Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tìm hiểu về thực trạng ô nhiễm môi trường và công tác quản lý thu gom rác thải tại tỉnh Cà Mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.65 KB, 19 trang )

1 | P a g e
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới này luôn luôn tồn tại những vấn đề gây tranh cãi, và môi
trường không phải là ngoại trừ. Nhân loại đang thay đổi của khí hậu trái đất
quá nhanh. Môi trường rất cần thiết cho cuộc sống của con người. Môi
trường cung cấp cho con người những điều kiện để sống (như ăn, ở, mặc, hít
thở…). Nếu không có những điều kiện đó con người không thể sống, tồn tại
và phát triển được. Môi trường là một vấn đề lớn và là một trong những vấn
đề quan trọng nhất đang xảy ra trên thế giới của chúng ta. Như chúng ta đã
biết, hiện nay sự nóng lên của Trái đất bởi các chất khí gây hiệu ứng nhà
kính đã trở thành vấn đề môi trường có tính toàn cầu.
Ở Việt Nam ô nhiểm môi trường cũng là vấn đề được chính phủ và
các cơ quan chức năng quan tâm hàng đầu, vì nó đang bị ô nhiểm trầm
trọng. Hiện nay các tỉnh thành trong nước nói chung điều nhận thức rõ được
tầm quan trọng của môi trường và đã và đang ra sức khắc phục và bảo vệ nó.
Trong những năm gần đây tốc độ phát triển đô thị cũng như công
nghiệp hoá trên địa bàn thành phố Cà Mau diễn ra rất nhanh chóng; trong
khi đó, các công trình hạ tầng kỹ thuật như giao thông, cấp điện, cấp thoát
nước, xử lý nước thải, thu gom và xử lý rác thải… không đủ khả năng đáp
ứng với yêu cầu phát triển đô thị. Do nguồn vốn ngân sách của Nhà nước có
hạn, nên việc đầu tư cho lĩnh vực này còn khiêm tốn, vì vậy môi trường và
1
2 | P a g e
mỹ quan đô thị ngày càng xuống cấp trầm trọng; đặc biệt là vấn đề về thoát
nước, rác thải đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và sức khỏe của người
dân thành phố Cà Mau. Đề tài này sẽ làm rõ thực trạng về môi trường ở Cà
Mau hiện nay. Và phân tích những nguyên nhân, tác hại ở góc độ kinh tế.
2
3 | P a g e
1. Ô nhiễm môi trường
a. Khái niệm


Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi
phạm Tiêu chuẩn môi trường.
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất
thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức
khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng
môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí
thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hoá chất hoặc tác nhân vật lý,
sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm
lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng
tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
b. Các dạng ô nhiễm môi trường
Có thể chia thành nhiều dạng ô nhiễm môi trường tuy nhiên ở đây ta
chia theo các dạng chính sau:
 Ô nhiễm môi trường đất: Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả các
hoạt động của con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những
giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất. Môi trường đất là nơi trú
ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền móng cho các công
3
4 | P a g e
trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con người. Đất là một
nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào hoạt động
sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm cho
con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công
nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày
càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình
quân đầu người. Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất
là rất đáng lo ngại và nghiêm trọng.
 Ô nhiễm môi trường nước: Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều
xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện

các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người
và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan
truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô
nhiễm đất. Nước bị ô nhiễm là do sự phủ dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu
vực nước ngọt và các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối
khoáng và hàm lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh
vật trong nước không thể đồng hoá được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy
trong nước giảm đột ngột, các khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước, gây
suy thoái thủy vực. Ở các đại dương là nguyên nhân chính gây ô nhiễm đó là
các sự cố tràn dầu Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại chất thải và
4
5 | P a g e
nước thải công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa qua xử lí
đúng mức; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước
ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven
sông.
 Ô nhiễm không khí: Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ
hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không
khí không sạch hoặc gây ra sự tỏa mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhin xa
do bui. Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cá thế
giới chứ không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang
có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật.
Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí
đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải
khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp
làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng.
 Ô nhiễm phóng xạ: Do các chất phóng xạ gây ra, làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe con người.
 Ô nhiễm tiếng ồn: bao gồm tiếng ồn do xe cộ, máy bay, tiếng ồn
công nghiệp.

 Ô nhiễm sóng: do các loại sóng như sóng điện thoại, truyền hình
tồn tại với mật độ lớn.
5
6 | P a g e
2. Thực trạng về môi trường tỉnh Cà Mau
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế - xã hội ở Cà Mau hiện nay. Vậy mà tỉnh hầu như "bó tay"
trong việc thực hiện các biện pháp xử lý và có chăng cũng chỉ là những giải
pháp tình thế, đối phó trước mắt mà ô nhiễm môi trường thì ngày càng trầm
trọng thêm.
Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Cà Mau, nước thải các loại
không qua xử lý khoảng 30.000 m3/ngày thải trực tiếp ra sông rạch, gây ô
nhiễm nặng nề nguồn nước mặt trên địa bàn. Tiếp đến, sông rạch Cà Mau
mỗi năm phải tiếp nhận, hứng chịu hơn 250 triệu m3 bùn đất từ việc cải tạo
ao đầm nuôi tôm; dẫn đến làm gia tăng độ đục, ô nhiễm nguồn nước và tốc
độ bồi lắng trên nhiều tuyến kênh rạch. Các chất thải rắn sinh hoạt, công
nghiệp và dịch vụ vẫn đang "vô tư" thải ra sông rạch. Công nghệ xử lý, tái
chế đầu vỏ tôm với công suất 100 tấn/ngày chưa đạt yêu cầu về bảo vệ môi
trường, thường gây ô nhiễm lớn.
Tại thành phố Cà Mau, với trên 200.000 dân, gần 1.500 nhà máy, cơ
sở sản xuất kinh doanh lớn nhỏ, hàng chục bệnh viện, phòng khám tư nhân
và trên 7.000 cơ sở dịch vụ thương mại, hàng ngày thải ra hơn 100 tấn chất
6
7 | P a g e
thải, trong đó có hàng chục tấn chất thải rắn. Thế nhưng, phần lớn chất thải
này sau khi thu gom được chuyển đến bãi đổ ở ấp 5, xã An Xuyên, thành
phố Cà Mau; số còn lại đưa trực tiếp xuống sông rạch, ra ngoài môi trường
tự nhiên xung quanh. Đây là một số hình ảnh ô nhiểm ở Cà Mau:
3. Ngu
yên

nhân chủ yếu gây ô nhiểm
a. Hậu quả từ ngành thủy sản để lại
Hiện thành phố Cà Mau chưa có một công nghệ xử lý rác thải nào
ngoài "tự hoại, tự phân hủy" của rác theo thời gian ở bãi đổ ấp 5, nên môi
trường tại đây ô nhiễm nặng nề. Mặt khác, thành phố Cà Mau còn là nơi có
nhiều cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu nhất trong tỉnh, tập trung ở phường
6, phường 8 và 3 cơ sở sản xuất kitin từ đầu, vỏ tôm nằm trên sông Gành
Hào, kênh xáng Cà Mau - Bạc Liêu. Do đó, những tuyến sông này và các
7
8 | P a g e
con sông chảy trong nội ô thành phố Cà Mau đang bị ô nhiễm hữu cơ và vi
sinh khá cao, nước có màu đen, bốc mùi hôi thối do việc xử lý ô nhiễm ở các
nhà máy chế biến thủy sản còn nhiều hạn chế. Cà Mau chỉ có 9/27 nhà máy
chế biến thủy sản xuất khẩu có hệ thống xử lý nước thải nhưng hoạt động
cầm chừng nên không mang lại hiệu quả.
b. Do hệ thống xử lý chất thải
còn yếu kém
Những chủ hộ kinh doanh
buôn bán lớn nhỏ ở hầu hết các chợ hằng ngày đều phải đóng một khoản lệ
phí vệ sinh. Đây là việc làm cần thiết, tuy nhiên, điều đáng nói là các hộ
kinh doanh này cho rằng vì đã đóng lệ phí rồi nên không cần giữ gìn vệ sinh
chung. Tại chợ Nông sản thực phẩm, chợ nổi, mỗi ngày có hàng chục xe tải,
tàu thuyền vận chuyển rau, củ, quả từ các tỉnh đổ về để phân phối hàng đi
các nơi trong tỉnh. Sau mỗi chuyến hàng như vậy, "tàn dư" của rau, củ, quả
và các phụ trợ đóng gói hàng hóa vứt ra đầy chợ, lềnh bềnh trên sông, mặc
cho các công nhân vệ sinh môi trường phải vất vả thu gom, quét dọn. Điều
đáng suy nghĩ nữa là phí vệ sinh môi trường ở hầu hết các chợ sau khi thu có
sử dụng đúng mục đích hay không, mà tại các chợ vẫn còn ít thùng đựng rác,
8
9 | P a g e

sọt rác công cộng hay các khu gom rác tập trung; đường vào chợ, cống rãnh
lầy lội, xuống cấp trầm trọng; không thấy biển báo hay chỉ dẫn nơi thu gom
rác tập trung. Như vậy, dù có muốn lịch sự hơn, tự giác hơn nhưng người
dân cũng đành chịu vì không có chỗ để họ bỏ rác.
Theo HĐND tỉnh Cà Mau, qua giám sát ngành y tế về công tác khám,
điều trị bệnh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị tại các bệnh viện thì tất cả các bệnh viện trong tỉnh Cà Mau không có
hệ thống xử lý nước thải y tế. Theo đó, toàn bộ chất thải lỏng của các bệnh
viện đều thải trực tiếp ra sông, rạch, ao, hồ gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng bất lợi đến đời sống và sức khoẻ của nhân dân. Toàn tỉnh hiện có 12
bệnh viện, nhưng chỉ có 2 bệnh viện có lò đốt rác thải y tế đạt tiêu chuẩn,
còn lại dùng phương pháp đốt thủ công.
Hiện nay, trong số 27 nhà máy chế biến thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà
Mau, có 15 nhà máy lắp đặt hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn. Như
vậy là còn khoản 12 nhà máy chưa có hệ thống xử lý rác thải. Mà mỗi nhà
máy trung bình thải ra môi trường hàng ngàn tấn rác thải mỗi năm.
c. Từ hoạt động kinh tế hằng ngày
Thành phố Cà Mau có trên 10 khu chợ lớn nhỏ bao gồm chợ nông sản
thực phẩm, chợ nổi, chợ phường tự phát… Hằng ngày, các chợ này thải ra
hàng chục tấn rác các loại, làm ô nhiễm thành phố, ảnh hưởng đến sức khỏe
9
10 | P a g e
và đời sống của người dân. Thực trạng trên kéo dài từ nhiều năm qua và đã
được các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương nhận thấy nhưng vẫn
chưa đưa ra giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn hoặc làm hạn chế mức độ ô
nhiễm. Với tốc độ đô thị hóa ngày càng cao, nhu cầu trao đổi, mua bán hàng
hóa tại các khu chợ diễn ra mạnh mẽ; lượng hàng hóa ngày càng lớn và
lượng rác thải cũng theo đó tăng lên.
Khảo sát tại một số chợ như: Nông sản thực phẩm Cà Mau (P7), Cống
số 1 (P9), chợ Phường 4, Phường 8, chợ nổi trên sông Cà Mau (P7)…. Điều

dễ nhận thấy là hệ thống xử lý rác thải như nơi chứa rác, thùng đựng rác
công cộng, lò đốt rác, cống thoát nước, biển báo tuyên truyền vệ sinh môi
trường… chưa được quan tâm đầu tư. Một số công trình hạ tầng ở các chợ
phần lớn đã xuống cấp, đường vào chợ nước đọng kéo dài sau các trận mưa.
Bên cạnh đó, tình trạng buôn bán lấn chiếm lòng lề đường khá phổ biến;
hàng hóa chất lộn xộn. Đặc biệt là người dân rất thiếu ý thức: vứt rác bừa
bãi, đổ rác xuống sông.
Ngoài ra, bụi, khói, tiếng ồn, cặn dầu, nhớt qua sử dụng từ các khu
vực sản xuất, giao thông đường thủy, đường bộ và công trình xây dựng chưa
được kiểm soát một cách có hiệu quả. Các chỉ tiêu bụi, tiếng ồn luôn ở mức
vượt tiêu chuẩn cho phép hàng chục lần. Các cơ sở sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp nằm gần và xen lẫn trong khu dân cư; nên gây bụi, mùi
10
11 | P a g e
hôi khó chịu, tiếng ồn lớn làm ảnh hưởng đến đời sống sức khỏe dân cư sống
xung quanh.
4. Tác hại của việc ô nhiễm môi trường
a. Về mặt tự nhiên
Mỗi khi mùa mưa, nước dưới dòng kênh, sông tràn lên đường, người
dân lội phải nước ấy thì về nhà bị ngứa ngáy rất khó chịu, phải rửa ngay
bằng xà phòng diệt khuẩn. Trẻ em ở đây đa số đều bị bệnh về Tai mũi họng,
về phổi và đường hô hấp. Người già thì không bao giờ ngủ ngon giấc vì cái
mùi của dòng kênh ô nhiễm. Ai cũng lo lắng cho sức khỏe của mình và
những người xung quanh. Nước giếng cho mùi rất tanh. Bỏ giếng này, khoan
giếng khác, vẫn không thoát được cái mùi tanh rình, hôi thối. Những hộ dân
chưa có nước máy, phải mua nước bình về uống. Về lâu dài nếu tình trạng ô
nhiễm vẫn không được khắc phục thì không ai dám khẳng định là nhiều
người dân ở cạnh khu vực ô nhiễm không bị mắc phải các chứng bệnh hiểm
11
12 | P a g e

nghèo. Không những gây tác hại đến nguồn nước ngầm, hơi nước từ kênh,
sông, nơi gần khu vực bị ô nhiễm bốc lên đã tạo nên sức tàn phá các vật
dụng bằng kim loại như: cửa sắt, mái tôn
b. Về mặc kinh tế
Môi trường đất, môi trường nước và các hệ sinh thái trong phát triển
nuôi trồng thủy sản bị biến đổi gây suy thoái, ô nhiễm môi trường. Cà Mau
là vùng tập trung nhiều các loại đất phèn tiềm tàng (pyrite FeS2)và phèn
hoạt động (jarosite (K/Na.Fe3/Al3(SO4)2(OH)6). Khi bị đào đắp ao nuôi
thủy sản, đào kinh rạch cấp và thoát nước, vệ sinh ao nuôi sau mùa thu
hoạch đã làm cho tầng phèn tiềm ẩn bị tác động bởi quá trình ôxy hóa sẽ
diễn ra quá trình lan truyền phèn rất mãnh liệt làm giảm độ pH môi trường
nước, gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh tôm, cá trong nuôi trồng.
Các nguồn thải ra sông rạch đã tác động làm cho môi trường nước bị
biến đổi. Chất lượng nước trong các ao nuôi thủy sản gồm cá nước ngọt,
nuôi tôm ven biển đặc biệt là trong các mô hình nuôi công nghiệp đã cho
thấy dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ (BOD, COD, nitơ, phốt pho cao hơn tiêu
chuẩn cho phép), có sự xuất hiện các thành phần độc hại như H2S, NH3+,
và chỉ số vi sinh Coliforms, đã cho thấy nguồn nước thải này cần phải được
12
13 | P a g e
xử lý triệt để trước lúc thải ra sông rạch. Số liệu quan trắc môi trường nước
trên sông rạch CM cũng đã cảnh báo nguy cơ ô nhiễm môi trường nước sông
rạch ở CM là rất lớn. Và đây cũng là nguyên nhân gây cho ngành thủy sản
gặp nhiều khó khăn, trong khi Cà Mau là tỉnh có tỷ lệ nuôi tôm lan là rất lớn.
5. Đề xuất khắc phục tình trạng ô nhiễm
Để khắc phục nạn ô nhiễm rác tại các chợ, thiết nghĩ việc tuyên
truyền, giáo dục nâng cao ý thức tự giác giữ gìn vệ sinh môi trường nơi công
cộng là cần thiết. Muốn làm được điều đó, ngoài tuyên truyền rộng rãi trên
báo, đài thì các đoàn thể, tổ chức xã hội và nhất là Ban quản lý các chợ phải
giữ vai trò chính, thường xuyên quan tâm và xem đây là một trong những

nhiệm vụ chính của mình.
Với những chủ hộ kinh doanh cố tình vi phạm cần phải được nhắc nhở
và áp dụng biện pháp cưỡng chế như: phạt tiền, tăng phí vệ sinh… Ngoài ra,
chính quyền và ngành chức năng cũng cần quan tâm hơn đến công tác quy
hoạch lại hệ thống chợ trong nội ô thành phố, từng bước nâng cấp các chợ
13
14 | P a g e
trung tâm thành các trung tâm thương mại vừa đáp ứng thời kỳ hội nhập vừa
đảm bảo an toàn vệ sinh công cộng.
Cần cải tiến công nghệ xử lý rác thải, thành lập thêm các trung tâm xử
lý rác… Điển hình như việc áp dụng hệ thống xử lý nước thải và hệ thống
điều trị chất thải dạng kích hoạt bùn và ngắt điện kép sinh học có khả năng
xử lý dễ dàng các chất ô nhiễm trong nước, chi phí vận hành thấp, diện tích
sử dụng nhỏ phù hợp điều kiện sản xuất và các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp tập trung. Hệ thống các lò đốt rác thải y tế bao gồm 1 lò nhiệt phân
với một buồng đốt. Trong lò nhiệt phân, chất thải sẽ được khử khí và phần
còn lại sẽ được đốt cháy. Những chất thải phát sinh khi không được đốt sẽ
vào buồng cháy 2. Trong 2 bộ phận của cùng một quá trình thì nhiệt độ sẽ
được điều chỉnh bởi người đốt. Những công nghệ này có tác dụng diệt các
loại vi khuẩn, vi rút có nguy cơ lây truyền dịch bệnh, phù hợp với việc xử lý
chất thải rắn y tế.
Cần xử lý nghiêm các trường hợp xả rác bừa bãi của người dân. Bắt
buộc tất cả các doanh nghiệp đều phải có hệ thống xữ lý rác thải. Nếu vi
phạm thì cần xử phạt hành chính thật nặng. Nếu gây hậu quả nghiêm trọng
thì xử phạt đến hình sự.
Ngoài ra chúng ta còn có thể đánh thuế lên lượng phát thải tại các
doanh nghiệp. Điều này làm cho doanh nghiệp phát thải ra môi trường sẽ
14
15 | P a g e
phải trả một khoản chi phí thuế( khoản thuể đánh vào sao cho nhiều hơn

khoản tiền để chi cho việc xử lý cùng lượng phát thải đó). Ví dụ như áp
dụng theo hình vẽ sau:
Theo như hình vẽ ta thấy, khi Doanh nghiệp giảm lượng phát thải từ
Eo xuống E* thì chi phí giảm phát thải là hình b. Khi ta áp dụng dánh mức
thuế T lên lượng phát thải thì khi Doanh nghiệp giảm lượng phát thải từ Eo
đến E* thì Doanh nghiệp chịu chi phí giảm phát thải vẫn là hình b. Tuy
nhiên, Doanh nghiệp phải chịu đóng thêm một khoảng thuế cho nhà nước là
15
16 | P a g e
hình a. Như vậy tổng chi phí Doanh nghiệp phải chịu lúc này là (a+b). Đây
chính là động cơ để các Doanh nghiệp hạn chế giảm lượng phát thải ra môi
trường, hoặc nâng cao cao công nghệ xử lý phát thải nhằm đạt hiệu quả tối
đa về mặt chi phí cho chính Doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Mặt đất và bầu trời, núi non và biển cả, dòng sông và những cánh
đồng… đó là sự ban tặng tuyệt với nhất của tự nhiên cho muôn loài, trong
đó có CON NGƯỜI.
Thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 này, con người đã đạt được những thành
tựu vượt bậc trong tất cả các lĩnh vực. Con người tự hào đã có thể thám hiểm
các vì sao. Internet đã kéo cả thế giới lại gần. Công nghệ sinh học đã can
thiệp vào bản đồ gen. Con người đã biết hưởng thụ những tiện nghi chưa
từng có. Những chiếc xe hơi sang trọng. Những ngôi nhà số. Những chuyến
du lịch vũ trụ… Nhưng trong cung cách đối xử với thiên nhiên, con người
dường như chưa vượt qua được chính mình.
16
17 | P a g e
Môi trường ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng. Chúng ta hãy ra sức bảo
vệ và khắc phục những hậu quả đã gây ra bằng các phương pháp xác thực
nhất, có hiệu quả chi phí nhất.
17

18 | P a g e
TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu hỏi: Có nên giảm lượng phát thải xuống bằng 0 không? Tại sao?
Trả lời: Không nên giảm lượng phát thải xuống bằng 0 Vì:
 Hiện tại khoa học kĩ thuật chưa thể giảm hoàn toàn tất cả các
loại rác thải.
 Nếu đầu tư vào để nghiên cứu khoa học kĩ thuật giảm lượng
phát thải xuống bằng 0 thì chi phí sẽ rất lớn=> Không đạt hiệu
quả chi phí. Trong khi đối với các Doanh nghiệp phát thải ra
môi trường là cách rẻ nhất để giảm thiểu chi phí.
18
19 | P a g e
Từ hình vẽ ta thấy nếu ta giảm lượng phát thải từ Eo đến E* (theo như
tiêu chuẩn được qui định) thì chi phí để giảm lượng phát thải là diện tích
E*EEo. Và khi ta giảm lượng phát thải về mức bằng 0 thì chi phí giảm phát
thải bằng diện tích OEo$o>> dt E*EEo. Do vậy khi ta giảm lượng phát thải
về bằng 0 thì chi phí sẻ rất lớn=> không đạt hiệu quả về mặt chi phí.
19

×