Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Các hệ điều hành của smartphone và việc vận dụng những kiến thức về phương pháp nghiên cứu khoa học trong quá trình phát triển smartphone

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.76 KB, 38 trang )

Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học
&
Tư Duy Sáng Tạo
Đề tài: Các hệ điều hành của smartphone và việc vận
dụng những kiến thức về phương pháp nghiên cứu
khoa học trong quá trình phát triển smartphone.
Giáo viên hướng dẫn: GS.TSKH. Hoàng Kiếm
Học Viên: Nguyễn Vĩnh Trường
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 1
Chương I: Những nguyên tắc sử dụng sáng tạo được sử dụng trong việc
cải tiến các hệ điều hành của các smartphone.
1. Nguyên tắc phân nhỏ:
a) Chia đối tượng thành các phần độc lập.
b) Làm đối tượng trở nên tháo lắp được.
c) Tăng mức độ phân nhỏ đối tượng.
2. Nguyên tắc “tách khỏi”:
a) Tách phần gây “phiền phức” (tính chất “phiền phức”) hay ngược lại tách phần
duy nhất “cần thiết” (tính chất “cần thiết”) ra khỏi đối tượng.
3. Nguyên tắc phẩm chất cục bộ:
a) Chuyển đối tượng (hay môi trường bên ngoài, tác động bên ngoài) có cấu trúc
đồng nhất thành không đồng nhất.
b) Các phần khác nhau của đối tượng phải có các chức năng khác nhau.
c) Mỗi phần của đối tượng phải ở trong những điều kiện thích hợp nhất đối với
công việc.
4. Nguyên tắc phản đối xứng:
Chuyển đối tượng có hình dạng đối xứng thành không đối xứng (nói chung giãm
bật đối xứng).
5. Nguyên tắc kết hợp:
a) Kết hợp các đối tượng đồng nhất hoặc các đối tượng dùng cho các hoạt động kế
cận.
b) Kết hợp về mặt thời gian các hoạt động đồng nhất hoặc kế cận.


6. Nguyên tắc vạn năng:
Đối tượng thực hiện một số chức năng khác nhau, do đó không cần sự tham gia
của các đối tượng khác.
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 2
7. Nguyên tắc “chứa trong”:
a) Một đối tượng được đặt bên trong đối tượng khác và bản thân nó lại chứa đối
tượng thứ ba
b) Một đối tượng chuyển động xuyên suốt bên trong đối tượng khác.
8. Nguyên tắc gây ứng suất sơ bộ:
Gây ứng suất trước với đối tượng để chống lại ứng suất không cho phép hoặc
không mong muốn khi đối tượng làm việc (hoặc gây ứng suất trước để khi làm
việc sẽ dùng ứng suất ngược lại ).
9. Nguyên tắc thực hiện sơ bộ:
a) Thực hiện trước sự thay đổi cần có, hoàn toàn hoặc từng phần, đối với đối
tượng.
b) Cần sắp xếp đối tượng trước, sao cho chúng có thể hoạt động từ vị trí thuận lợi
nhất, không mất thời gian dịch chuyển.
10.Nguyên tắc đảo ngược:
a) Thay vì hành động như yêu cầu bài toán, hành động ngược lại (ví dụ, không làm
nóng mà làm lạnh đối tượng)
b) Làm phần chuyển động của đối tượng (hay môi trường bên ngoài) thành đứng
yên và ngược lại, phần đứng yên thành chuyển động.
11.Nguyên tắc linh động:
a) Cần thay đổi các đặt trưng của đối tượng hay môi trường bên ngoài sao cho
chúng tối ưu trong từng giai đoạn làm việc.
b) Phân chia đối tượng thành từng phần, có khả năng dịch chuyển với nhau.
12.Nguyên tắc “vượt nhanh”:
a. Vượt qua các giai đoạn có hại hoặc nguy hiểm với vận tốc lớn.
b. Vượt nhanh để có được hiệu ứng cần thiết.
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 3

13.Nguyên tắc quan hệ phản hồi:
a. Thiết lập quan hệ phản hồi
b. Nếu đã có quan hệ phản hồi, hãy thay đổi nó.
14.Nguyên tắc sao chép (copy):
a. Thay vì sử dụng những cái không được phép, phức tạp, đắt tiền, không tiện lợi
hoặc dễ vỡ, sử dụng bản sao.
b. Thay thế đối tượng hoặc hệ các đối tượng bằng bản sao quang học (ảnh, hình
vẽ) với các tỷ lệ cần thiết.
c. Nếu không thể sử dụng bản sao quang học ở vùng biẻu kiến (vùng ánh sáng
nhìn thấy được bằng mắt thường), chuyển sang sử dụng các bản sao hồng ngoại
hoặc tử ngoại.
15.Nguyên tắc “rẻ” thay cho “đắt”:
Thay thế đối tượng đắt tiền bằng bộ các đối tượng rẻ có chất lượng kém hơn (thí
dụ như về tuổi thọ).
16.Nguyên tắc thay đổi màu sắc:
a. Thay đổi màu sắc của đối tượng hay môi trường bên ngoài
b. Thay đổi độ trong suốt của của đối tượng hay môi trường bên ngoài.
c. Để có thể quan sát được những đối tượng hoặc những quá trình, sử dụng các
chất phụ gia màu, hùynh quang.
d. Nếu các chất phụ gia đó đã được sử dụng, dùng các nguyên tử đánh dấu.
e. Sử dụng các hình vẽ, ký hiệu thích hợp.
17.Sử dụng các vật liệu hợp thành (composite):
Chuyển từ các vật liệu đồng nhất sang sử dụng những vật liệu hợp thành
(composite). Hay nói chung sử dụng các vật liệu mới.
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 4
Chương II: Những hệ điều hành và việc vận dụng các nguyên lý sáng
tạo:
1. Hệ điều hành Symbian:
Khởi nguồn của công ty Symbian và HĐH Symbian
Năm 1980, Psion được thành lập bởi David Potter, chủ yếu để viết các phần mềm và trò

chơi cho các thế hệ máy tính ZX đầu tiên. Mục tiêu phát triển các phần mềm trên hệ máy
nhỏ gọn.
Từ năm 1991 đến 1998, Psion xuất bản HĐH EPOC 16 đưa vào sử dụng trên các máy thế
hệ 3, Psion 3, một trong những PDA đầu tiên thay thế các loại sổ tay, lịch giấy lúc đó, và
thường được biết đến với tên gọi SIBO. Cũng trong thời điểm này, EPOC 32 OS (EPOC
Release 1-3) được đưa vào máy thế hệ 5.
Năm 1998, Symbian được thành lập bởi các tập đoàn Nokia, Motorola, Ericsson,
Matsushita, Psion nhằm tập trung phát triển các PDA và điện thoại di động thông minh.
Năm 1999, EPOC Release 5, được dùng trong các điện thoại Revo, Ericsson MC218,
Ericsson 380.
Năm 2000, phông Unicode được tích hợp vào Ericsson R380 trên nền EPOC R5. Ở thời
điểm này, EPOC vẫn chưa là một HĐH “thân thiện” bởi phần mềm vẫn không thể nào
thêm vào được. Sau đó, EPOC R6 được đổi tên thành Symbian v6.0, v6.1 và điện thoại
đầu tiên được cài vào đó một HĐH là Nokia 9210.
Năm 2003, Symbian giới thiệu phiên bản Symbian OS v7.0 và v7.0s.
Năm 2004, virus điện thoại xuất hiện đầu tiên tấn công HĐH Symbian với tên gọi Cabir
và cũng trong năm này Psion bán cổ phần của mình cho Nokia.
Tiếp đó, phiên bản Symbian ra đời với lợi thế được lựa chọn một trong 2 cấu trúc nhân
Kernels EKA1 và EKA2. Tuy vậy, cũng phải đến phiên bản Symbian 8.1b, EKA2 mới
được dùng. Người sử dụng khó thấy sự khác biệt, nhưng bên trong có rất nhiều thay đổi.
EKA1 được các nhà sản xuất chọn để đảm bảo khả năng tương thích với những driver
thiết bị cũ trong khi EKA2 lại chuyên về khả năng tương tác thời gian thực.
Phiên bản Symbian 9.0 cũng được ra đời trong năm 2004, nhưng chỉ dùng để thử nghiệm
nội bộ và dừng sản xuất cũng trong năm này.
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 5
Đầu năm 2005, Symbian OS phiên bản mới nhất 9.1 được công bố. Phiên bản này được
cải tiến nhiều về các ứng dụng và nội dung, cơ chế bảo vệ tốt hơn tất cả phiên bản các
phiên bản trước. Nokia N91 được đưa vào sử dụng phiên bản này đầu tiên, tiếp đó là đến
Sony Ericsson P990…
Symbian và các thiết kế đặc trưng

Số lượng điện thoại sử dụng Symbian đang chiếm thị phần lớn nhất, bao gồm
Smartphone Nokia Series 60, UIQ, Series80, Series 90, và các điện thoại của NTT
DoCoMo Foma.
Mục đích chính của Symbian OS khi được thiết kế là chuyên dùng cho các thiết bị cầm
tay với những nguồn tài nguyên (bộ nhớ, CPU…) bị giới hạn mà có thể chạy hàng tháng
hay hàng năm, tối ưu và giảm thiểu các rủi ro trong bộ nhớ… Chính vì vậy, cấu trúc hoạt
động của Symbian gây khá nhiều khó khăn cho các lập trình viên khi tìm hiểu về nó.
Việc lập trình cho Symbian OS được thiết kế theo hướng chuỗi “sự kiện” nên CPU phải
tắt và bật lại khi một ứng dụng không cùng làm việc được với một “sự kiện” mà nó cần.
Security trong Symbian
Symbian OS là miếng mồi hấp dẫn cho khá nhiều loại virus, nổi cộm trong số đó là Cabir
hay còn gọi là Caribe, virus này khi bị nhiễm vào điện thoại sẽ tự gửi chính nó từ điện
thoại này sang điện thoại khác qua Bluetooth. Tuy nhiên, mức độ nguy hiểm của các
dòng virus Symbian chưa cao vì theo kiến trúc của Symbian về mặt cài đặt, các ứng dụng
trước khi cài đặt phải có sự “điều khiển” đồng ý của chủ nhân, vì vậy các virus tuy nhiễm
vào điện thoại nhưng vẫn không thể tự nó phá hoại điện thoại được mà cần phải có sự
giúp sức “vô ý” của con người.
Đây cũng là một trong những điểm khá mạnh của Symbian. Cabir tự giả dạng như là một
công cụ của HĐH Symbian, tự gửi chính nó đi dưới dạng file .SIS của HĐH. Nếu người
sử dụng đồng ý nhận file này từ các điện thoại bị lây nhiễm khác thì điện thoại của họ sẽ
bị lây nhiễm và “Cabir” bắt đầu hoạt động. Khi bị nhiễm, ĐTDĐ sẽ hiện chữ Caribe mỗi
khi bật máy và lại tiếp tục gửi chính nó cho các điện thoại khác.
Sự lây lan của Caribe cần có sự “đồng ý/chấp nhận” của người sử dụng ĐTDĐ. Sự xuất
hiện và phát tán của Caribe còn cho thấy mức độ cảnh giác của người sử dụng ĐTDĐ đối
với virus còn khá thấp. Chỉ cần bạn từ chối nhận file từ những ĐTDĐ không rõ nguồn
gốc là Cabire không thể “kết duyên” cùng bạn được rồi.
Theo một số chuyên gia, người sử dụng ĐTDĐ có cổng Bluetooth nên tắt Bluetooth để
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 6
tiết kiệm pin, khi cần sử dụng tiện ích này với các thiết bị khác (như tai nghe ) thì bật
lên ở chế độ ẩn (hidden) để các ĐTDĐ khác không thấy được mà lây nhiễm. Chỉ khi có

chủ ý nhận data từ một nguồn xác định nào đó thì mới bật Bluetooth lên ở chế độ bình
thường.
Cách sử dụng này sẽ giúp tránh được các worm/virus “thông minh” hơn sau này có khả
năng tự lây nhiễm sang ĐTDĐ khác mà không cần sự chấp thuận của chủ nhân máy
nhận.
Tính mở của Symbian
Một câu hỏi đặt ra là khi nào Symbian OS sẽ “mở”? Symbian OS sẽ không “mở” như
trong trường hợp phần mềm “Open Source”, mã nguồn của Symbian sẽ không được mở
ra cho công chúng vì một số lý do tế nhị. Tuy nhiên gần đây, phần lớn các Source code
đều được cung cấp cho các nhà sản xuất điện thoại sử dụng Symbian OS và một số
Partner khác trong việc phát triển các ứng dụng trên Symbian. Các hàm APIs được công
bố rộng rãi để bất cứ ai cũng có thể phát triển phần mềm cho Symbian OS, điều này được
đặt ra để đẩy mạnh khả năng cạnh tranh của Symbian so với MobiLinux trong những
năm tới.
Các thiết bị đã dùng Symbian OS
Năm 2000, Ericsson R380 là một trong số những Smartphone đầu tiên sử dụng Symbian
OS; năm 2001, Nokia 9210 Communicator Smartphone (32-bit, 66MHz); năm 2002,
Sony Ericsson P800; năm 2003, P900; năm 2004, P910, 9300 và 9500 communicator.
Nokia Series 60, dòng điện thoại sử dụng Symbian nhiều nhất, khởi nguồn đầu tiên từ
năm 2002 với Nokia 7650, tiếp đó là Nokia 3650, 3620, 3660, 6600,… Và gần đây, các
thế hệ điện thoại Symbian OS 3G đầu tiên được tung ra thị trường là Nokia 6630, 6680,
N70,… Đây là một trong những bước đột phá mới của Nokia cũng như Symbian OS.
Phát triển ứng dụng trên Symbian OS
Việc phát triển các ứng dụng trên Symbian OS khởi đầu luôn gặp nhiều rắc rối, bởi mỗi
phiên bản Symbian đều có một bộ công cụ hỗ trợ phần mềm Software Development Kit
(SDK) hướng dẫn khác nhau như SDK cho UIQ (màn hình cảm ứng), Series 60…; mỗi
sản phẩm điện thoại của một hãng sản xuất lại cung cấp một SDK của riêng hãng đó…
Những SDK này đôi lúc làm cho các lập trình viên Symbian tìm “hoa cả mắt” mà vẫn
không thấy thông tin cần thiết.
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 7

Một ứng dụng khi phát triển phải tìm được con đường đi đến các điện thoại khách hàng.
Các ứng dụng này được đóng gói thành các file kiểu SIS và được Install (cài đặt) thông
qua WAP hoặc GPRS, hoặc từ PC qua kết nối bằng cáp, Bluetooth tới điện thoại. Từ bản
Symbian OS 9 trở lên, việc cài đặt chương trình sẽ khó khăn hơn vì phiên bản này được
tăng cường tính bảo mật nhằm chống việc phá hoại và các ứng dụng được cài đặt trên
phiên bản này phải đăng ký với tổ chức Symbian Signed để được cấp số đăng ký an toàn
nêu trên.
Tương lai Symbian
Mặc dù đang chiếm thị phần về OS cao nhất trong các Mobile OS (khoảng 60-70%),
nhưng nhiều chuyên gia về Mobile trên thế giới cho rằng thế mạnh nhất, thị phần
mạnh nhất của Mobile OS sẽ thuộc về MobiLinux trong những năm tới.
Hãng Symbian đã và đang đẩy mạnh những bước cải tiến nhằm tạo điều kiện thuận
lợi tối đa cho người dùng về mặt công nghệ, tích hợp hầu hết các chức năng cực mạnh
như truy cập Wi-Fi, Camera 3.0MP (Nokia N80…) cũng như tăng cường khả năng
phát triển ứng dụng, phần mềm bảo mật hệ thống cho các đối tác như Epocware,
Kaspersky,… với mục tiêu củng cố, giữ vững vị trí hàng đầu trên thị trường này.
Đối thủ cạnh tranh càng nhiều, người sử dụng càng được hưởng nhiều ưu đãi về chất
lượng, giá cả và chức năng tích hợp của thiết bị… Hy vọng trong những năm không
xa, việc mỗi người đều có một điện thoại sử dụng theo đúng ý thích riêng của mình
không còn là điều nằm quá xa tầm tay nữa
Trong quá trình phát triển của mình hệ điều hành Symbian đã sử dụng
các nguyên tắc:
- Nguyên tắc copy: Các hệ điều hành của Symbian đều giống nhau phần cốt lõi
và đều chạy trên nền các bộ xử lý trung ương (CPU) của Intel và tương hợp
Intel (như AMD, Intel XScale).
- Nguyên tắc kết hợp: từ bộ xử lý một nhân, symbian đã cải tiến lên bộ xử lý 2
nhân và cho phép xử lý cả 2 luồng dữ liệu này. Ngoài những chức năng cơ bản
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 8
là đàm thoại, các cải tiến đã tích hợp các chức năng như truyền hình kỹ thuật
số, đọc vân tay

- Nguyên tắc vạn năng: Hỗ trợ bàn phím Query và cảm ứng, ngoài ra Symbian
còn hỗ trợ người dùng nhiều chức năng như: chơi game,đọc chuyện,soạn thảo
văn bản,truy cập internet,xem phim,bản đồ,từ điển,và vô số các ứng dụng cho
việc liên lạc,nhắn tin
- Nguyên tắc rẻ thay cho đắt: việc sử dụng 2 CPU với 2 hệ điều hành nhỏ riêng
biệt để xử lý những thông tin về hệ điều hành và giao tiếp qua mạng độc lập
với nhau đã tạo ra sự độc lập trong việc xử lý thông tin. Điều này đã giúp cho
giá thành thiết bị đầu cuối và giá thành của điện thoại xuống nhiều lần.
- Nguyên tắc sử dụng các vật liệu hợp thành: từ việc sử CPU 8086 với 16 bit
điện toán, các dòng chip ARM7, ARM9, Strong ARM và Intel Xscale với 32
bit đã được sử dụng để tối ưu hóa các chức năng của hệ điều hành.
2. Hệ điều hành Blackberry:
Mặc dù ra đời 1999 sau Symbian OS, tuy nhiên Blackberry OS đã thu được
những thành tựu đáng kể. BlackBerry OS cung cấp khả năng đa nhiệm, và được
thiết kế cho các thiết bị sử dụng phương pháp nhập đặc biệt, thường là trackball
hoặc màn hình cảm ứng. Hệ điều hành được hỗ trợ MIDP 1.0 và WAP 1.2. Các
phiên bản trước đó cho phép đồng bộ hóa không dây thư điện tử và lịch
với Microsoft Exchange Server , và với cả Lotus Domino. Phiên bản OS 4 hiện tại
hỗ trợ MIDP 2.0, có khả năng kích hoạt không dây hoàn toàn và đồng bộ thư điện
tử, lịch, công việc, ghi chú và danh bạ với Exchange, và khả năng hỗ trợ Novell
GroupWise, Lotus Notes khi kết hợp với BlackBerry Enterprise Server.
Các bản cập nhật cho BlackBerry OS có thể có nếu nhà mạng cung cấp thông
qua dịch vụ BlackBerry OTASL.
Các bên thứ ba có thể phát triển ứng dụng dùng các API tư hữu của
BlackBerry, nhưng bất kỳ ứng dụng nào sử dụng các chức năng giới hạn đều cần
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 9
phải chứng thực trước khi cài đặt. Việc chứng thực này xác nhận tác giả của
chương trình, nhưng không bảo đảm tính an toàn và bảo mật của ứng dụng.
Sự phát triển của BlackBerry:
- BlackBerry OS 1.0 của Pager BlackBerry 580 BlackBerry đầu tiên này chỉ

dùng để nhận và gửi tin nhắn. Tin nhắn tối đa dài tới 16.000 từ
- BlackBerry OS 3.6 cho BlacBerry 5180 smartphone: chức năng thoại, tuy vẫn
phải dùng tai nghe và không có loa và micro trên máy - hỗ trợ mạng
GSM/GPRS. Cùng với tính năng email, web tuyệt vời. Kế đó 6710 hỗ trợ băng
tần 900/1900 MHz. Về phần cứng 6710 có bàn phím và màn hình với đèn ở
dưới, bộ nhớ gồm 1Mb SRAM và 8Mb Flash.
- BlackBerry OS 6.0 cho BlackBerry Torch 9800 được trang bị cả màn hình
cảm ứng điện dung kích thước 3,2 inch, độ phân giải 360x480 và một bàn
phím thực chuẩn qwerty. Máy có trọng lượng khoảng 161 gram, phím điều
hướng sử dụng bàn di quang học, bộ nhớ trong flash 4 GB, kèm theo thẻ nhớ
ngoài MicroSD 4 GB, camera 5 MP có đèn flash trợ sáng, có khả năng quay
video ở độ phân giải 640 x 480, khả năng kết nối wi-fi 802.11
BlackBerry OS 7 cho Blackberry Bold (9900/9930), Blackberry Torch (9810/9850/9860),
and the Blackberry Curve (9350/9360/9370/9380): Hệ điều hành BlackBerry 7 mới mang
đến cho bạn công nghệ Liquid Graphics™ được cải tiến, tốc độ truy cập web nhanh hơn
40% so với hệ điều hành BlackBerry 6, và những công nghệ đột phá như Thông tin
Không gian Thực (Augmented Reality) và Công nghệ Giao tiếp Tầm ngắn (Near Field
Communication). Hãy luôn cập nhật phần mềm của bạn để tận hưởng những tính năng
tiên tiến nhất.
Những nguyên tắc được áp dụng trong quá trình phát triển của Blackberry:
- Nguyên tắc phẩm chất cục bộ: ban đầu chỉ với chức năng nhắn tin, Blackberry đã tao
ra bước ngoặc lớn khi tích hợp chức năng thoại, đồng thời với quá trình hoàn thiện
hóa và phát triển các chức năng của duyệt mail va lướt web được ra đời và ngày càng
tối ưu. Mỗi một chức năng đều độc lập và phục vụ cho các mục đích khác nhau. Tất
cả chúng đều được tích hợp trong BlackBerry. Chính khả năng tích hợp này của điện
thoại cũng là biểu hiện của nguyên tắc vạn năng được sử dụng trong những cải tiến.
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 10
- Nguyên tắc linh động: thay vì sử dụng màn hình và bản phím theo kiểu thông thường,
việc sử dụng màn hình cảm ứng điện dung đã làm cho việc sử dụng bàn phím điện
thoại được thuận tiện hơn, nhanh hơn và màn hình điện thoại rộng hơn.

- Nguyên tắc chứa trong: Với việc tạo ra nhiều chức năng trong quá trình phát triển như
GSM/GPRS và các băng tầng 900/1900. Khả năng quay phim, chụp hình, lướt
web…. ngày càng được cải tiến.
- Nguyên tắc vượt nhanh: Tốc độ truy cập web nhanh hơn 40% của BlackBerry
OS 7 đã mang lại sự tiện lợi và nhanh chóng khi duyệt web. Những phiên bản
ban đầu OS chỉ sử dụng 1Mb SRAM và 8Mb Flash và dần dần nâng cấp lên bộ
nhớ trong flash 4 GB để tăng tốc độ truy nhập dữ liệu.
3. Hệ điều hành Android.
Android đã có những bước đi dài kể từ khi thiết bị đầu tiên dùng hệ điều hành này xuất
hiện, chiếcT-Mobile G1. Trong quãng thời gian ấy, chúng ta đã chứng kiến sự xuất hiện
của rất nhiều phiên bản Android, giúp nó dần biến đổi thành một nền tảng di động mạnh
mẽ như ngày hôm nay. Nhân dịp kỉ niệm 5 năm sinh nhật Android (24/9/2008 -
24/9/2013), mình muốn điểm qua lại những tính năng và đặc điểm nổi bật từ bản Android
sơ khai nhất đến hiện tại để xem Google đã tạo ra được những dấu ấn gì trên thị trường
smartphone toàn cầu.
Điểm khởi đầu của Android
Kỉ nguyên Android chính thức khởi động vào ngày 22/10/2008, khi mà chiếc điện thoại
T-Mobile G1 chính thức được bán ra ở Mỹ. Ở giai đoạn này, rất nhiều những tính năng
cơ bản cho một smartphone bị thiếu sót, chẳng hạn như bàn phím ảo, cảm ứng đa điểm
hay khả năng mua ứng dụng. Tuy nhiên, vai trò của phiên bản đầu tiên này vô cùng quan
trọng. Nó đã đặt nền móng cho các tính năng có thể xem là đặc điểm nhận dạng của
Android ngày nay.
• Thanh thông báo kéo từ trên xuống: Ngay từ ngày đầu tiên trình làng, Android
đã được tích hợp một hệ thống cảnh báo vô cùng hữu dụng so với những đối thủ
cạnh tranh thời bấy giờ mặc dù nó không được tốt như Notification Bar trên các thế
hệ Android mới. Người dùng có thể nhanh chóng xem những tin nhắn đến, xem ai
mới gọi nhỡ hoặc bất cứ thứ gì mà phần mềm trên đang máy muốn người dùng biết.
Tất cả thông báo đều tập hợp trong một danh sách duy nhất. Thanh trạng thái, bao
gồm đồng hồ, biểu tượng pin, biểu tượng cho các kết nối cũng được tích hợp vào nơi
đây, giúp tiết kiệm tối đa không gian màn hình nhưng vẫn phục vụ đầy đủ nhu cầu

Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 11
thông tin cho người sử dụng. Mãi cho đến ngày nay, Android 4.1 vẫn duy trì ý tưởng
tuyệt vời này.
• Màn hình chính và widget: Nếu bạn muốn so sánh Android, iOS và Windows
Phone, điểm khác biệt lớn nhất đó là một màn hình chính. Màn hình chính của
Android thật sự rất phong phú. Bạn có thể thay đổi hình nền (Windows Phone không
làm được điều này), đặt icon ra màn hình chính, sử dụng widget và hơn hết là thay
luôn cả cái màn hình chính nếu muốn. Độ tùy biến của màn hình chính trên Android
có thể xem là cao nhất trong các hệ điều hành di động hiện nay. Về phần widget, đây
cũng là một điểm hay của Android vì nó cho phép người dùng nhanh chóng truy cập
đến một số tính năng nào đó hoặc xem nhanh các thông tin cập nhật chi tiết một cách
nhanh nhất. Widget cũng đóng vai trò trang trí cho màn hình chính nữa. Symbian
cũng có widget nhưng chưa so được với Android về mức độ phong phú và chức
năng (tất nhiên là phải về sau này, còn lúc mới ra thì chưa có nhiều).
• Tích hợp chặt chẽ với Gmail: Lúc chiếc G1 ra mắt, Gmail đã hỗ trợ giao thức
POP và IMAP để dùng được với các trình gửi nhận email trên thiết bị di động,
nhưng vấn đề nằm ở chỗ không có giao thức nào được tận dụng tối đa để phục vụ
những tính năng độc đáo của Gmail (ví dụ như lưu trữ, đánh nhãn cho email).
Android 1.0 ra mắt đã khắc phục được vấn đề này và có thể nói chiếc G1 đã mang lại
trải nghiệm Gmail tốt nhất trên thị trường vào thời điểm đó.
• Về mặt giao diện, Google xây dựng giao diện của Android 1.0 với sự hợp tác của
một công ty thiết kế đến từ Thụy Điển với tên gọi The Astonishing Tribe (TAT). Từ
Android 1.0 đến 2.2, bạn có thể thấy sự xuất hiện của một widget đồng hồ quen
thuộc, tuy đơn giản nhưng khá đẹp mắt, đó chính là dấu ấn của TAT. Một thời gian
sau, TAT bị RIM mua lại để tập trung phát triển cho nền tảng BlackBerry OS cũng
như BBX. Mối quan hệ của TAT với Google Android cũng chấm dứt ở đây.

Android 1.1
Tháng 2/2009, bản nâng cấp đầu tiên của Android được trình làng, khoảng ba tháng sau
khi G1 được bán ra. Phiên bản 1.1 không phải là một cuộc cách mạng gì to lớn bởi tính

năng chính của nó là sửa một danh sách lỗi khá dài. Tuy nhiên, nó đã cho thấy khả năng
nâng cấp thiết bị di động qua phương pháp Over-The-Air (tức tải về và cài đặt bản cập
nhật ngay trên thiết bị, không cần kết nối với máy tính). Ở thời điểm đó, rất ít hệ điều
hành di động có thể làm được việc này, hầu hết đều phải nhờ đến một phần mềm chuyên
dùng nào đó trên PC. Trước đó, ở Mỹ có dòng máy Danger Hiptop (được biết nhiều hơn
với tên Sidekick) đã có cập nhật dạng gần giống over the air theo từng giai đoạn, và chính
Andy Rubin, người sáng lập công ty Android Inc. (sau đó Google mua lại) cũng chính là
nhà đồng sáng lập hãng Danger.
Android 1.5 Cupcake
Android 1.5 có lẽ có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình trưởng thành của Android
khi nó bổ sung cho hệ điều hành này những tính năng nổi bật giúp nó cạnh tranh với các
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 12
nền tảng đối thủ khác. Đây cũng là bản Android đầu tiên được Google gọi tên theo các
món đồ ăn với chữ cái bắt đầu được xếp theo thứ tự alphabet. Cupcake là một loại bánh
nhỏ, hơi giống bánh bông lan và có kem bên trên. Sau này ta có thêm Donut, Eclair (bánh
su kem nhưng dài, nhân chocolate), FroYo (ya-ua đá), Gingerbread (bánh
gừng), Honeycomb (một loại bánh có hình tổ ong), Ice Cream Sandwich (bánh sandwich
kem) và mới đây nhất là Jelly Bean (một loại kẹo dẻo viên nhỏ, hình hạt đậu).
Quay trở lại vấn đề chính nào các bạn. Về mặt giao diện, Android 1.5 không có nhiều
điểm thay đổi so với người tiền nhiệm của mình. Google chỉ điểm thêm vài điểm để làm
giao diện trông bóng bẩy, mượt mà hơn một tí, chẳng hạn như widget tìm kiếm có độ
trong suốt nhẹ, biểu tượng app drawer có một số hoa văn nhỏ mới, v.v. Nói chung, giao
diện không phải là một điểm nhấn của Android 1.5 mà người ta quan tâm nhiều hơn đến
các tính năng mới mà nó mang lại, chẳng hạn như:
• Bàn phím ảo: Nhiều bạn sẽ ngạc nhiên vì tại sao Google không cho những bản
Android đầu tiên bàn phím mềm? Đâu phải là họ không có khả năng làm đâu? Thực
chất, mục tiêu ban đầu của Android là cạnh tranh với BlackBerry. Vâng, thời đó
BlackBerry đang rất nổi và được nhiều người dùng quan tâm, nhất là ở Mỹ, bởi
chính bàn phím vật lí của nó. Bởi vậy mà G1 có một bàn phím QWERTY trượt
ngang. Mãi đến bản Cupcake này mới có một chiếc điện thoại Android thuần cảm

ứng là HTC Magic được giới thiệu (vào tháng 4/2009, xấp xỉ nửa năm sau khi G1
được công bố).
• Cùng với đó, Google tích hợp vào Cupcake những "cái móc", dân lập trình gọi
là hook, để họ có thể tự do viết phần mềm bàn phím của riêng mình cho Android.
Lại thêm một điểm nữa khiến cho Android trở nên khác biệt với các hệ điều hành đối
thủ khác. Lúc Cupcake xuất hiện, bàn phím ảo mặc định rất chậm và không chính
xác khi so sánh với iOS, chính vì thế mà những hãng sản xuất phần cứng như HTC
đã phát triển riêng một biện pháp khắc phục, cũng may là có hook do Google mở ra.
• Mở rộng khả năng cho widget: Android 1.0 và 1.1 có tích hợp widget, nhưng
tiềm năng của nó chưa được khai thác hết vì Google chưa đưa bộ phát triển phần
mềm cho lập trình viên. từ Android 1.5 trở đi thì chuyện đã thay đổi, và đến thời
điểm hiện tại, kho widget của Android đã rất phong phú, đó là chưa kể đến những
ứng dụng của bên thứ ba cũng mang sẵn trong mình widget nữa. Nhờ có khả năng
này mà việc tùy biến giao diện của Android càng được đẩy mạnh hơn nữa.
• Cải tiến clipboard: Thật ra Android đã hỗ trợ việc copy và paste ngay từ những
ngày đầu tiên rồi, nhưng nó bị giới hạn lại ở textbox (là những chỗ nào chúng ta có
thể gõ chữ được) và sao chép các đường link mà thôi. Ví dụ bạn đang đọc mail hay
đang duyệt web thì chịu, chúng ta không cách gì sao chép được. Với Cupcake thì
Google cho phép sao chép nội dung của web, một cải tiến được đánh giá là tốt. Còn
với Gmail thì phải đến vài bản nâng cấp sau mới có được tính năng này.
• Khả năng quay phim: Thật khó mà tưởng tượng được chiếc smartphone xịn lại
bán ra mà không hề có tính năng quay phim, nhưng đó là những gì mà chiếc T-
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 13
Mobile G1 phải "hứng chịu" (cũng hơi giống iPhone những đời đầu). Mãi đến
Android 1.5 thì Android mới quay phim được. Nhưng cũng giống với bàn phím,
trình camera mặc định của Android không tốt nên các hãng phần cứng phải nhanh
chóng thay nó với ứng dụng của riêng mình với các chế độ quay theo cảnh, chạm để
lấy nét, tùy chỉnh thông số video.
• Và còn nhiều thứ khác nữa chứ không chỉ là những điểm mà mình liệt kê ở trên,
bao gồm khả năng xóa hoặc di chuyển hàng loạt email trong Gmail, cho phép tải

ảnh, video lên YouTube, Picasa, truy cập danh bạ trong Google Talk từ nhiều ứng
dụng khác.
Android 1.6 Donut
Phiên bản bánh Donut này, mặc dù chỉ thêm có 0.1 vào mã số của Android 1.5 nhưng nó
cũng mang lại nhiều cải tiến đáng giá. Một vài điểm trong giao diện được cải thiện, vài
tính năng nhỏ được thêm vào, cuối cùng là hỗ trợ cho mạng CDMA. Động thái này cho
phép nhiều nhà mạng hơn có thể sử dụng với Android, giúp cho Android có thêm một số
lượng lớn người dùng ở Mỹ và ở cả Châu Á nữa. Nhưng có lẽ điểm thú vị nhất của Donut
đó là hỗ trợ các thành phần đồ họa độc lập với độ phân giải. Lần đầu tiên, Android có thể
chạy trên nhiều độ phân giải và tỉ lệ màn hình khá nhau, cho phép những thiết bị có nhiều
độ phân giải hơn là 320 x 480. Hiện nay, chúng ta có những chiếc smartphone Android
chạy ở độ phân giải QVGA, HVGA, WVGA, FWVGA, qHD, và 720p. Vài chiếc máy
tính bảng còn đạt mức 1920 x 1080 nữa.
Tính năng Quick Search Box, được biết nhiều hơn trong thế giới điện thoại với cái tên
Universal Search, cũng là một điểm mà Android nhận được nhiều lời khen. Bạn có thể
tìm kiếm danh bạ, ứng dụng, nhạc, tin nhắn,…, tất cả đều chỉ thao tác trong một hộp tìm
kiếm mà thôi. Trước Donut, khi nhấn nút Search trên máy Android thì bạn chỉ có thể tìm
kiếm thông qua google.com mà thôi. Google cũng cho phép những lập trình viên tích hợp
tính năng tìm kiếm mới này vào ứng dụng của mình để mở rộng thêm khả năng của
Quick Search Box.
Android 1.6 còn có gì mới? Đó là một Android Market với thiết kế mang tông màu xanh
trắng đặc trưng của Android, có thể hiển thị các ứng dụng free và trả phí hàng đầu.
Những ứng dụng bên thứ ba cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Giao diện camera mới,
tíhc hợp với trình xem ảnh tốt hơn, giảm thời gian chờ giữa hai lần chụp ảnh. Nhưng
cũng thường thì các nhà sản xuất cũng thay thế bằng ứng dụng của riêng mình.
Android 2.0 và Android 2.1 Eclair
Đầu tháng 9 năm 2009, một năm sau khi G1 chào đời, Android 2.0 đã được ra mắt. Thật
sự không ngoa khi mô tả Android 2.1 bằng một chữ "lớn". Một cơ hội lớn cho những nhà
phát triển, một tiềm năng lớn cho Android về sau, những chiếc điện thoại "lớn" được ra
mắt và phân phối bởi các nhà mạng lớn. Eclair, tên gọi của Android 2.0, lúc mới ra mắt

Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 14
chỉ được dùng độc nhất cho chiếc Motorola Droid của nhà mạng Verizon, một trong
những chiếc điện thoại đã kích hoạt cho một kỉ nguyên Android lớn mạnh như ngày hôm
nay. Motorola Droid còn được biết đến với tên gọi Motorola Milestone khi nó xuất hiện ở
Việt Nam. Đây là một sản phẩm rất thành công của Motorola và cả Google khi mang đến
cho người dùng những trải nghiệm cực kì tốt với Android.
Vậy những gì làm cho Eclair quan trọng? Nó là bản nâng cấp và làm mới lớn nhất mà
Android từng có kể từ khi hệ điều hành này được giới thiệu, cả về ngoại hình lẫn kiến
trúc bên trong. Vào thời điểm Motorola Milestone ra mắt, độ phân giải cao và lạ 854 x
480 cùng nhiều yếu tố phần cứng khác đã làm cho sản phẩm này đứng đầu thế giới
Android về cấu hình, nhưng quan trọng hơn là Android 2.0 có những tính năng khiến cho
nó dễ bán hơn, chẳng hạn như:
• Hỗ trợ nhiều tài khoản người dùng: lần đầu tiên, nhiều tài khoản Google có thể
được đăng nhập trên cùng một thiết bị chạy Android. Tài khoản Microsoft Exchange
cũng được hỗ trợ trong Eclair. Người dùng có thể duyệt qua danh bạ, email của từng
tài khoản. Google giờ đây cho phép những nhà phát triển bên thứ ba tích hợp dịch vụ
của họ vào trong mục Account này, đồng thời hỗ trợ tự động đồng bộ hóa.
• Quick Contact: khi chạm vào một số liên lạc nào đó, có một menu nhỏ sẽ xuất
hiện để bạn tương tác theo nhiều cách: gửi email, gọi điện, nhắn tin và hơn thế nữa.
Miễn là nơi nào có biểu tượng contact xuất hiện là nơi đó có thể dùng Quick
Contact. Sau này có thêm Twitter, Facebook và nhiều dịch vụ đồng bộ khác cũng
tích hợp tính năng riêng của mình vào Quick Contact.
• Cải tiến bàn phím ảo: Giống với chiếc G1, Droid/Milestone có một bàn phím
QWERTY đầy đủ dạng trượt ngang nhưng Google cho phép người dùng sử dụng
thêm bàn phím ảo mà hãng đã thiết kế lại. Mặc dù tính năng cảm ứng vẫn còn một
điều xa vời với Android vào lúc đó (trình duyệt, bản đồ và cả các phần mềm khác
không hề dùng được tính năng hai ngón tay để phóng to, thu nhỏ,…) nhưng Eclair
lại sử dụng dữ liệu multitouch từ bàn phím để xác định điểm chạm thứ hai trong lúc
người dùng gõ nhanh. Độ chính xác của bàn phím ảo trên Android 2.0 nhờ đó đã
được cải tiến đáng kể.

• Trình duyệt mới: Mặc dù chưa hỗ trợ cảm ứng đa điểm nhưng trình duyệt trên
Android 2.0 cũng có nhiều điểm nâng cấp đáng khen. Google đã hỗ trợ HTML5, bao
gồm luôn khả năng phát video ở chế độ toàn màn hình. Hộp địa chỉ kết hợp với
thanh tìm kiếm (giống với trình duyệt Chrome) cũng lần đầu xuất hiện trên Android.
Để bù lại cho tính năng cảm ứng đa điểm, trình duyệt mới hỗ trợ chạm hai lần để
phóng to nội dung trên màn hình, kèm theo đó là hai nút Zoom in, Zoom out.
• Giao diện mới: các biểu tượng giờ đây đã đẹp hơn, sang trọng hơn, gọn gàng hơn
nhiều so với trước. Widget cũng được thiết kế mới để tương thích với độ phân giải
cao trên Droid. Giao diện menu cũng đẹp hơn nữa.
Video chính thức quảng cáo cho Android 2.0
Về phần Android 2.1, mặc dù không "lớn" như Android 2.0 vì nó chủ yếu ra mắt để sửa
lỗi và thêm hàm API để lập trình viên can thiệp sâu hơn vào hệ thống nhưng nó đã hỗ trợ
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 15
thêm vài tính năng lý thú như Live Wallpaper, chuyển giọng nói thành văn bản và một
màn hình khóa mới.
Android 2.1 cũng có rất nhiều ý nghĩa về việc thay đổi chiến lược của Google. Nhận thấy
rằng các hãng phần cứng thường thay đổi giao diện gốc của Android theo ý họ, Google
đã chọn HTC để làm việc trực tiếp và tạo ra Nexus One, chiếc điện thoại đầu tiên của
hãng. Nexus One mang trong mình một bản Android 2.1 thuần khiết nhất và không hề bị
chỉnh sửa gì cả. Không chỉ nổi bật về mặt phần mềm, Nexus One còn có phần cứng mạnh
mẽ thời bấy giờ. Nó là một trong những smartphone đầu tiên chạy trên CPU Snapdragon
1GHZ của Qualcomm, đồng thời sở hữu màn hình AMOLED độ phân giải WVGA. Thực
ra, Google đã tiến hành việc này kể từ chiếc Droid với Android 2.0. Google và Motorola
đã làm việc chặt chẽ để cùng phát triển một mẫu điện thoại tốt, nhưng Eclair trong Droid
vẫn có vài sự tinh chỉnh. Và tất nhiên là Google chưa bao giờ trực tiếp bán Droid cả.
Android 2.2 Froyo
Android 2.2 được ra mắt trong năm 2010 và mục tiêu của chương trình Nexus đã xuất
hiện rõ hơn bao giờ hết: Nexus One là chiếc điện thoại đầu tiên được nâng cấp lên
Android 2.2, sớm hơn nhiều so với tất cả các hãng khác. Giao diện màn hình chính đã
được thay đổi, từ 3 màn hình chính tăng lên thành 5 màn hình. Dãy nút kích hoạt nhanh

chế độ gọi điện, web và App Drawer cũng đã xuất hiện. Những chấm nhỏ ở góc trái, phải
bên dưới của màn hình giúp người dùng biết mình đang xem đến màn hình nào. Google
đã có nhiều cố gắng để giao diện Android được vui và đẹp hơn, dễ dùng hơn, bắt kịp
phần nào với giao diện của bên thứ ba như HTC Sense chẳng hạn.
FroYo còn có một trình xem ảnh mới với khả năng hiển thị hình ảnh 3D: nghiêng máy thì
dãy ảnh sẽ nghiên theo, đồng thời nó mang trong mình nhiều hiệu ứng chuyển động đẹp
mắt khác. Đây cũng là dấu mốc về việc Google đã đi thuê ngoài nhằm phát triển Android
mà Gallery trên FroYo là một ví dụ. Tính năng trạm phát Wifi cũng xuất hiện, cách copy,
paste mới tốt hơn. Nhiều tính năng bảo mật mới cũng xuất hiện. Tuy nhiên, với người
dùng thông thường thì việc Android 2.2 FroYo có hỗ trợ duyệt web với Flash là điểm
đáng quan tâm nhất. Hầu như người ta muốn lên FroYo là để tận hưởng được cảm giác
duyệt web với Flash đầy đủ trên thiết bị di động. Android 2.2 bổ sung thêm tính năng di
chuyển một phần ứng dụng từ bộ nhớ máy sang thẻ nhớ, giúp tiết kiệm dung lượng cho
các điện thoại thời bấy giờ.
Android 2.3 Gingerbread
Khoảng nửa năm sau khi FroYo xuất hiện, Google đã trở lại với bản Android 2.3. Google
giới thiệu nó với nhiều tính năng mới, tập trung vào việc phát triển game, đa phương tiện
và phương thức truyền thông mới. Android 2.3 có tên mã là Gingerbread, hiện bộ SDK
Android 2.3 dành cho các nhà phát triển cũng đã được Google phát hành. Bên cạnh đó,
chiếc Nexus S do Samsung sản xuấtcũng xuất hiện với vai trò là người kế nhiệm cho
Nexus One. Nexus S có vài thay đổi nhỏ so với người anh em Galaxy S.
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 16
Android 2.3 thật ra không phải là một bản nâng cấp lớn nhưng những ảnh hướng mà nó
mang lại thì không nhỏ chút nào. Lần đầu tiên Android khoác lên mình một giao diện
đen, trông ngầu và chuyên nghiệp hơn. Các thành phần trên màn hình chính có thêm tông
màu xanh lá đậm. Bên cạnh đó, việc sử dụng màu đen còn là ý định của Google để giúp
các máy dùng màn hình AMOLED tiết kiệm pin hơn. Vài tính năng mới trên Android
2.3:
• Hai thanh chặn khi chọn văn bản: Hồi Android 2.2, việc chọn văn bản khi đang
soạn thảo hoặc khi đang duyệt web rất cực khổ. Nhờ có thanh chặn này mà người

dùng có thể chọn từng kí tự một, tiện lợi hơn rất nhiều.
• Bàn phím được cải tiến: Google một lần nữa đầu tư cho bàn phím ảo, lần này có
sự thay đổi lớn về tông màu của bàn phím. Nhìn các phím đẹp hơn, đen hơn và cả kí
tự cũng được thay đổi so với hồi Android Cupcake. Nhờ có khả năng nhận biết đa
điểm trên bàn phím mà việc việc soạn thảo đã dễ chịu hơn, cho phép người dùng
nhấn cùng lúc nhiều phím để chuyển sang bàn phím dạng kí tự.
• Công cụ quản lí pin và ứng dụng: vì Android cho phép các ứng dụng chạy nền
thực thụ chứ không bị ngắt lại, vấn đề pin bị người dùng phàn nàn rất nhiều (đúng là
được cái này mất cái kia, các bạn nhỉ?), đặc biệt là các phần mềm không được viết
để thoát khỏi bộ nhớ sau khi đã hoàn tất công việc của mình. Một công cụ mới đã ra
mắt với biểu đồ nhằm theo dõi mức độ tiêu thụ pin cùng việc quản lí ứng dụng đang
chạy sẽ giúp đỡ người dùng phần nào.
• Hỗ trợ máy ảnh trước: Lần đầu tiên một phiên bản của hệ điều hành Android hỗ
trợ việc sử dụng máy ảnh phụ phía trước của thiết bị. Trên chiếc Nexus S có một
máy ảnh trước, nhưng lúc thiết bị này mới ra mắt thì chúng ta không làm được gì
nhiều ngoài việc chụp ảnh "tự sướng".
Nhiều tính năng mới của Gingerbread chủ yếu nhắm đến lập trình viên hơn là người dùng
cuối, ví dụ như NFC chẳng hạn. Nhiều tháng trôi qua, NFC không có nhiều ứng dụng
thực tế ngoài việc đến một vài thành phố ở nước ngoài và dùng NFC để lấy thông tin về
địa điểm. Khi Nexus S dành cho nhà mạng Sprint, Mỹ, ra đời, Google giới thiệu Google
Wallet, dịch vụ thanh toán di động sử dụng NFC của mình. Đến bây giờ, nhiều thứ hơn
đã hỗ trợ NFC, NFC tag cũng xuất hiện ở nhiều nơi hơn. Thậm chí người ta còn dự đoán
rằng NFC sẽ thay thế được mã QR trong tương lai và Android 2.3 đã góp một phần quan
trọng nhằm thúc đẩy việc sử dụng phổ biến kết nối tầm ngắn này.
Với Gingerbread, Google muốn xâm nhập vào thị trường game di động vốn đang bị
chiếm lĩnh bởi iOS bằng việc cung cấp cho lập trình viên quyền truy cập cấp thấp nhất,
tức là gần sát nhất, đến các phần cứng về âm thanh, đồ họa, lưu trữ,… Nhờ đó, nhiều
game/ứng dụng native ra đời với tốc độ hoạt động n hanh hơn, hình ảnh, âm thanh phong
phú, chân thật và đẹp hơn nhiều.
Android 3.x Honeycomb

Honeycomb là phiên bản Android dành riêng cho máy tính bảng, và sản phẩm đầu tiên
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 17
dùng hệ điều hành này Motorola Xoom. Xoom mang trong mình một giao diện
thuần Android 3.0 và không bị chỉnh sửa gì. Mặc dù Android 3.0 không có nhiều dấu ấn
đặc biệt trên thị trường nhưng nó là nền tảng cho Android 4.0 sau này với các tính năng
như:
• Sử dụng tông màu đen và xanh dương làm tông màu chủ đạo, hệ thống icon và
biểu tượng mới.
• Homescreen và widget cũng được thiết kế lại. Việc đặt widget lên màn hình
cũng tiện dụng hơn nhờ có hình ảnh thu nhỏ của các homescreen trong mục widget
nên người dùng có thể chọn lựa theo ý muốn.
• Không còn nút nhấn vật lí: trên các máy tính bảng Android 3.x, người ta không
còn trang bị cho chúng ba phím Back, Home và Menu (và Search nữa) riêng biệt, cả
nút cứng lẫn nút cảm ứng, mà thay vào đó nó đã được bố trí ngay trên màn hình của
người dùng. Android 3.x có khả năng ẩn hoặc hiện các nút này một cách linh hoạt
tùy vào việc người dùng đang chạy ứng dụng gì.
• Cải thiện đa nhiệm: nút Recent Apps lần đầu tiên xuất hiện trên Android cho
phép người dùng duyệt qua các ứng dụng mà mình mới chạy trong thời gian gần đây,
nhờ đó việc chuyển đổi app dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn. Mỗi ứng dụng như
vậy cũng có một ảnh chụp màn hình thu nhỏ để tiện cho việc chọn lựa. Từ
Gingerbread trở về trước, việc chạy đa nhiệm phải nhờ đến việc nhấn giữ nút Home
để tiết lộ bảng các ứng dụng gần đây, bất tiện hơn nhiều.
• Thanh Action Bar: một thanh chức năng được đặt bên trên mỗi ứng dụng, ở đó
lập trình viên có thể đặt các nút nhấn để điều khiển ứng dụng lên. Ngoài ra,
Honeycomb còn hỗ trợ cho việc bố cục ứng dụng theo nhiều cột để hướng đến việc
hỗ trợ máy tính bảng tốt hơn.
Sau Android 3.0, Android 3.1 và 3.2 là hai bản nâng cấp nhỏ của Honeycomb và vẫn
dùng lại cái tên này. Mục đích chủ yếu của chúng là để sửa lỗi và thêm vài tính năng mới
như resize widget ngay trên homescreen, hỗ trợ thẻ SD,
Android 4.0 Ice Cream Sandwich

Cuối năm 2011, Google chính thức giới thiệu điện thoại Galaxy Nexus, thiết bị đầu tiên
trên thị trường sử dụng Android 4.0 Ice Cream Sandwich. Có thể nói Android 4.0 là sự
thay đổi lớn nhất trong lịch sử phát triển của Android tính đến ngày viết bài này. Android
4.0 hỗ trợ một bộ font mới tên là Roboto được cho là tối ưu hóa để dùng trên các màn
hình độ phân giải càng ngày càng cao hơn, đồng thời để hiển thị được nhiều thông tin
hơn trên màn hình. Hệ thống thông báo (Notification) già nua của Android đã được làm
mới hoàn toàn, đẹp hơn, tiện dụng hơn, nhất là tính năng trượt ngang để xóa từng thông
báo riêng lẻ. Tương tự như vậy cho tính năng Recent Apps và cả trình duyệt của máy.
Bàn phím cũng được làm mới với khả năng tự động sửa lỗi cao hơn, việc sao chép, cắt
dán chữ và nội dung cũng tốt hơn bao giờ hết.
Đây cũng là lần đầu tiên Google hợp nhất hệ điều hành dành cho smartphone và cho máy
tính bảng vào làm một. Đây là một động thái của hãng nhằm giảm thiểu sự phân mảnh
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 18
vốn đang ngày càng nghiêm trọng của Android. Khi chạy trên máy tính bảng, Android
4.0 sẽ có một giao diện khác tối ưu cho màn hình lớn, nhưng về cơ bản thì tính năng của
nó vẫn giống hệt như lúc chạy trên smartphone. Android 4.0 cũng nhắm đến việc duyệt
web nhanh hơn, tối ưu hóa hiệu suất hoạt động của thiết bị, kéo dài thời gian dùng pin
Android 4.1 Jelly Bean

Đây là phiên bản mới nhất tính đến thời điểm hiện tại. Android 4.1 được giới thiệu tại hội
nghị Google I/O với nhiều cải tiến đáng giá và rất được mong đợi. Đây cũng là lúc chiếc
Nexus 7 được chính thức ra mắt với sự hợp tác giữa Google với Asus. Về giao diện,
không có nhiều thay đổi so với Android 4.0, vẫn là màn hình chính với thanh dock bên
dưới quen thuộc. Giao diện kiểu này rất đơn giản nhưng lại đẹp và gọn gàng, giúp chúng
ta dễ dàng theo dõi những thông tin xuất hiện trên màn hình, đặc biệt là khi điều khiển
các ứng dụng. Ở màn hình Lockscreen, giờ đây vòng trượt mở khóa có đến ba biểu tượng
để kích hoạt ba tính năng khác nhau chứ không chỉ có hai như trên Android 4.0. Trượt
sang phải để mở khóa máy, sang trái để chạy ứng dụng camera, hai thứ này đã có từ
trước. Nhưng nếu bạn kéo vòng trượt lên bên trên thì sẽ thấy một chữ "Google". Đây
chính là cách thức để kích hoạt Google Now.

Sự xuất hiện của Google Now cho thấy rằng Google đã bắt đầu bước chân vào việc cạnh
tranh với Siri. Với việc nâng cao khả năng tìm kiếm, thay đổi giao diện, tự động theo dõi
thói quen sử dụng để đưa ra những thông tin chính xác và thích hợp với người dùng hơn.
Trên Android 4.1 bạn có thể tìm kiếm bằng giọng nói và các kết quả trả không chỉ đơn
giản là những dòng tìm kiếm nữa mà nó được thiết kế theo dạng thẻ đồ họa, thông minh
hơn, trực quan hơn. Không chỉ tìm kiếm theo yêu cầu, Google Now còn tự chủ động thu
thập thông tin liên tục dựa vào lịch sử tìm kiếm của bạn (thói quen người dùng), dựa vào
danh sách lịch hẹn để biết bạn sẽ đi đâu, cần thông tin gì.
Nhưng có lẽ quan trọng hơn hết của Jelly Bean không phải là về giao diện hay ứng dụng
mới mà về Project Butter giúp mang lại độ mượt chưa từng có cho Android. Theo như
giải thích của Google, độ mượt này có được là nhờ vào dự án Butter. Project Butter đã
được Google đề cập tới tại I/O 2012 với mục đích giải quyết tình trạng lag và độ phản
ứng không tốt của Android. Với Project Butter, các kỹ sư Android đã tăng framerate cho
phiên bản mới nhất này lên 60 khung hình/giây (trước đó trên Android 3.0 hay Android
4.0 framerate là 30 khung hình/giây) cũng như bổ sung VSync, tăng bộ đệm lên gấp ba
để nâng cao trải nghiệm người dùng. Project Butter sẽ có tác động trực tiếp tới toàn bộ hệ
thống của Jelly Bean nhằm mang tới trải nghiệm người dùng nhanh và mượt mà nhất có
thể. VSync sẽ cải thiện hiệu năng đồ hoạ tổng thể trong khi bộ nhớ đệm tăng gấp ba lần
sẽ cho phép GPU và CPU cũng như màn hình hoạt động song song với nhau. Hồi Google
I/O, Google đã mang một máy quay chậm có tốc độ lên tới 300 khung hình/giây để so
sánh độ mượt. Mời bạn xem video bên dưới để thấy được máy chạy nhanh như thế nào.
Android 4.2 Jelly Bean
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 19
Ngày 30/10/2012, Google chính thức tuyên bố cập nhật hệ điều hành Android của hãng
lên phiên bản 4.2 và vẫn giữ nguyên tên gọi "Jelly Bean" (có nghĩa là kẹo dẻo đậu). Được
hãng gọi là "một hương vị mới của Jelly Bean", Android 4.2 mang trong mình nhiều tính
năng mới như hỗ trợ Miracast, bàn phím có thể nhập liệu bằng cách vẽ các đường nét từ
kí tự này đến kí tự khác, chế độ chụp ảnh toàn cảnh Photo Sphere, ứng dụng Gmail mới
và còn rất nhiều thứ khác nữa.
Trong quá trình giới thiệu Android 4.2, Google rất tập trung nói về Miracast, một chuẩn

chia sẻ nội dung số thông qua kết nối Wi-Fi mà nhờ nó, những thiết bị mới có thể truyền
hình ảnh và âm thanh đến các TV có hỗ trợ chuẩn này. Google cũng đã áp dụng một số kĩ
thuật từ camera Street View của hãng cho tính năng chụp ảnh toàn cảnh mới có tên
Photo Sphere. Khi chạy app Camera và kích hoạt Photo Sphere, máy sẽ yêu cầu chúng ta
di chuyển và ngắm vào một số điểm trên màn hình, dần dần chụp qua hết tất cả các điểm
này sẽ cho ra kết quả là một bức ảnh lớn có hình mặt cầu (hơi giống PhotoSynths của
Microsoft).
Một cải tiến lớn và quan trọng của Android 4.2 đó là việc hỗ trợ nhiều tài khoản người
dùng trên máy tính bảng để có thể dễ dàng chia sẻ trong gia đình hoặc nơi làm việc. Mỗi
tài khoản sẽ có dữ liệu app của riêng họ. Ví dụ, người dùng A cài game Angry Birds,
người này chơi và đã ghi được một số điểm cũng như lên được màn cao hơn. Khi người
B sử dụng máy bằng tài khoản khác, game này vẫn hiện diện trên máy nhưng dưới dạng
một bản cài mới, không có sẵn data của người A.
Android 4.3 Jelly Bean
Lại thêm một thế hệ Jelly Bean nữa và lần này là Android 4.3. Ngày 24/7/2013, Google
đã chính thức ra mắt hệ điều hành này song song với chiếc Nexus 7 (2013). Đây là phiên
bản Android mới nhất đang có mặt trên thị trường và đi kèm những tính năng mới như hỗ
trợ kết nối Bluetooth Smart, bộ API OpenGL ES 3.0, bổ sung tính năng sử dụng Wi-Fi để
định vị ngay cả khi người dùng tắt kết nối này đi cùng nhiều thay đổi lớn nhỏ khác.
Bên cạnh tính năng Multi User của Android 4.2 như đã nói ở trên, Google bổ sung thêm
một tính năng mới cho Android 4.3 đó là Restricted Profile. Mỗi thành viên sẽ có một
"hồ sơ" riêng của mình và chỉ có thể làm được những gì được chỉ định trong "hồ sơ". Ví
dụ, cha mẹ có thể khóa tính năng in-app purchase của một ứng dụng nào đó để ngăn con
trẻ vô tình mua hàng trăm USD. Ngoài ra, khi áp dụng vào môi trường doanh nghiệp thì
nó sẽ cho phép người quản trị phân quyền cho nhân viên dễ dàng hơn.
Chưa hết, Google còn làm mới trình gọi điện thoại mặc định để hỗ trợ việc tìm kiếm
trong danh bạ khi người dùng bấm số, giống như kiểu bàn phím T9 trước đây. Google
cũng có thêm vào Notification Access để cho phép các ứng dụng bên thứ ba truy cập và
tương tác với những thông báo nằm trong notification hệ thống ngay khi chúng vừa xuất
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 20

hiện.
Android 4.4 KitKat
Thế hệ kế tiếp của Android là Android 4.4 và không còn mang tên Jelly Bean nữa mà gọi
là KitKat.Nếu như bạn chưa biết thì KitKat là một loại bánh xốp bọc chocolate của hãng
Nestle. Cách đặt tên này cũng hoàn toàn khớp với trình tự chữ cái mà các phiên bản
Android sử dụng làm tên mã*. Google tiết lộ thêm rằng "mục tiêu của chúng tôi
với Android KitKat đó là mang trải nghiệm Android đáng kinh ngạc đến cho mọi người".
Google chia sẻ thêm rằng hãng đã từng chọn tên Key Lime Pie cho hệ điều hành Android
thế hệ kế tiếp, tuy nhiên mới chỉ xài trong nội bộ công ty. Sau đó công ty chọn KitKat vì
nhiều người biết đến mùi vị của loại bánh này hơn.
.Những nguyên tắc được sử dụng trong quá trình phát triển của Android:
- Nguyên tắc thực hiện sơ bộ: Android được phát triển dựa trên nền tảng của linux,
với tính năng mở đã tạo ra sự hấp dẫn đối với các nhà sản xuất điện thoại khi tạo
ra lõi mà mà công ty phần cứng, phần mềm và viễn thông có thể xây dựng các
ứng dụng di động sáng tạo.
- Nguyên tắc tách khỏi: Tất cả các ứng dụng của Android OS được lưu trữ trên
Android Market. Người dùng cần ứng dụng nào có thể lên market lấy về và cài
đặt lên điện thoại. Tải video lên Youtube hoặc Picassa để có thể truy xuất video từ
mọi nơi.
- Nguyên tắc chia nhỏ: Chức năng quay phim, chụp hình, lưu trữ hình ảnh và xem
dược dạng slide, thư viện hình ảnh, chuyển đổi chế độ quay phim và chụp hình.
Đây là những chức năng hỗ trợ cho việc lưu lại hình ảnh và đã được chia nhỏ một
cách độc lập và tối ưu hóa.
- Nguyên tắc đảo ngược: Tính năng tạo điểm phát sóng Wi-fil di động (Hotspot)
cho phép tạo ra một khu vực cung cấp dịch vụ truy cập Internet không dâyvới
nhiều máy cùng truy cập một lúc. Hotspot ngược lại với chức năng thông thường
là là truy xuất internet bằng wi-fi. Chức năng đàm thoại internet thay vì sử dụng
CS (Circuit switching) call thi đàm thoại internet đã sử dụng chức năng PS
(Packet switching) call để thực hiện viêc chuyển các gói thoại qua internet.
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 21

- Nguyên tắc vượt nhanh: với tính năng rút ngắn thời gian mở trình Camera, chụp
ảnh nhanh hơn, tinh chỉnh giao diện người dùng đơn giản và truy cập nhanh hơn,
bàn phím mới hỗ trợ nhập dữ liệu nhanh hơn, chọn từ và hỗ trợ copy/paste thuận
tiện… nguyên tắc vượt nhanh đã được ứng dụng để tạo ra những cải tiến này.
4. Hệ điều hành IOS (iPhone OS)
iOS hay OS X?
Trong suốt buổi giới thiệu về hệ điều hành cho di động mới của họ, Apple luôn nhấn
mạnh rằngiPhone OS chia sẻ những nhân Unix cơ bản với hệ điều hành Mac OS X dùng
cho máy tính. Tuy nhiên, iPhone OS đã được tinh chỉnh và tối giản hóa khá nhiều, đủ để
tạo sự khác biệt với Mac OS X lúc đó. Cái tên iPhone OS đã được Apple sử dụng trong 4
năm liên tiếp trước khi chuyển thành iOS cùng với sự ra mắt của iPhone 4 tháng 6/2010.
iOS 1: sự ra đời của iPhone
Dù bạn tin hay không, khi mới ra mắt thì hệ điều hành iOS thật thảm hại so với các nền
tảng khác nếu so sánh trực diện các tính năng, nhất là khi Apple đã quá giới hạn nó. Vào
năm 2007, hầu hết các nền tảng khác như Windows Mobile, Palm OS, Symbian hay
Blackberry OS đều đang ở đỉnh cao của chúng so với một iOS non nớt. Để rõ hơn, vào
thời điểm đó iOS không hỗ trợ 3G, không hỗ trợ đa nhiệm, không cho cài thêm phần
mềm từ bên thứ 3, không cho cắt/dán văn bản, không hỗ trợ đính kèm file trong email, tin
nhắn MMS, tài khoản Mail for Exchange, màn hình chủ không tùy biến, không hỗ trợ
tethering, giấu file thư mục khỏi người dùng, không cho phép chỉnh sửa văn bản, gọi điện
bằng giọng nói
Thay vì cạnh tranh về cấu hình thì Apple lại tập trung vào trải nghiệm gốc của người
dùng, về tốc độ, sự ổn định của các ứng dụng và chỉ đưa ra 1 vài tính năng thôi nhưng tất
cả những tính năng đó đều cực kỳ tốt so với những gì đang có trên thị trường vào năm
2007. Có rất nhiều sáng tạo, đột phá trong bản iOS 1 nhưng 3 điểm này đã làm thay đổi
hoàn toàn ngành công nghiệp điện thoại:
Giao diện người dùng: Trước khi iOS ra mắt thì điện thoại thông minh thường không sử
dụng màn hình cảm ứng hoặc nếu có thì là loại dùng bút stylus cùng cảm ứng điện trở.
iPhone đã hoàn toàn thay đổi điều đó với màn hình cảm ứng điện dung giúp chúng ta
tương tác dễ dàng hơn. Nhưng quan trọng hơn là việc Apple đã kết hợp được phần cứng

xuất sắc đó và phần mềm đơn giản, mạnh mẽ hơn hẳn tất cả các hệ thống khác. Bằng
cách loại bỏ tất cả các phím cứng, iPhone đã trở thành thiết kế tối ưa hóa hoàn toàn cho
cảm ứng. Các tính năng như zoom đa điểm hay các cử chỉ trượt inertial scrolling làm cho
ứng dụng hoạt động mượt mà, tự nhiên hơn rất nhiều. Ngoài ra, tốc độ, thời gian phản hồi
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 22
và cách tương tác của iOS 1.0 vẫn thật tuyệt vời sau 5 năm.
Trình duyệt web Mobile Safari: Dù cho chúng ta có “chửi” Steve Jobs vì đã khoác lác về
việc trình duyệt Mobile Safari đi xa hơn các đối thủ hàng năm trời, về việc nó không bao
giờ hỗ trợ Flash nhưng đây là trình duyệt di động đầu tiên cho người dùng cảm giác sử
dụng tuyệt vời và mạnh mẽ như khi đọc web trên máy vi tính. Trong khi tất cả các trình
duyệt ở hệ điều hành khác cố gắng format lại trang web, di chuyển các cột chữ, hình ảnh
một cách thảm hại, phá vỡ cấu trúc của trang web thì Mobile Safari lại hiển thị rất xuất
sắc, hỗ trợ các cử chỉ zoom, trượt mà không trình duyệt nào có thể làm được vào thời
điểm đó.
Một chiếc iPod màn hình lớn: Apple đã sử dụng hệ sinh thái iPod và iTunes đầy mạnh
mẽ để tạo ra một điểm tựa cực kỳ vững chắc cho iOS ngay từ những ngày đầu tiên. Sau
đó, họ lại tiếp tục tạo ra 1 hệ sinh thái lớn và vững chắc hơn với nhạc, phim, TV, sách và
ứng dụng. Ở thời điểm hiện tại, có thể bạn không còn nghe nhạc nhiều trên iPhone nhưng
5 năm trước thì tính năng nghe nhạc thật sự là điểm tựa lớn cho iOS cất cánh.
iOS 1.0 cũng giới thiệu rất nhiều tính năng mới rất quan trọng và đi trước thời đại:
Google Maps xuất sắc hơn rất nhiều trên iPhone so với bất cứ nền tảng nào khác. Apple
đã tùy biến chương trình dẫn đường này cho nó nhanh chóng, mượt mà hơn với tính năng
pinch to zoom. Đặc biệt hơn nữa là Google Maps iOS thậm chí còn dễ dùng, đơn giản và
thuận tiện hơn cả bản cho máy tính.
Hộp thư thoại Visual voicemail (VN không có xài cái này nhiều) là một bước tiến mới
của Apple, nó thể hiện sức mạnh của hãng trong việc thương thuyết với các nhà mạng.
Thay vì phải trải qua hàng loạt các menu khác nhau, nghe toàn bộ voicemail trước khi
đến cái mình cần thì người dùng iPhone chỉ đơn giản bấm 1 nút là nghe được voicemail
mà họ muốn nghe. Visual Voicemail thể hiện rõ ràng Apple chứ không phải nhà mạng
mới chính là công ty mang lại trải nghiệm cuối cho người dùng.

iTunes Sync cũng là một tính năng không thể thiếu. Bất cứ ai sử dụng HotSync của Palm
hay ActiveSync của Microsoft cũng biết sự quan trọng của việc đồng bộ hóa là như thế
nào. Đây là 1 ví dụ điển hình cho khả năng đơn giản hóa các tính năng, thao tác phức tạp
của Apple.
Bàn phím: Bàn phím trên iOS 1 có lẽ là bàn phím ảo đầu tiên cho phép chúng ta thao tác
thoải mái với ngón tay của mình. Bàn phím của iOS chỉ hiện lên khi nào người dùng cần
nó và tự động ẩn đi để tăng diện tích màn hình, rất tốt.
Khi nó ra mắt thì rất nhiều người dùng vẫn không hề coi iOS 1.0 là một hệ điều hành cho
điện thoại thông minh đúng nghĩa khi mà Apple không cho phép chạy các chương trình
từ bên thứ 3. Họ cố gắng lấp đầy khoảng trống đó bằng ứng dụng nền web nhưng HTML
của năm 2007 thật sự không đủ sức mạnh để đáp ứng nhu cầu người dùng. iOS 1.0 cũng
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 23
chỉ hỗ trợ duy nhất 1 thao tác đa nhiệm: nghe nhạc iPod. Dù rằng đa nhiệm ở các nền
tảng khác cũng chẳng xuất sắc gì cho cam nhưng ít ra thì nó cũng có còn iOS thì không.
iOS 1.0 cũng giới thiệu một khái niệm mới làm thay đổi toàn bộ thói quen sử dụng điện
thoại thông minh của chúng ta: ẩn hệ thống file khỏi người dùng. Hiện thực này sẽ làm
cho thiết bị đơn giản và dễ sử dụng hơn nhưng nó cũng đồng thời gây khó khăn mỗi khi
thực hiện các thao tác nâng cao, chẳng hạn như gửi đính kèm trong 1 email reply, điều
mà mãi đến giờ iOS vẫn chưa làm được. Một vài giới hạn khác có thể kể đến là việc thay
đổi nhạc chuông, quá phức tạp so với chỉ 1 vài thao tác trên những điện thoại không
thông minh!
Cuối cùng, cái chúng ta cần đề cập đến là màn hình Springboard. Đây là màn hình chủ
của các thiết bị iOS. Màn hình này sẽ xuất hiện mỗi khi chúng ta nhấn nút Home mà
không cần biết đang ở trong ứng dụng nào. Tuy đơn giản và tiện dụng nhưng cho đến bây
giờ thì iOS cũng vẫn chưa có nhiều widget hay các thông tin để tùy biến trên màn hình
chủ, những tính năng mà Windows Mobile và Symbian từng tự hào.
Các bản cập nhật iOS 1
3 tháng sau khi ra mắt iPhone, Apple đưa ra bản cập nhật đầu tiên iOS 1.1.1. Bản cập
nhật này gây nhiều chú ý vì nó tạo ra 1 “thói quen” mới: Apple sẽ cố gắng cập nhật hệ
điều hành cho thiết bị chừng nào họ còn có thể. Ngoài ra, 1.1.1 còn đánh dấu sự ra đời

của 1 thiết bị mới là iPod touch.
Tính năng đáng chú ý nhất của bạn 1.1.1 này là kho nhạc Music Store trên iTunes cho
phép người dùng mua ngay trên điện thoại. Ngoài ra, iPhone cũng hỗ trợ TV out và 1
shortcut khi nhấn kép nút home, một tính năng mà Apple liên tục thay đổi qua các phiên
bản. iOS 1.1.3 sau đó bổ sung thêm khả năng sắp xếp các biểu tượng ở màn hình chủ
cũng như shortcut của các trang mà Apple gọi là Web Clips.
iOS 2: ứng dụng:
Khoảnh khắc nổi bật tiếp theo của iOS đến vào tháng 7/2008, khi Apple giới thiệu iOS 2
với kho ứng dụng App Store. Các ứng dụng trên App Store có thể được mua trực tiếp trên
thiết bị hoặc qua iTunes trên máy tính, những cách thức tương tác rất khác lạ so với các
phân phối phần mềm di động truyền thống.
App Store: Apple App Store là một kênh phân phối ứng dụng hoàn toàn khác biệt, nó
không chỉ giúp người dùng cài đặt ứng dụng trên máy tính mà còn trên chính bản thân
thiết bị. Trước khi App Store ra mắt, người ta chỉ có thể mua ứng dụng từ các trang web
hay các kho ứng dụng bên thứ 3 vốn tích hợp khá lỏng lẻo vào hệ điều hành. Đặc biệt
hơn, App Store sử dụng chung một tài khoản với kho nhạc iTunes vốn đã quá phổ biến
trước đó nên người dùng không cần phải đăng ký mới, nhập lại thông tin thẻ tín dụng hay
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 24
các thao tác phức tạp khác.
Bộ công cụ phát triển phần mềm iOS SDK: Bộ công cụ phát triển phần mềm thể hiện sự
mạnh mẽ của iOS so với các nền tảng khác, nó hỗ trợ tối đa không gian cho lập trình viên
sáng tạo. Hệ quả là các ứng dụng iOS trở nên đẹp hơn, chất lượng cao hơn bất cứ một
nền tảng nào trước đó.
Dù vậy, App Store không phải là không có điểm yếu. Đầu tiên, chính là việc Apple ngăn
cấm người dùng cài đặt thêm phần mềm từ các kho ứng dụng khác. Việc này có thể
không quá tệ nếu như chính sách kiểm duyệt phần mềm của hãng khá hơn, họ có thể dễ
dàng loại bỏ những ứng dụng không thích trong khi phần mềm đó vẫn hiện diện trên các
kho ứng dụng đối thủ.
Một ưu điểm khác của App Store là nó đã hạ giá phần mềm di động xuống rất nhanh.
Nếu như trước đây, các ứng dụng cao cấp nhất có thể lên tới 40$ thì trên App Store hầu

hết chúng đều giao động từ 0,99-5$. Với việc giảm giá này thì người dùng App Store và
cả các lập trình viên đều được lợi so với cách phân phối truyền thống trước kia. Dù vậy,
chúng ta cũng có một giới hạn ở đây: chỉ những ứng dụng đứng trong top 40 mới bán
được nhiều còn các ứng dụng ở dưới rất khó mà vươn lên được. Dù Apple đã cố gắng
khắc phục bằng cách đưa ra các mục khác nhau nhưng tình trạng này khó mà xử lý trong
một sáng một chiều được.
Hỗ trợ Microsoft Exchange: iOS 2 cho thấy Apple đã bắt đầu bổ sung thêm các tính năng
vốn còn thiếu hụt trước kia. Quan trọng nhất trong đợt nâng cấp lần này chính là hỗ trợ
giao thức Microsoft Exchange để push mail, lịch và danh bạ. Ngoài ra, hãng cũng cho
phép người dùng iPhone tìm kiếm danh bạ thay vì phải cuộn lên cuộn xuống như trước
kia. Bên cạnh đó, iOS cũng hỗ trợ chọn nhiều email để xóa, di chuyển thay vì chọn
từng cái một.
MobileMe: Apple cũng sớm giới thiệu dịch vụ đám mây của họ là MobileMe để thay thế
cho .Mac trước kia. MobileMe cho phép đồng bộ email, lịch trên toàn bộ các thiết bị sử
dụng chung tài khoản. Tuy nhiên, dịch vụ này của Apple chưa bao giờ phổ biến vì nó có
giá quá mắc, tới 99$ một năm và không đáng tin cậy khi mới ra mắt.
iOS 2.0 ra mắt cũng iPhone 3G và nó hỗ trợ thêm 1 số tính năng liên quan tới phần cứng
mới như 3G và A-GPS.
Các bản cập nhật iOS 2: iOS 2 không phải là 1 phiên bản thật sự ổn định khi hàng loạt
người dùng báo cáo về các lỗi pin kém, treo ứng dụng hay mất thoại. Apple đã cố gắng
sửa chữa bằng các bản cập nhật 2.0.1 và 2.0.2 nhưng chúng vẫn không giải quyết triệt để
cho đến khi 2.1 ra mắt vào thàng 9 năm 2008. Bản 2.1 cũng đồng thời tăng tốc quá trình
động bộ hóa với iTunes. Bản 2.2 xuất hiện vào tháng 11 cùng năm bổ sung thêm tính
năng Street View, dẫn đường bằng cách phương tiện công cộng và đi bộ.
Phương pháp nghiên cứu khoa học Trang 25

×