Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn
Khoa Việt Nam Học
---------------
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN
Sinh viên:
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. PHONG TỤC THỜ CÚNG LÀ GÌ?
Dân tộc Việt Nam rất trọng lễ, và trọng lễ thì ân nghĩa giữ phần quan
trọng.
Tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra mình. Người
con hiếu thảo biết ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ, và đã hiếu với cha mẹ
phải hiếu với ông bà tổ tiên tức là nguồn gốc của mình.
Lúc ông bà cha mẹ còn sống, con cháu phải phụng dưỡng, phải tuân theo
những lời dạy bảo của bậc bề trên, phải lựa ý chiều chuộng các Người, phải
ăn ở sao cho các Người được hài lòng.
Ở Hàn Quốc có tục ngữ như “ Cây không có rễ cây không thể tồn tại
được, không có tổ tiên thì mình không thể tồn tại được”.
Khi các Người trăm tuổi, ngoài việc lo ma chay chôn cất, con cháu phải thờ
cúng các Người, cũng như thờ cúng tổ tiên về trước.
Thờ cúng tổ tiên là việc lập bàn thờ tại nhà và cúng bái trong những ngày
sóc vọng giỗ tết...
Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu,
thì con người ta phải có tổ tiên mới có thể có mình được. Bỏ tổ tiên không
thờ cúng cũng tức là quên nguồn gốc, huống chi ông bà là những người
sinh dưỡng cha me và cha mẹ là người sinh dưỡng mình (trích trong
"Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam" của Toan Ánh).
2. TỤC THỜ CÚNG XUẤT HIỆN TỪ KHI NÀO?
Không có tài liệu nào ghi chính xác về tục thờ cúng của dân tộc Việt
Nam xuất hiện từ khi nào. Chỉ cho rằng tục thờ cúng có từ thời vua Hùng
Vương.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thời gian xuất hiện tục thờ cúng tổ tiên của Hàn Quốc cũng không
biết rõ từ khi nào. Chỉ cho rằng đã có lâu rồi.
Nguôn gốc của thờ cúng là ngày xưa người ta muốn tránh từ thiên
tai, bệnh tật, và những mãnh thú. Cho nên họ thờ cúng trời, đất, sớm và các
mãnh thú. Nhưng hiện nay tục thờ cúng được ảnh hưởng Nho Giáo nên trở
thành phong tục thờ cúng tổ tiên của hiện đại.
3. QUAN NIỆM THỜ CÙNG TỔ TIÊN
Trong quan niệm dân gian Việt Nam, qua việc thờ cúng tổ tiên, giới
hữu hình và giới vô hình luôn luôn có sự mật thiết. Sụ thờ cúng chính là
môi trường gặp gỡ của giới hữu hình và vũ trụ thần linh.
Đối với người Việt Nam cổ, chết chưa phải là hết, thể xác tuy chết đi nhưng
linh hồn vẫn còn và vẫn hằng "lui tới" gia đình. Thể xác tiêu tan nhưng linh
hồn vẫn còn bất diệt.
Tục ta lại tin rằng dương sao âm vậy, người sống cần gì, sống làm sao thì
người chết cũng như vậy và cũng có một cuộc "sống" ở cõi âm như cuộc
sống của người trên dương thế, nói khác đi, người chết cũng cần ăn, uống,
tiêu pha, nhà ở như người sống.
Tin như vậy, việc cúng lễ là cần thiết, và việc thờ cúng tổ tiên không thể
không có được.
Tục lại tin rằng vong hồn người khuất thường luôn ngự trên bàn thờ, có ảnh
hưởng nhiều đến hành động của người sống. Nhiều người vì sợ vong hồn
cha mẹ buồn đã tránh những hành vi xấu xa, và đôi khi định làm một công
việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng, xem công việc lúc sinh thời cha mẹ có chấp
nhận hay không. Người ta sợ làm cho vong hồn cha mẹ phải tủi hổ qua
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hành động của mình và mang tội bất hiếu.(Trích trong "Phong tục thờ cúng
trong gia đình Việt Nam" của Toan Ánh)
4. BÀN THỜ GIA TIÊN
Theo điều tra năm 1999 – 2000, hầu như nhà nào cũng thờ gia tiên
không kể trưởng thứ, cứ lập gia đình ra ở riêng là dành một chỗ trang trọng
nhất để thờ. Với những gia đình chưa có điều kiện kinh tế hoặc con thứ thì
cũng vẫn có một ban thờ (Ở thành phố thường bằng gử, treo trên tường,
hoặc đặt trên mặt tủ; Ở nông thôn thì có cả ban thờ bằng tre, gử, nhiều loại,
có bát hương, lọ hoa, ảnh hoặc tranh truyền thần) của ông bà hoặc bố mẹ.
Những nhà có điều kiện thì đóng mới hoặc mua bàn thờ đặt ở gian
trang trọng, câu đối, hoành phi. Bàn thờ gia tiên là nơi biểu hiện - vật thể
hoá những tình cảm, tránh nhiệm của thế hệ đang sống với các thế hệ trước
của gia đình (Gia tiên). Ngoài các ngày kỵ (Giỗ chạp), ngày một (Ngày
sóc), ngày rằm (Ngày vọng) trong tháng, các lễ tiết trong năm (Hàn thực,
Đoan ngọ, Trung thu, Tết Nguyên Đán) thì mọi vui buồn trong gia đình đều
được chủ nhà “báo cáo” với gia tiên về chứng giám, giàu có thì mâm cỗ,
khá chút thì hoa quả, đĩa xôi, chén rượu… nghèo thì nén hương, chén nước
sạch…
5. GIỖ CHẠP
Trong gia đình, việc cúng giỗ gia tiên, tổ tiên chỉ được thực hiện với
những người trong phạm vi từ bốn đời trở xuống (Người mà chủ gia đình
gọi là cụ, còn từ đời thứ 5 trở lên được giỗ chung trong phạm vi họ tộc hay
trong chi phái). Giỗ chạp, theo phong tục xưa chỉ diễn ra ở nhà con trai
trưởng - bậc trai trưởng. Những ngày giỗ, tuỳ theo tình hình kinh tế của nhà
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trưởng mà cử bàn to hay nhỏ, nhiều hay ít.
Có một thực tế là không phải tất cả các gia đình đều có con trai hay
tất cả những con trai trưởng đều còn, trong những trường hợp như vậy, từ
lâu ở người Việt thường có chế độ thừa tự (Con trai thứ của bậc thứ được
nhận phần cúng giỗ) hoặc con gái cũng cúng cha mẹ, ông bà.
6. NHÀ THỜ HỌ ( TỪ ĐƯỜNG )
Không phải tất cả các họ, tộc đều có (hoặc còn) nhà thờ - một địa
điểm thờ cúng tổ tiên chung của các thành viên trong họ - theo nghĩa là
những người được coi là có chung một cụ tổ về đằng cha, vì tuỳ thuộc
những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Tuy nhiên, nhà thờ họ (Từ
đường) là một hiện tượng ngày càng phổ biến, phát triển của cư dân Việt
nói chung, của vùng Nam Định nói riêng. Tính đến năm 1998, theo số liệu
điều tra của Sở Văn hoá – Thông tin tỉnh Nam Định, toàn tỉnh có đến 3.368
từ đường chính phái, hoặc chi, nhánh của các dòng họ, chi phái thì có bấy
nhiêu từ đường. Thôn Hưng Thịnh, xã Hoàng Nam, huyện Nghĩa Hưng với
30 họ, 34 nhà thờ; thôn Bách Tính, Nam Trực có 15 nhà thờ họ; làng
Hoành Nha, xã Giao Tiến, huyện Giao Thuỷ có 54 từ đường; Trà Lũ có 18
từ đường. mặt khác có một thực tế, do những điều kiện lịch sử , kinh tế xã
hội cụ thể mà Nam Định càng đi về mạn Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải
Hậu, Nghĩa Hưng, những làng có lịch sử khai phá từ khoảng vài trăm năm
trở lại, những từ đường lại mọc lên nhiều hơn. Trong những điều kiện của
một cư dân tiểu nông, mỗi lần phải rời quê hương bản quán đi khai khẩn
vùng đất mới, ý thức về quê hương, tổ tiên, dòng họ lại có dịp trửi dậy.
7. GIÁO DÂN VỚI VIỆC THỜ CÚNG TỔ TIÊN
5