hợp với
nhu cầu của đại đa số dân cư Việt Nam. Nhưng chính do tính cơ động cao nên nguy
cơ gây ra rủi ro tai nạn giao thông ngày càng lớn và hậu quả ngày càng nghiêm trọng.
Hiện nay cả nước có khoảng hơn 1,85 triệu ô tô và 33,6 triệu xe máy lưu hành, đây là
con số này tương đối lớn.
Cùng với sự phát triển bất hợp lý, không đồng đều giữa số lượng phương tiện
XCG với sự phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông vận tải là sự gia tăng các vụ tai
nạn giao thông. Theo số liệu của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, tại Việt Nam,
trung bình hàng ngày có khoảng 30-35 người chết vì tai nạn giao thông, chủ yếu là tai
nạn giao thông đường bộ với trên 90%.
Năm 2007 xảy ra hơn 14.500 vụ tai nạn giao thông làm gần 13.000 người chết,
hơn 10.600 người bị thương. Năm 2008, số vụ tai nạn giảm còn gần 13.000 vụ, làm
gần 11.600 người chết, 8.000 người bị thương. Năm 2009, giảm được 390 vụ tai nạn và
hơn 200 người thương vong. Tuy nhiên, năm 2010, số tai nạn giao thông tăng gần
1.800 vụ và thêm hơn 2.500 người bị thương. Riêng 10 tháng đầu năm 2011, cả nước
xảy ra hơn 11.000 vụ tai nạn giao thông làm hơn 9.200 người chết, gần 8.400 người bị
thương. Theo số liệu thống kê, bình quân mỗi năm cả nước có gần 12.000 người chết
và 9.300 người bị thương do tai nạn giao thông.
Đây là những con số đáng báo động đối với tình hình tai nạn giao thông ở nước
ta vốn đã trở thành một vấn nạn xã hội nghiêm trọng.
Số vụ tai nạn giao thông do xe máy gây ra chiếm trên 75%, ôtô chiếm 17%, xe
đạp 4%, các tai nạn nghiêm trọng chiếm khoảng 70% số vụ tai nạn giao thông. Tỷ lệ
các vụ tai nạn nghiêm trọng đang có xu hướng gia tăng.
Điều đáng quan tâm là đa số những người bị tử vong do tai nạn giao thông

đường bộ nằm trong lứa tuổi 15 - 45, độ tuổi làm ra nhiều của cải nhất cho xã hội, là
trụ cột về kinh tế của các gia đình và trong số người bị chết có gần 2.000 là trẻ em.
Hệ lụy của tai nạn giao thông là một gánh nặng của xã hội. Phần lớn tổn thất về
người (tính mạng và sức khỏe) của loại tai nạn này nhằm vào những người có sức
khỏe, năng động và là lao động chính trong gia đình. Khi tai nạn giao thông xảy ra,
hậu quả để lại thường không chỉ có thiệt hại về tài sản mà còn thiệt hại về con người
dẫn đễn những thiệt hại về mặt tinh thần. Tuy nhiên trên thực tế nhiều chủ phương
tiện lại trốn tránh trách nhiệm, có khi gây tại nạn rồi bỏ trốn. Bởi thế việc giải quyết
bồi thường trở nên khó khăn, lợi ích của người bị nạn không được đảm bảo gây ảnh
hưởng tiêu cực trong dư luận xã hội. Làm thế nào để có sẵn nguồn tài chính cho việc
giải quyết bồi thường hậu quả các vụ tai nạn, bảo vệ quyền lợi của người bị hại? Đây
là mối quan tâm không chỉ của Nhà nước mà còn là của các chủ xe và bản thân người
bị thiệt hại. Nhiều giải pháp được áp dụng khi có tai nạn xảy ra như chủ phương tiện
lập quỹ dự phòng hay đi vay…nhưng các giải pháp này chỉ mang tính tạm thời, thụ
động. Do đó đòi hỏi các chủ phương tiện phải tìm kiếm biện pháp hiệu quả hơn trong
việc xử lý rủi ro khi tai tai nạn giao thông xảy ra. Chính vì vậy bảo hiểm xe cơ giới ra
đời là cần thiết và khách quan, đáp ứng nhu cầu khách quan của xã hội cũng là điều
mong muốn của người tham gia giao thông.
1.1.2. Vai trò của bảo hiểm xe cơ giới
Bảo hiểm xe cơ giới có vai trò hết sức quan trọng cả về mặt kinh tế và xã hội:
 Góp phần ổn định tài chính, ổn định hoạt động kinh doanh của chủ xe.
Tai nạn, rủi ro là điều không một cá nhân hay tổ chức nào mong muốn vì khi nó xảy ra
sẽ gây nên những hậu quả khôn lường: Thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến thu nhập,
đời sống, sản xuất kinh doanh của các nhân, của tổ chức, và còn có thể gây thiệt hại về
người. Tổn thất đó nếu thuộc phạm vi bảo hiểm thì công ty bảo hiểm có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cho người được bảo hiểm. Nhờ vậy, việc kinh doanh sẽ ít bị gián
đoạn, tài sản, hàng hóa cũng được bù đắp, phần nào hạn chế được tổn thất cho chủ xe,
giúp họ nhanh chóng khắc phục hậu quả, khó khăn về mặt tài chính, ổn định cuộc sống
và sản xuất.
 Tích cực ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông đường bộ.

Khi đã tham gia BH XCG người dân sẽ nâng cao ý thức chấp hành luật lệ giao thông
của mình hơn bởi vì cùng việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này các công ty bảo hiểm
còn thực hiện các công tác tuyên truyền, quảng cáo giúp người dân thấy được vai trò
của BH XCG và những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra đối với bản thân, từ đó nâng cao ý
thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông. Bên cạnh đó, việc triển khai BH XCG cũng
đi liền với việc giúp các cá nhân, tổ chức tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn
thất, giảm thiểu rủi ro xuống mức thấp nhất có thể. Các công ty bảo hiểm đóng góp
một phần tài chính của mình để xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng, xây dựng các biển báo,
tín hiệu…trên các tuyến đường hay xảy ra tai nạn nhằm góp phần giảm thiểu tai nạn
giao thông. Còn đối với các chủ xe, lái xe là người trực tiếp điều khiển các phương tiện
giao thông, việc tham gia BH XCG có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ
đối với người khác cũng như đối với bản thân mình, thúc đẩy họ thực hiện các biện
pháp an toàn khi tham gia giao thông.
 Góp phần xoa dịu bớt căng thẳng thường gặp giữa chủ xe, lái xe với nạn nhân
trong các vụ tai nạn, từ đó đảm bảo sự ổn định cho xã hội.
Khi tai nạn giao thông xảy ra không chỉ có người điều khiển phương tiện bị thiệt hại
mà còn gây thiệt hại cho bên thứ ba. Nhiều trường hợp người gây tai nạn không đủ khả
năng tài chính để bù đắp cho bên thứ ba cũng như những thiệt hại của chính mình.
Điều đó gây ra khó khăn với cả người gây tai nạn và người bị hại, có thể dẫn tới tranh
chấp, khiếu nại…Và khi tham gia BH XCG, DNBH sẽ đứng ra đóng vai trò là người
đại diện cho bên tham gia bảo hiểm để thu xếp tranh chấp, quyền lợi giữa chủ xe và
bạn nhân một cách khách quan, minh bạch và thỏa đáng, từ đó giảm bớt căng thẳng
giữa các bên.
 Góp phần tăng thu cho Ngân sách Nhà nước để từ đó Nhà nước có điều kiện đầu
tư trở lại để nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng giao thông, đảm bảo an
toàn cho nhân dân, từ đó có điều kiện phát triển kinh tế hơn.
Các DNBH trong quá trình kinh doanh có nghĩa vụ phải đóng góp vào Ngân sách
Nhà nước thông qua các loại thuế: Thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh
nghiệp…tức là tăng thu cho ngân sách.
Bên cạnh đó, nhờ có tham gia bảo hiểm mà Ngân sách Nhà nước không phải chi ra

để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro. Những thiệt hại thuộc
phạm vi bảo hiểm sẽ được DNBH chi trả, từ đó giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách
Nhà nước và giúp người tham gia nhanh chóng ổn định đời sống, ổn định hoạt động
sản xuất kinh doanh.
 BH XCG còn góp phần làm tăng doanh thu cho các công ty bảo hiểm, tạo thêm
công ăn việc làm cho người lao động.
Có thể nói BH XCG là loại hình bảo hiểm truyền thống của các DNBH ở Việt
Nam. Khi số lượng người tham gia bảo hiểm tăng làm doanh thu của DNBH tăng, kéo
theo lợi nhuận tăng, cuộc sống của cán bộ bảo hiểm được đảm bảo hơn. Và khi mở
rộng thị trường, nhu cầu tuyển dụng cũng tăng lên, từ đó tạo thêm công ăn việc làm
cho người lao động.
1.1.3. Nội dung cơ bản của bảo hiểm xe cơ giới
1.1.3.1. Đối tượng bảo hiểm
 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba:
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là loại hình
bảo hiểm trách nhiệm, vì vậy đối tượng bảo hiểm ở đây là phần trách nhiệm pháp lý
phát sinh phải bồi thường trách nhiệm dân sự do xe của chủ xe khi lưu hành gây thiệt
hại cho bên thứ ba và phải bồi thường theo luật định.
Trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là trách nhiệm hay nghĩa vụ
bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ ba khi lưu hành gây tai
nạn.
Đối tượng được bảo hiểm không được xác định trước. Chỉ khi nào việc lưu hành
xe gây ra tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba thì
đối tượng này mới được xác định cụ thể.
Trách nhiệm của chủ xe chỉ phát sinh khi có đủ 3 điều kiện:
 Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe của bên thứ ba
 Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay cố ý
mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các quy định
khác của Nhà nước…
 Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe (lái

xe) với những thiệt hại của người thứ ba.
Ngoài ra còn có thêm điều kiện thứ tư: Chủ xe (lái xe) phải có lỗi. Điều kiện này
có thể có hoặc không, vì nhiều khi tai nạn xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ mà
không hoàn toàn do lỗi của chủ xe (lái xe).
Ví dụ: Xe đang chạy bị nổ lốp, lái xe mất khả năng điều khiển nên đã gây tai nạn.
Trong trường hợp này trách nhiệm dân sự vẫn có thể phát sinh nếu có đủ ba điều kiện
đầu tiên.
Bên thứ ba trong BH TNDS của chủ xe cơ giới là những người trực tiếp bị thiệt
hại do hậu quả của vụ tai nạn, nhưng loại trừ:
+ Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe;
+ Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái…
+ Hành khách, những người có mặt trên xe;
+ Tài sản, tư trang, hành lý của những người nên trên.
 Bảo hiểm vật chất xe cơ giới:
Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe
còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia.
Xe cơ giới chỉ được coi là đối tượng bảo hiểm khi đáp ứng đầy đủ những điều
kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành như: Chủ xe phải được cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định về an
toàn kỹ thuật và môi trường…
Đối với xe mô tô, xe máy thường các chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất
thân xe.
Đối với xe ô tô, các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ xe hoặc cũng có thể
tham gia bảo hiểm từng tổng thành của xe. Xe ô tô được chia thành 7 tổng thành:
• Tổng thành thân vỏ
• Tổng thành động cơ
• Tổng thành hộp số
• Tổng thành cầu trước
• Tổng thành trục sau
• Tổng thành hệ thống lái

• Tổng thành săm lốp
Đây là loại hình bảo hiểm tài sản nên nó được thực hiện dưới hình thức tự
nguyện, tuy nhiên trong thực tế các công ty bảo hiểm thường triển khai kết hợp với BH
TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người
ngồi trên xe, BH TNDS của chủ xe đối với hàng hóa trên xe…
1.1.3.2. Phạm vi bảo hiểm
 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba:
Công ty bảo hiểm nhận đảm bảo cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được
gây ra tai nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Cụ thể, các thiệt hại
nằm trong phạm vi trách nhiệm của công ty bảo hiểm bao gồm:
- Thiệt hại về tính mạng và sức khỏe của bên thứ ba;
- Thiệt hại về tài sản, hàng hóa … của bên thứ ba;
- Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu nhập;
- Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hạn chế
thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả
biện pháp không mang lại hiệu quả);
- Những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của những người tham gia cứu chữa,
ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân.
Công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các vụ tai nạn
mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự trong các trường hợp sau:
- Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại;
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo
quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ;
- Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ
như:
o Xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ
thuật và môi trường.
o Lái xe không có bằng lái hoặc bằng bị tịch thu, bằng không hợp lệ.
o Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép.
o Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa

chữa.
o Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải.
o Xe không có hệ thống lái bên phải.
- Thiệt hại do chiến tranh, bạo động;
- Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất
kinh doanh;
- Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn;
- Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thỏa thuận khác.
Ngoài ra công ty bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt
như vàng, bạc, đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt.
 Bảo hiểm vật chất xe cơ giới:
Rủi ro, tai nạn gắn với sự lưu hành XCG rất đa dạng, chịu ảnh hưởng của nhiểu
yếu tố. Trong hợp đồng BH VCXCG, các rủi ro được bảo hiểm thông thường bao gồm:
• Rủi ro thông thường gắn liền với hoạt động của xe: Đâm va, lật đổ.
• Những rủi ro bất thường dễ phát sinh khác: Cháy nổ, hỏa hoạn,…
• Những rủi ro khách quan có nguồn gốc tự nhiên: Bão, lũ, lụt, sụt lở, sét
đánh, động đất, mưa đá…
• Rủi ro khách quan có nguồn gốc xã hội: Mất cắp, đập phá…
Ngoài việc bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm
trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho cho chủ xe
tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm:
• Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất xảy ra thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro
được bảo hiểm;
• Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất;
• Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
Các công ty bảo hiểm sẽ không chịu bồi thường những thiệt hại vật chất của xe
gây ra bởi:
 Hao mòn tự nhiên, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư
hỏng thêm do sửa chữa.
 Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc thiết bị, săm lốp bị hư hỏng mà

không do tai nạn gây ra.
 Mất cắp bộ phận xe.
Để tránh trục lợi bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, hay một số rủi ro
đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra trong những trường hợp sau cũng không
được bồi thường:
 Hành động cố ý của chủ xe, lái xe;
 Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy
định của Luật an toàn giao thông đường bộ;
 Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ
như:
o Xe không có giấy phép lưu hành
o Lái xe không có bằng lái, hoặc có nhưng không hợp lệ
o Lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia, ma túy hoặc các chất kích thích
tương tự khác trong khi điều khiển xe
o Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép
o Xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách quy định
o Xe đi vào đường cấm
o Xe đi đêm không đèn
o Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa
 Thiệt hại gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, đình trệ sản xuất kinh
doanh.
 Thiệt hại do chiến tranh.
Ngoài ra công ty bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi
thường trong các trường hợp chủ xe có những vi phạm sau:
Một là, cung cấp không đầy đủ, không trung thực các thông tin ban đầu về đối
tượng bảo hiểm trong giấy yêu cầu bảo hiểm.
Hai là, khi xảy ra rai nạn không thông báo ngay cho DNBH, không áp dụng các
biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất hoặc tự ý sửa chữa, tháo dỡ xe mà không
có sự đồng ý của DNBH.
Ba là, không làm thủ tục bảo lưu quyền đòi người thứ ba có lỗi trong việc gây ra

thiệt hại cho chiếc xe được bảo hiểm.
1.1.3.3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
1.1.3.3.1.Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.
Với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì
STBH là hạn mức trách nhiệm tối đa mà các DNBH phải trả cho những thiệt hại về
người và tài sản trong những vụ tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự.
Chẳng hạn, theo Quyết định của bộ tài chính thì hạn mức trách nhiệm đối với xe
mô tô là: 50 triệu đồng/người/vụ và 30 triệu đồng/tài sản/vụ. Với xe ô tô là 50 triệu
đồng/người/vụ và 50 triệu đồng/tài sản/vụ.
Ngoài ra chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với hạn mức trách nhiệm cao hơn tùy
thuộc vào sự lựa chọn của chủ xe.
Trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới, việc xác định đúng giá trị thực tế của chiếc
xe là công việc rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của các bên
trong hợp đồng bảo hiểm.
GTBH của XCG là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm tham gia
bảo hiểm. Xác định giá trị thực tế của xe thực chất là xác định giá bán của nó trên thị
trường vào thời điểm người tham gia mua bảo hiểm. Tuy nhiên, giá xe trên thị trường
luôn có những biến động và có thêm nhiều chủng loại xe tham gia giao thông nên đã
gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Vì vậy, để có thể đánh giá chính xác GTBH,
các DNBH phải kiểm tra xe trước khi nhận bảo hiểm sau đó sẽ đánh giá giá trị thực tế
của chiếc xe tham gia bảo hiểm. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường dựa vào
các nhân tố sau để xác định giá trị xe:
o Giấy tờ, hóa đơn mua bán xe giữa các bên;
o Hóa đơn thu thuế trước bạ;
o Giá mua xe lúc ban đầu;
o Giá mua bán trên thị trường của những chiếc xe cùng chủng loại, có chất lượng
tương đương;
o Hóa đơn sửa chữa, nâng cấp, đại tu xe lần gần nhất;
o Thời gian sử dụng để tính khấu hao.
Cách tính giá trị thực tế xe:

- Đối với xe mới chưa áp dụng khấu hao: Gía trị xe được tính trên cơ sở giá mua
chiếc xe đó.
- Đối với xe cũ/ xe được tái tục bảo hiểm: Để xác định giá trị thực tế của xe cũ
thường căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao sử dụng. Cụ thể:
Giá trị thực tế xe = Giá trị ban đầu - Khấu hao sử dụng
Trên thực tế, trong thời gian sử dụng xe có lần chủ xe đem xe đi sửa chữa lớn, đại
tu làm tăng giá trị của xe thì giá trị thực tế của xe được xác đinh theo công thức:
Giá trị thực tế xe = Giá trị ban đầu – Khấu hao sử dụng + Chi phí sửa chữa
Trên cơ sở GTBH, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với số tiền nhỏ hơn, hoặc
bằng, hoặc lớn hơn giá trị thực tế của chiếc xe. Việc quyết định tham gia bảo hiểm với
số tiền bao nhiêu sẽ là cơ sở để xác định số tiền bồi thường khi có tổn thất xảy ra.
 Nếu chủ xe tham gia bảo hiểm với STBH nhỏ hơn giá trị thực tế của xe thì
được gọi là bảo hiểm dưới giá trị.
 Nếu chủ xe tham gia bảo hiểm với STBH bằng giá trị thực tế của xe thì
được gọi là bảo hiểm ngang giá trị.
 Nếu chủ xe tham gia bảo hiểm với STBH lớn hơn giá trị thực tế của xe thì
được gọi là bảo hiểm trên giá trị.
Trên phương diện kỹ thuật, người ta chia XCG thành các tổng thành. Các chủ xe
có thể tham gia bảo hiểm một hoặc một số tổng thành cho chiếc xe của mình. Trong số
các tổng thành của xe thì thổng thành thân vỏ thường chiếm tỷ trọng lớn về mặt giá trị
và cũng chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi hậu quả của những vụ tai nạn, vì thế nếu chọn
một tổng thành để tham gia bảo hiểm thì các chủ xe thường lựa chọn tổng thành này.
Đối với trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm bộ phận, STBH được xác định căn cứ
vào tỷ lệ giữa giá trị của bộ phận được bảo hiểm và giá trị toàn bộ xe.
1.1.3.3.2.Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ xe tham gia bảo hiểm có trách nhiệm phải
thanh toán cho bên bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực khi người tham gia
bảo hiểm đóng phí hoặc chấp nhận đóng phí theo quy định.
Phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe được tính theo công thức:
P = f + d

Trong đó: P - Phí bảo hiểm
f - Phí thuần
d - Phụ phí
 Với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba:
Phí thuần được tính theo công thức:
f =
Trong đó:
Si – Số vụ tai nạn có phát sinh TNDS của chủ xe được bảo hiểm bồi thường trong
năm i.
Ti – Số tiền bồi thường bình quân 1 vụ tai nạn có phát sinh TNDS trong năm i
Ci – Số đầu phương tiện tham gia BH TNDS trong năm i.
n – Số năm thống kê, thường từ 3-5 năm, i= (1,n).
Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới một năm), thời gian tham gia
bảo hiểm được tính trong tháng và phí bảo hiểm được xác đinh như sau:
Phí
ngắn hạn
=
Hoặc: Phí
ngắn hạn
= Phí
năm
* Tỷ lệ phí ngắn hạn theo tháng
Trường hợp đã đóng phí cả năm, nhưng vào một thời điểm nào đó phương tiện
không hoạt động nữa hoặc chuyển sở hữu mà không chuyển quyền bảo hiểm thì chủ
phương tiện sẽ được hoàn phí bảo hiểm tương ứng với số thời gian còn lại của năm
(làm tròn tháng) nếu trước đó chủ phương tiện chưa có khiếu nại và được bảo hiểm bồi
thường.
Số phí hoàn lại được xác định như sau:
Phí
hoàn lại

=
Nộp phí bảo hiểm là trách nhiệm cảu chủ phương tiện. Tùy theo số lượng phương
tiện, công ty bảo hiểm sẽ quy định thời gian, số lần nộp và mức phí tương ứng có xét
giảm phí theo tỷ lệ tổn thất và giảm phí theo số lượng phương tiện tham gia bảo hiểm
(tối đa thường giảm 20%). Nếu không thực hiện đúng quy định sẽ bị phạt.
 Với bảo hiểm vật chất xe:
Mức phí của hợp đồng BH VCXCG được xác định bằng tỷ lệ phí bảo hiểm nhân
với số tiền bảo hiểm.
P = Sb * R
Trong đó: Sb – Số tiền bảo hiểm
R – Tỷ lệ phí bảo hiểm
Bảng 1.1: Biểu phí bảo hiểm vật chất xe
STT Loại xe và mục đích sử
dụng
Tỷ lệ phí bảo hiểm tối thiểu (%)
Bảo hiểm toàn bộ Bảo hiểm bộ phận
Trước
VAT
Sau VAT Trước
VAT
Sau VAT
1 Ô tô không kinh doanh 1.35 % 1.5% 2.3% 2.53%
2 Ô tô kinh doanh 1.5% 1.65% 2.5% 2.75%
(Nguồn: PVI Bắc Sông Hồng)
Phí thuần được xác định theo công thức:
f =
Trong đó:
Si – Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i
Ti – thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i
Ci – Số xe hoạt động thực tế trong năm thứ i

Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể, các công
ty bảo hiểm thường căn cứ vào các nhân tố sau:
 Loại xe
Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác
nhau nên phí bảo hiểm vật chất được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường các
công ty bảo hiểm đưa ra những biểu phí phù hợp cho hầu hết các xe thông dụng qua
việc phân loại xe thành các nhóm. Việc phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của
xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ
tùng. Đối với các xe hoạt động không thông dụng như xe kéo rơ moóc, xe trở hàng
nặng…do có mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ
nhất định dựa trên mức phí cơ bản.
 Khu vực giữ và để xe
Trong thực tế không phải công ty bảo hiểm nào cũng quan tâm đến nhân tố này.
Tuy nhiên cũng có một số công ty bảo hiểm tính phí bảo hiểm dựa theo khu vực giữ xe
và để xe rất chặt chẽ.
 Mục đích sử dụng xe
Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp công ty bảo
hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra như xe kinh doanh mức đô gặp rủi ro cao
hơn xe không không kinh doanh nên mức phí của xe kinh doanh cao hơn rất nhiều so
với xe không kinh doanh.
 Tuổi tác, kinh nghiệm của người yêu cầu bảo hiểm và những người thường
xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm
Số liệu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các
lái xe lớn tuổi. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm
cho các lái xe trên 50 hoặc 55 tuổi do kinh nghiệm cho tháy số người này ít gặp tai nạn
hơn so với các lái xe trẻ tuổi. Tuy nhiên, với những lái xe quá lớn tuổi (thường từ 65
tuổi trở lên) thường phải xuất trình giấy chứng nhận sức khỏe phù hợp để có thể lái xe
thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm.
Ngoài ra, để khuyến khích hạn chế tai nạn, các công ty thường yêu cầu người
được bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra với xe của mình (hay còn gọi là mức

miễn thường). Đối với những lái xe trẻ tuổi mức miễn thường này thường cao hơn với
những lái xe có tuổi lớn hơn.
 Giảm phí bảo hiểm
Để khuyến khích các chủ xe tham gia bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo
hiểm thường áp dụng mức giảm phí bảo hiểm theo một trong các phương thức sau khi
khách hàng tham gia các loai hình bảo hiểm tự nguyện và việc giảm phí được xác định
theo tỷ lệ giảm phí so với tổng số phí bảo hiểm phải nộp.
Phương thức 1: Giảm phí theo tỷ lệ tổn thất
Nếu chiếc xe đó không có bất cứ tổn thất nào trong thời gian tham gia bảo hiểm
thì công ty bảo hiểm có thể giảm phí với tỷ lệ giảm phí như sau:
Bảng 1.2: Bảng tỷ lệ giảm phí theo số năm không tổn thất
Thời hạn Tỷ lệ giảm phí tối đa (%)
01 năm liên tục 5
02 năm liên tục 10
03 năm liên tục 15
04 năm liên tục 20
05 năm lien tục 25
( Nguồn: PVI Bắc Sông Hồng)
Phương thức 2: Giảm phí theo số lượng xe tham gia bảo hiểm
Bảng 1.3: Tỷ lệ giảm phi theo số lượng xe tham gia bảo hiểm
Số lượng xe Tỷ lệ giảm phí tối đa (%)
Từ 05 đến 10 xe 5
Từ 11 đến 20 xe 10
Từ 21 đến 30 xe 15
Từ 31 đến 50 xe 20
(Nguồn: PVI Bắc Sông Hồng)
Phương thức 3: Giảm phí theo mức miễn bồi thường
Bảng 1.4: Tỷ lệ giảm phí theo mức miễn thường
Mức khấu trừ (VND) Tỷ lệ giảm phí (%)
Ô tô không kinh doanh Ô tô kinh doanh

500.000 05 -
1.000.000 08 05
2.000.000 11 08
3.000.000 14 11
4.000.000 17 14
5.000.000 20 17
(Nguồn: PVI Bắc Sông Hồng)
Với những xe hoạt động mang tính mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong
năm thì chỉ xe phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức:
Phí bảo hiểm =
 Tăng phí bảo hiểm
Với những xe có tỷ lệ bồi thường qua các năm lớn, công ty bảo hiểm thường tăng
phí bảo hiểm với một tỷ lệ nhất định.
Bảng 1.5: Tỷ lệ tăng phí theo tỷ lệ bồi thường
Tỷ lệ bồi thường (%) Tỷ lệ tăng phí tối thiểu (%)
Từ 50 đến dưới 60 10
Từ 60 đến dưới 70 20
Từ 70 trở lên 30
(Nguồn: PVI Bắc Sông Hồng)
 Hoàn phí bảo hiểm
Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng trong năm xe
không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó như ngừng hoạt động để tu sửa xe.
Trong trường hợp này, thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của
những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe.
Số phí hoàn lại được tính như sau:
Phí hoàn lại = Phí cả năm * * Tỷ lệ hoàn lại phí
Tùy theo công ty bảo hiểm khác nhau mà tỷ lệ hoàn phí khác nhau. Thông thường
tỷ lệ này là 80%.
Trong trường hợp chủ xe muốn hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết hạn bảo
hiểm thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí cho thời gian còn lại đó theo

công thức trên nhưng với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào được công ty bảo hiểm
chi trả bồi thường.
1.1.3.4. Giám định và bồi thường tổn thất
 Với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba:
Khi tai nạn xảy ra, chủ xe (lái xe) phải gửi hồ sơ khiếu nại bồi thường cho công ty
bảo hiểm, hồ sơ phải bao gồm các giấy tờ sau:
- Giấy chứng nhận bảo hiểm;
- Biên bản khám nghiệm hiện trường;
- Tờ khai tai nạn của nạn nhân;
- Bản kết luận điều tra tai nạn (nếu có);
- Biên bản hòa giải (nếu có trong trường hợp có hòa giải);
- Quyết định của tòa án nếu có;
- Các chứng từ liên quan đến thiệt hại của người thứ ba, các chứng từ phải
hợp lệ.
Sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại bồi thường, công ty bảo hiểm sẽ tiến hành
giám định để xác định thiệt hại thực tế của bên thứ ba và bồi thường tổn thất.
Thiệt hại của bên thứ ba bao gồm:
 Thiệt hại về tài sản gồm: Tài sản bị mất, bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại; thiệt hại
liên quan đến việc sử dụng tài sản và các chi phí hợp lý để ngăn ngừa, hạn chế
và khắc phục thiệt hại.
Thiệt hại về tài sản lưu động được xác định theo giá trị thực tế (giá thị trường) tại
thời điểm tổn thất, còn đối với tài sản cố định khi xác định thiệt hại phải tính đến khấu
hao. Cụ thể:
Giá trị thiệt hại = Giá trị mua mới (nguyên giá) – Mức khấu hao
 Thiệt hại về con người bao gồm thiệt hại về sức khỏe và thiệt hại về tính mạng
của bên thứ ba.
Thiệt hại về sức khỏe bao gồm:
o Các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và
chức năng bị mật hoặc giảm sút như: Chi phí cấp cứu, tiền hao phí vật chất
và các chi phí y tế khác (thuốc men, dịch truyền,…)

o Chi phí hợp lý và phần thu nhập bị mất của người chăm sóc bệnh nhân
(nếu có theo yêu cầu của bác sĩ trong trường hợp bệnh nhân nguy kịch) và
khoản tiền cấp dưỡng cho người mà bệnh nhân có nghĩa vụ nuôi dưỡng.
o Khoản thu nhập bị giảm sút của người đó.
o Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần.
Thiệt hại về tính mạng của người thứ ba bao gồm:
o Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc, cứu chữa người thứ ba trước khi chết.
o Chi phí hợp lý cho việc mai táng người thứ ba (những chi phí hủ tục sẽ
không được thanh toán).
o Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ ba phải nuôi dưỡng (vợ,
chồng, con cái… đặc biệt khi mà người thứ ba là lao động chính trong gia
đình). Khoản tiền trợ cấp này được xác định tùy theo quy định mỗi quốc
gia.
Như vậy, toàn bộ thiệt hại của bên thứ ba:
Thiệt hại thực tế của bên thứ ba = thiệt hại về tài sản + thiệt hại về người.
Việc xác định số tiền bồi thường dựa trên hai yếu tố là:
- Thiệt hại thực tế của bên thứ ba;
- Mức độ lỗi của chủ xe trong vụ tai nạn.

×