Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

BÁO CÁO ĐỀ TÀI-HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG NHÀ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.3 KB, 49 trang )

ĐTKH - HƯỚNG - 2012 1
MỤC LỤC
I – Phần mở đầu trang 2
II – Chương Một:
Từ chủ nghóa nhân văn truyền thống đến
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh 5
1. Cơ sở của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh 5
2.Những nội dung cơ bản của tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh 11
3. Bước đầu xác đònh và nêu nhận xét về quá trình
phát triển của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh 18
III – Chương Hai:
Nhận thức về tư tưởng nhân vănHồ Chí Minh qua một số
tác phẩm văn học trong chương trình 12 THPT hiện nay 25
1. Biểu hiện của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
qua các tác phẩm văn xuôi 25
2. Biểu hiện của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
qua các tác phẩm thơ 28
3. Vận dụng những hiểu biết về tư tưởng nhân văn
HCM vào việc giảng dạy các TPVH của Người
trong chương trình THPT 32
IV – Chương Ba:
Đề xuất một số biện pháp tuyên truyền và giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong trường THPT hiện nay 38
1. Thực trạng đạo đức và việc giáo dục đạo đức
cho học sinh hiện nay 38
2. Các biện pháp cần thực hiện trong việc giáo dục tuyên
truyền tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong nhà trường 41
V– Kết luận: 48
VI – Tài liệu tham khảo: 49
PHẦN MỞ ĐẦU



1/ Lý do chọn đề tài:
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vó đại của Hồ Chí Minh đã đi
vào tiềm thức của nhiều thế hệ con người Việt Nam, đặc biệt là những lơpù
người đã đi qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ở thế kỷ XX
chống Pháp và Mỹ xâm lược. Tư tưởng của Người đã và đang là kim chỉ
nam soi rọi cho con đường cách mạng của dân tộc. Người đã từng dạy:
“Muốn xây dựng Chủ nghóa xã hội thì trước hết phải có con người Xã hội
chủ nghóa”, một trong những điều mà Người quan tâm giáo dục và rèn
luyện thế hệ trẻ là tư tưởng Nhân văn, là lòng yêu thương con người, vì
con người. Với sự nghiệp của ngành Giáo dục và đào tạo, chúng ta hiểu
rằng điều quan trọng nhất hiện nay của sự nghiệp giáo dục là đào tạo con
người phát triển toàn diện về tài, đức. Trong đó đạo đức cách mạng là điều
cực kỳ quan trọng. Để Tổ quốc Xã hội chủ nghóa đời đời bền vững thì sứ
mệnh ấy thuộc về thế hệ trẻ, lấy cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Chủ
tòch Hồ Chí Minh làm bài học. Muốn vậy phải tiếp tục tìm hiểu tư tưởng
nhân văn của Người , nhất là các tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong
Nhà trường Phổ thông hiện nay. Bởi:
- Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là sản phẩm vô giá của dân tộc Việt
Nam, chúng ta tự hào thế kỷ XX là thế kỷ của Chủ nghóa anh hùng Cách
mạng của thời đại Hồ Chí Minh, ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh còn
tiếp tục và mãi mãi soi đường tiến lên cho dân tộc. Người đã phát triển
một cách tuyệt vời tư tưởng nhân ái đoàn kết yêu thương của dân tộc.
Trong sự phát triển của xã hội hiện đại thì tư tưởng đó càng có ý nghóa sâu
sắc, là cơ sở cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, là đònh hướng
cho sự rèn luyện đạo đức cách mạng của con người mới Xã hội chủ nghóa.
- Sự nghiệp đổi mới của đất nước đã đạt những thành tựu vô cùng
to lớn, chúng ta đang sống trong một thời đại mà “Một ngày bằng hai mươi
năm”, sự phát triển của KHKT và CNTT đã làm biến đổi cả thế giới, gần
20 năm mở cửa và đổi mới bên cạnh sự phát triển của nền kinh tế quốc

dân, con người cũng có những thay đổi căn bản trong tư duy, nhận thức,
tính chất thực dụng của nền kinh tế thò trường đã làm cho con người có
những biến đổi quan trọng. Vì vậy việc giáo dục tư tưởng nhân văn cho thế
hệ trẻ là một yêu cầu cấp thiết, phải thực hiện thường xuyên, đồng bộ và
phải có những biện pháp cả về mặt đạo đức và pháp lý mới có thể đạt hiệu
quả mong muốn.
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 2
Bác Hồ đã là tấm gương sáng, là hình ảnh vô cùng quen thuộc với
mọi thế hệ con người Việt Nam hơn nửa thế kỷ nay. Từ lâu trong Nhà
trường Cách mạng, hình ảnh Bác và những áng văn thơ của Người đã trở
nên vô cùng quen thuộc. Đó không chỉ là nội dung của môn Văn thuần tuý
mà còn là nội dung phong phú của các môn học khác như Đạo đức, Luân
lý (ở tiểu học), Giáo dục công dân, Lòch sử… ở THPT, vì vậy mà tư tưởng
Nhân văn Hồ Chí Minh lại càng có ý nghóa to lớn đối với sự nghiệp giáo
dục thế hệ trẻ hiện nay. Nó vừa mang ý nghóa lý luận vừa có giá trò thực
tiễn sâu sắc. Hầu hết các trường học ở nước ta đều ghi khắc những lời dạy
của Người: “Non sông Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu
được hay không chính là nhờ công học tập của các cháu”[3 – 110]. Hoặc:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”[3 – 120].
Bởi thế mà việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ có
nhiều thuận lợi. Đảng và Nhà nước đang cần những thế hệ thanh niên trí
thức có đạo đức cách mạng, biết cống hiến và sống trong sạch, lành mạnh
vì vậy trách nhiệm của ngành giáo dục – đào tạo càng trở nên nặng nề và
có tính cấp thiết hơn bao giờ hết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”[3 – 48]. Thực hiện Di chúc
thiêng liêng của Người, ngành giáo dục – đào tạo càng phải đề cao chức
năng “trồng người”, có như thế mới đáp ứng được yêu cầu xây dựng con
người mới: Những con người thấm nhuần tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Trong nhà trường, việc giảng dạy các tác phẩm văn chương của Người là
một điều kiện thuận lợi cho giáo dục đạo đức, lòng nhân ái, khoan dung,

độ lượng, biết “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
2 – Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
2 2.1- Đối tượng nghiên cứu:
- Các ý kiến đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu, các tác giả
trong và ngoài nước về Chủ tòch Hồ Chí Minh và tư tưởng nhân văn của
Người.
- Một số tác phẩm văn học, nhất là những tác phẩm được giảng dạy ở
lớp 12 THPT, gồm các bài: Nguyễn i Quốc – Hồ Chí Minh (tiểu sử, sự
nghiệp văn học…), truyện ngắn Vi hành, Nhật ký trong tù (Hoàn cảnh sáng
tác, các bài thơ: Mộ, Tảo giải, Vãn cảnh, và Tân xuất ngục học đăng sơn);
Tuyên ngôn độc lập.
- Các tư liệu về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tòch.
2.2-Phạm vi nghiên cứu:
- Các tác phẩm Văn học của Hồ Chí Minh trong chương trình Văn 12
THPT(như nêu trên).
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 3
3 - Về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh: những nội dung có liên quan
đến Giáo dục – Đào tạo; những vấn đề về con người trong tư tưởng của
Bác.
4 - Về vấn đề giáo dục đạo đức, tình yêu thương, nhân ái cho học
sinh trong Nhà trường THPT hiện nay.
3 – Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài:
3.1- Mục tiêu của đề tài:
Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
thể hiện qua cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Người, nhận thức, tìm hiểu
thêm những quan niệm của Bác về tình yêu thương con người để thấy được
mặt tốt và chưa tốt trong bản chất của con người, từ đó rút ra những vấn đề
có tính lý luận góp phần làm tiền đề cho công tác giáo dục, đào tạo, nhất
là trong việc giảng dạy môn Văn học nói chung và mảng thơ văn của Bác
nói riêng.

3.2 – Nhiệm vụ của đề tài:
5 Góp phần làm sáng tỏ thêm về nguồn gốc, nội dung cơ bản và quá
trình phát triển của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
6 Tìm hiểu những biểu hiện của chủ nghóa nhân văn trong một số
tác phẩm Văn học, cách khai thác và vận dụng vào thực tiễn giảng dạy
Văn học và giáo dục nhân văn.
7 Đề xuất một số biện pháp trong tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
chí Minh, tư tưởng nhân văn của Người trong Nhà trường THPT hiện nay.
4 – Phương pháp nghiên cứu:
Quán triệt phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lòch sử của
Chủ nghóa Mác – Lênin, và phương pháp Hồ Chí Minh.
Sử dụng phương pháp lòch sử, phương pháp lôgic; đồng thời sử dụng
các phương pháp khác như phân tích, so sánh, bình giảng … để làm sáng rõ
những nội dung của đề tài.
5 – Bố cục của đề tài:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương 8 tiết.
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 4
CHƯƠNG MỘT
TỪ CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN NHÂN ĐẠO TRUYỀN THỐNG ĐẾN
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
1 – Những cơ sở của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh:
1.1- Từ tư tưởng nhân văn, nhân đạo truyền thống của dân tộc:
Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng người đã có một lòch sử tồn tại
hàng nghìn năm trên dải đất này. Trên cái nền lòch sử lâu dài ấy, người
Việt chúng ta đã có một nền văn minh rực rỡ mà cốt lõi là sự đoàn kết
thương yêu lẫn nhau, giàu tình thân ái “thương người như thể thương thân”,
đoàn kết để dựng nước và giữ nước, mà nói ngắn gọn là để sống tốt theo
lời khuyên:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng” (ca dao)
Hoặc dân dã hơn:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” (ca dao)
Truyền thống văn hoá ấy được phản ánh trong các câu ca dao, tục ngữ,
trong các câu chuyện cổ tích, nó như là những bài học đầu đời của cha ông
ta răn dạy cháu con. Có ai trong chúng ta không lớn lên trong tiếng ru à ơi
của cha mẹ ông bà. Vì vậy tính cộng đồng, lòng yêu thương con người đã
thấm sâu vào máu thòt của người Việt Nam, dẫu là miền ngược hay miền
xuôi cũng đều từ cội ấy mà ra. Để rồi tình cảm giữa người với người đã trở
thành một triết lý sống của người Việt Nam. Nhiều phong tục tập quán nảy
sinh cũng là để cố kết con người và giữ gìn thứ tình cảm đó. Hãy đọc
những câu tục ngữ, bài ca dao cổ ta thấy nghóa tình, hay là tính nhân văn,
nhân ái là mẫu số chung cho các mối quan hệ khác của con người trong đời
sống xã hội:
Giọt máu đào hơn ao nước lã, Lá lành đùm lá rách. (Ngày nay còn
thêm: Lá rách ít đùm lá rách nhiều); Hoặc:
Quen nhau từ thû bện thừng
Trăm chắp nghìn nối xin đừng quên nhau … (ca dao)
Lòch sử dân tộc ta là lòch sử của những cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm giữ gìn đất nước. Hãy bắt đầu từ Tây Nguyên bất khuất của các dân
tộc anh em, trong trường ca Đam San của người Ê Đê, nhân vật trung tâm
trong tác phẩm này là những con người “mang phẩm chất cao đẹp, giàu
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 5
lòng hy sinh, sẵn sàng xả thân cho lý tưởng của cộng đồng. Họ là những
anh hùng cực kỳ dũng cảm, đã cầm vũ khí thì … chỉ có tiến chứ không bao
giờ lùi. Họ phi thường cả trong tình yêu lứa đôi. Họ nói với người yêu
những lời say đắm:
“Ta xa nàng thì tim gan buồn như lá héo lúc trời mưa, như trâu buồn
không gặm cỏ, ruột chán chường như ong không hút nhụy, như chim chẳng

hót ca như bờ suối không tiếng đàn hát”.
Vónh biệt người thân, họ cũng khóc những tiếng khóc phi thường:
“Đam San khóc từ sáng đến tối, từ tối suốt sáng, … nước mắt ròng đầy
một bát, chảy ngập cả chiếc chiếu.”[24 – 22,23].
Có thể so sánh với chính sử nước nhà, nhiều vò anh hùng dân tộc như
Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi đánh giặc bằng “tâm công” (Ta đây mưu
phạt tâm công – Nguyễn Trãi), “đem đại nghóa để thắng hung tàn, lấy chí
nhân để thay cường bạo”. Suốt mấy mươi thế kỷ dựng nước và giữ nước,
cha ông ta đã đúc kết truyền thống dân tộc trong mấy chữ Nhân ái, Nhân
văn, nói như nhà thơ Tố Hữu:“Dệt tấm lòng nhân đựng gió mưa!”[21 –
452].
Một điều mà không phải ai cũng hiểu là chúng ta không chỉ “người
trong một nước phải thương nhau cùng”, mà với cả kẻ thù ta cũng “đánh
kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại”, Nguyễn Trãi từng nói:
“Tướng giặc bò cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.” [24 – 123]
Thử hỏi 500 năm trước đã có Công ước Quốc tế về tù binh chiến
tranh để Nguyễn Trãi thực thi? Cha ông ta chỉ có công ước về lòng người
để đối nhân xử thế mà Nguyễn Trãi là một điển hình.
Một điểm nữa trong cơ sở tư tưởng nhân văn, nhân đạo của dân tộc
ta là truyền thống yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh tính
mạng và tài sản vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do cho Tổ
quốc. Lòch sử đặt dân tộc ta trong những thử thách khắc nghiệt nhất và
chúng ta đã bước qua những khúc quanh đó một cách thật nhẹ nhàng và
vinh quang. “Lòng nhân ái đã gắn chặt vận mệnh của mỗi cá nhân vào
vận mệnh của dân tộc.”[1 – 4] Sự sống của mỗi cá nhân gắn với sự tồn
vong của dân tộc. Hơn ai hết mỗi người Việt Nam hiểu rõ về mình và hiểu
rõ điều này. “Máu chảy ruột mềm” khi đất nước có ngoại xâm thì họ cùng
nhau chung lưng đấu cật cầm vũ khí chống lại kẻ thù chung mà không suy
tính thiệt hơn, họ xả thân vì Nghóa mà thực chất là vì sự sống còn của cả

dân tộc. Trong khoảng 3000 năm lòch sử, trải qua hơn 30 cuộc chiến tranh
chống kẻ thù xâm lược, người Việt Nam thà chết chứ không bao giờ đầu
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 6
hàng giặc. Chúng ta đã từng đương đầu với những kẻ thù mạnh hơn gấp
nhiều lần như: nhà Tần (214 – 218 trCN), Triệu Đà (179 trCN), nhà Hán
(938), nhà Tống (TKXII), nhà Nguyên (TKXIII), nhà Minh (TKXV), nhà
Thanh (TKXVIII), và Pháp, Mỹ (TKXIX – XX). Qua các cuộc chiến tranh
giữ nước ấy ta thấy ngời lên một phẩm chất tuyệt vời của người Việt Nam
là yêu nước, thương dân, khoan dung độ lượng. Trong bối cảnh ấy ta càng
khẳng đònh phẩm chất ngời sáng của nhân cách con người Việt Nam, “một
nét nhân cách tuyệt đẹp trở thành sức mạnh bất tử, trường tồn quét sạch đô
hộ”[1 – 6]. Nét đặc sắc của nhân cách con người Việt Nam mà ca dao cổ
từng nói “Có xáo thì xáo nước trong / Đừng xáo nước đục đau lòng cò
con”, thà "chết vinh còn hơn sống nhục", bởi thế cho nên lòch sử từng thời
đại là lòch sử sự phát triển nhân cách con người Việt Nam, cùng với Đất
nước, nhân cách con người Việt Nam càng ngày càng hoàn thiện và phát
triển lên tầm cao mới. Mỗi cá nhân con người Việt Nam cũng như cả dân
tộc ta luôn luôn sống vì nhau và vì cả bè bạn gần xa “Biết hy sinh nên
chẳng nhiều lời”[21 – 428]. Có thể nói, nhân cách của con người Việt
Nam thường được thể hiện một cách đa dạng và sinh động trong tiến trình
lòch sử của dân tộc. Nhân cách ấy dù ở thời đại nào cũng là thứ nhân cách
biết “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, vì sự sinh tồn của cả dân tộc.
Như vậy trong suốt chiều dài gần 3000 năm lòch sử ấy, dân ta có lòng yêu
nước nồng nàn, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, vì Độc lập tự do của dân tộc.
Đó là những biểu hiện của chủ nghóa yêu nước, của tư tưởng nhân văn,
nhân ái của con người Việt Nam. “Chủ nghóa dân tộc chân chính, chủ
nghóa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lòch sử dân tộc Việt Nam.”[17
– 24]. Chúng ta khẳng đònh rằng “Trước hết, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt
nguồn từ truyền thống yêu nước, cần cù lao động, anh dũng, sáng tạo trong
dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, truyền thống văn hoá nhân

ái của dân tộc Việt Nam.”[17 – 23]
1.2 – Những vấn đề về chủ nghóa nhân văn trên thế giới:
1.2.a/ Văn hoá phương Đông:
Phương Đông từ xa xưa đã trở thành một nền văn minh lớn với nhiều
trường phái triết học nổi tiếng mà trước hết là Nho giáo.
Nho giáo do Khổng Tử và các môn đệ của ông sáng lập vào khoảng
thế kỷ VI – V tr.Cn với những nội dung cơ bản là thuyết chính danh với
chữ Nhân là cốt lõi, kêu gọi tinh thần trung quân, ái quốc, nhằm lập lại trật
tự xã hội, bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến, nhà nước phong kiến.
Tuy nhiên bên cạnh mặt tiêu cực, Nho giáo có những mặt tiến bộ mà đến
nay vẫn còn nguyên giá trò. Đó là tính nhân văn, nhân đạo, tính nhân loại.
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 7
Nó răn dạy cá nhân làm điều nhân đức “nhân, lễ, nghóa, trí, tín.”, “kỷ sở
bất dục vật thi ư nhân”. Lòch sử đã chứng minh rằng Nho giáo khi nhập
vào nước ta được cha ông ta tiếp nhận có sáng tạo, phát huy mặt tích cực,
hạn chế tiêu cực, sáng tạo cho phù hợp với đặc điểm, phong tục, thể chế
của xã hội nước ta. “Lấy dân làm gốc”, “Việc nhân nghóa cốt ở an dân”
(Nguyễn Trãi). “Lòng nhân ái, yêu thương nhân dân, hết lòng vì việc dân
cũng được thể hiện rõ nét trong nhận thức, tư tưởng, hành động của những
nhà tư tưởng, nho só trí thức và các bậc đế vương” xưa.[20 – 21]. Hồ Chí
Minh sinh ra trong một gia đình Nho giáo vì vậy mà Người tiếp thu được
những gì tích cực tốt đẹp nhất của nó, gắn bó với quê hương, dân tộc,
Người đã tiếp thụ một cách tự nhiên lòng yêu nước và những phẩm chất tốt
đẹp của văn hoá dân tộc và nét đẹp của Nho giáo.
Phật giáo cũng truyền vào nước ta từ rất sớm. Phát tích từ n Độ,
qua một quá trình lâu dài du nhập vào nước ta, cũng như Nho giáo, mặt
tinh hoa và tích cực được phát huy bởi Đức Phật luôn mong muốn xây dựng
cho chúng sinh một cuộc sống “thiện chí, bình đẳng, yên vui, no ấm”. Vào
Việt Nam Phật giáo cũng dần dần được Việt hoá không còn y nguyên triết
lý đạo Phật mà phái Trúc Lâm của vua Trần Nhân Tông là ví dụ điển

hình. Phật giáo và các đệ tử của họ đã góp phần rất lớn trong việc làm
“phong phú nền văn hoá nước nhà, góp phần to lớn trong tiến trình dựng
nước, giữ nước của dân tộc, nó còn góp phần làm phong phú thêm chủ
nghóa nhân đạo, truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam “cứu nhân độ
thế”[20 – 23]. Hồ Chí Minh cũng đã tiếp thu sâu sắc những tinh hoa ấy của
phật giáo. Người đã vận dụng sáng tạo triết lý nhà Phật trong nhiều hoàn
cảnh sinh động. Năm 1947 trong thư kêu gọi đồng bào Phật giáo chống
Pháp Bác viết: “Đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn. Muốn cứu
chúng sinh ra khỏi bể khổ, Người phải hy sinh đấu tranh diệt trừ lũ ác ma.
Nay đồng bào ta đoàn kết hy sinh của cải, xương máu, kháng chiến đến
cùng để cứu nước, cứu dân, gìn giữ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc.
Thế là làm theo lòng đại từ , đại bi của đức Phật” (dẫn theo[20 – 23]). Như
vậy cùng với Nho giáo, Phật giáo cũng là một bộ phận quan trọng trong cơ
sở hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, những bộ phận tư tưởng
nhân văn này tồn tại trong con người Bác suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người. 1.2.b/ Văn hoá phương Tây:
Phương Tây có những nền văn hoá lâu đời và đến thế kỷ XIX cùng
với gót giày của bọn thực dân, nó bắt đầu có mặt trên đất nước ta. Trước
khi đến với Chủ nghóa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến những
tư tưởng tiến bộ của Phương Tây như Cách mạng Pháp, Cách mạng Mỹ,
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 8
“Người đã tiếp thu, kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của
văn hoá Phục hưng, của thế kỷ nh sáng, của cách mạng tư sản Phương
Tây”[17 – 24].
Chủ nghóa nhân văn, nhân đạo ở Phương Tây “thoạt đầu… là do
quần chúng nhân dân đề ra một cách tự phát trong cuộc đấu tranh chống
bóc lột và những tệ hại về đạo đức. Với tính cách là một cuộc vận động tư
tưởng đã đònh hình, chủ nghóa nhân đạo được hình thành trong thời kỳ Phục
hưng(thế kỷ XV – XVI). Trong thời kỳ này chủ nghóa nhân đạo đặc trưng
cho hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đấu tranh chống chế độ phong kiến và

những quan điểm thần học thời trung đại, và có những quan hệ chặt chẽ
với những quan điểm duy vật tiến bộ” [21 – 402, 403]. Những đại diện tiêu
biểu của chủ nghóa nhân văn thời kỳ này là Đăngtơ, L. đơ Vanhxi,
Môngtecxkiơ,… họ tuyên bố những khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”
bảo vệ quyền con người, tuy nhiên trong đó họ đề cao chủ nghóa cá nhân,
lấy nó làm cơ sở cho lý tưởng nhân đạo chủ nghóa.
Hồ Chí Minh đã sớm tiếp xúc với nền văn hoá Phương Tây và có ý
thức tìm hiểu nó một cách sâu sắc. Người cho biết:“… vào trạc tuổi 13, lần
đầu tiên tôi đã nghe được những từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái… Thế là
tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng
sau những từ ấy” (trích theo[1 – 24]). Đó là lý do mở đầu cho cuộc hành
trình hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước của Người, để rồi trong hành
trình ấy Người đã tiếp thu một cách sáng tạo các tư tưởng cách mạng tiến
bộ trên thế giới, và nhất là Chủ nghóa Mác – Lênin làm kim chỉ nam cho
cách mạng Việt Nam và kỷ nguyên Hồ Chí Minh.
1.3 – Chủ nghóa nhân văn Cộng sản:
Đây là chủ nghóa nhân văn của giai cấp công nhân, một giai cấp sinh
sau đẻ muộn nhưng lại bò áp bức bóc lột nhiều nhất, giai cấp tư sản và nền
kinh tế tư bản chủ nghóa vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện cho sự ra
đời và phát triển mạnh mẽ của giai cấp công nhân, do bò áp bức, bóc lột
thậm tệ nên nổ ra những cuộc đấu tranh trên phạm vi toàn thế giới. Mác
và ngghen đã làm nên học thuyết của mình về giai cấp công nhân và chủ
nghóa cộng sản. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX Lênin đã bổ sung, cụ
thể hoá để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Nga và cách mạng thế giới.
Giờ phút lòch sử vó đại nhất của Hồ Chí Minh và cũng là của dân tộc
ta là lúc Người bắt gặp bản sơ thảo luận cương của Lênin “Về các vấn đề
dân tộc và thuộc đòa”. Người nói:
“Đề cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 9

buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi
đồng bào bò đày đọa đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta.”[14 – 471].
Từ đó Người tham gia tích cực các hoạt động của Đảng cộng sản
Pháp, của các phong trào cộng sản và công nhân Quốc tế khác, Người đến
với chủ nghóa Mác – Lênin một cách tự nhiên, Người tìm thấy ở đó những
chân lý và con đường cách mạng. Người nói: “Ngày nay học thuyết nhiều,
chủ nghóa nhiều nhưng đúng đắn nhất là Chủ nghóa Mác – Lênin.” Như
vậy chủ nghóa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận và là cơ sở quan trọng
bậc nhất cho sự hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Người
đã bỏ nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu các trước tác của Mác,
ngghen, Lênin và tìm thấy những giá trò to lớn trong đó, đặc biệt là chủ
nghóa nhân văn. Tư tưởng nhân văn ở Bác chính là sự tiếp thu có sáng tạo
từ nhiều nền văn hoá khác nhau, nhưng Chủ nghóa Mác – Lênin đã soi
sáng những mảng tối khác, làm cơ sở cho sự tiếp thu và sáng tạo ở Người.
Trong các triết lý của văn hoá Phương Đông và chủ nghóa nhân văn của
giai cấp tư sản Phương Tây con người chưa được coi là chủ thể, nhất là
người lao động. Ở tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh ta thấy Bác đề xướng
việc giải phóng con người, nhất là những người lao động bò bóc lột và áp
bức trên toàn thế giới, đem lại cơm no áo ấm cho mọi người, sống bình
đẳng nhân ái. Người nói:
“Cả đời tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta được độc lập, dân ta được ấm no, hạnh phúc, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”[12 - …]
Như vậy tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh lấy con người làm xuất
phát điểm, vì con người, cho con người.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là kết tinh những tinh hoa văn hoá
Việt Nam và nhân loại, được thể hiện trong mọi hành động, cử chỉ, lời nói
của Người, trong suốt cuộc đời hoạt động sôi nổi cho dân tộc và nhân loại.
2 – Những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh:

2.1 – Lòng yêu thương con người:
Người Việt Nam ta vẫn thường tự hào mình là dòng giống Lạc
Hồng,”con Rồng, cháu Tiên”, điều đó cũng đúng ở Hồ Chí Minh, trước lúc
đến với Chủ nghóa Mác – Lênin, Bác cũng hay nói về những điều này. Sau
khi đến vối chủ nghóa Mác – Lênin, Bác đã có quan niệm mới mẻ, Người
cho rằng trên thế giới này chỉ có hai giống người mà thôi, đó là giống
người đi áp bức bóc lột và người bò bóc lột hay giống người làm điều Thiện
và giống người làm điều c. Bác cho rằng mọi người trên trái đất này, khi
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 10
họ là những người bò áp bức, những người làm điều thiện thì dù khác nhau
về chủng tộc vẫn có thể coi nhau như anh em một nhà, vẫn có thể thực
hiện đại đoàn kết, đại hoà hợp. Người ta thường dùng khái niệm “lý luận
con người” để chỉ về mối quan tâm của Bác về con người:
“Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh từng bước hoàn
chỉnh lí luận về con người. Năm 1924, Người đã viết: “Vậy là dù màu da
có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bò bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi:
tình hữu ái vô sản ’’
Năm 1949, trong tác phẩm Cần kiệm liêm chính, Hồ Chí Minh đã
viết như sau: “Trên quả đất có hàng muôn triệu người. Song số người ấy
có thể chia làm hai hạng: người Thiện và người c”. Và khi lí giải mối
quan hệ giữa người với người, Hồ Chí Minh giải thích: “Chữ người, nghóa
hẹp là gia đình, anh em , họ hàng, bầu bạn. Nghóa rộng là đồng bào cả
nước. Rộng nữa là loài người. Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít
thực dân là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả
những người khác thì ta phải yêu quý kính trọng giúp đỡ.
Chớ nònh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới… Phải học người
và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác-i”.[17 – 265,266]. Ở Hồ
Chí Minh có sự phân biệt rạch ròi trong việc thể hiện quan niệm, và thái
độ của mình về con người để từ đó mà có những cách đối xử khác nhau,

bày tỏ quan điểm giai cấp , tránh chung chung như quan niệm nhân đạo
truyền thống trước đây và mục đích cuối cùng của Bác là vì hạnh phúc cho
người cần lao.
Yêu thương con người là yêu quý, kính trọng con người, biết nhìn
nhận con người trong xu thế luôn luôn phát triển, con người chòu tác động
to lớn của môi trường, hoàn cảnh sống, nhưng còn phải thấy được con
người có khả năng cải tạo hoàn cảnh, tác động và làm biến đổi hoàn cảnh,
môi trường sống. Yêu thương con người là đặt mình vào hoàn cảnh của
mọi người để cảm thông, giúp đỡ, học hỏi. Trước khi trở thành người bồi
tàu trên hành trình ra đi tìm đường cứu nước, vào năm 1911, Bác đã thể
hiện một ý chí, một nghò lực phi thường khi trả lời người bạn bằng cách giơ
hai bàn tay mình và khẳng đònh: “Đây, tiền đây!”, Bác tin vào khả năng
lao động sáng tạo của bản thân mình nói riêng và của con người nói chung.
Tin bản thân mình và tin ở Con người đó là đặc điểm nổi bật trong tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
Bác luôn thể hiện niềm tin vào đồng chí, đồng bào, vào Đảng và quần
chúng nhân dân. Trong Di chúc, trước lúc đi xa Người viết: “Cuôïc chống
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 11
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều
hơn nữa, song nhất đònh thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn.”[3 – 47].
Đối với cuộc đời vó đại của Bác thì niềm tin của Bác vào dân còn có
phản ánh ngược là niềm tin của dân vào Bác và Đảng. Đấy là điều cực kỳ
quan trọng và cũng là điều hiếm thấy đối với người lãnh đạo. Ở Bác,
Người đã tạo dựng được mối liên hệ khăng khít, thân tình giữa dân và cán
bộ, giữa Đảng và dân biểu hiện một tư tưởng nhân văn vừa cao cả, vừa
giản dò. Người còn nói: “Cán bộ phải là người đầy tớ trung thành của nhân
dân”, Người dạy: “Học để làm người, học để làm cán bộ, để phụng sự Tổ
quốc, phụng sự nhân dân”. Tất cả những điều đó chỉ có thể nói lên rằng
Bác một lòng vì con người , sự “ham muốn tột bậc” như đã nói ở phần trên

cũng chính xuất phát từ lòng nhân ái bao la của Bác. Yêu thương con người
còn là phải biết lắng nghe ý kiến cuả người dân, biết lấy dân làm gốc, biết
học hỏi ở nhân dân. Bác chỉ ra rằng cần phải: “Học ở trường, học ở nhà,
học ở quần chúng, học ở nhân dân”, người cán bộ phải biết làm học trò
của dân, không nònh hót người trên, xem khinh người dưới. Bác lòng yêu
thương con người là không biên giới, Người từng nói:
“Quan san muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em”
Lòng yêu thương con người không thay đổi ở Bác, nó có ở mọi nơi
mọi lúc, có trong mọi công việc dù lớn nhỏ của Người.
Tình yêu thương đối với con người ở bác đã tạo được nét riêng độc
đáo mà ta vẫn gọi là phong cách Hồ Chí Minh, bởi Người đã đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, dưới ánh sáng của chủ nghóa Mác – Lênin
và mạch nguồn dân tộc mà hun đúc nên. Người sống cho một mục đích duy
nhất là phấn đấu cho độc lâïp tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân.
Hoàn cảnh của dân tộc và hoàn cảnh cá nhân là nguyên do lớn cho sự
đồng cảm của Bác đối với những người cùng cảnh ngộ, “thương người như
thể thương thân” khát vọng giải phóng luôn luôn thường trực trong Người,
đó là giải phóng cá nhân và giải phóng dân tộc, giai cấp. Bằng sự từng trải
và chiêm nghiệm từ những hiểu biết trong cuộc đời bôn ba của mình mà
Bác tạo nên được sự đồng cảm lớn lao ấy. Thậm chí có những lúc ta còn
thấy Bác chỉ “thương người” mà chẳng cần “thương thân”, những điều này
thể hiện rõ qua những năm tháng bò tù đày bởi chíng quyền Tưởng Giới
Thạch ở trung Quốc những năm 1942 – 1943, khát vọng duy nhất lúc bấy
giờ là được tự do, tự do để hoạt động cách mạng, tự do để cứu dân, cứu
nước.
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 12
Có thể khẳng đònh rằng “Lý luận về con người ở Hồ Chí Minh cho
thấy: … đồng bào cả nước là một đại gia đình… Tuy nhiên, Hồ Chí Minh
không bao giờ đóng khung “người trong một nước”, mà: “rộng hơn nữa,

chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghóa” quan điểm cũ của Nho giáo “Tứ
hải giai huynh đệ” (bốn biển đều là anh em) được Bác vận dụng sáng tạo
trên cở sở quan niệm “người yêu người sống để yêu nhau”[21 – 349]. Tóm
lại “tình yêu thương con người và nhân dân của Hồ Chí Minh chính là sự
đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ, của những người dân mất nước,
nô lệ, lầm than. Chính Người cũng từng là nạn nhân của chính sách thống
trò tàn bạo hà khắc của bọn thực dân.” [17 – 269]. Vì vậy mà nỗi đau của
Người cũng chính là nỗi đau của dân tộc, nỗi đau con người. Người đau nỗi
đau của một người từng trải và chứng kiến biết bao nhiêu nỗi đau của đồng
lọai, những nỗi đau của những con người đủ màu da, sắc tộc, lãnh thổ.
Thậm chí Người còn đau cả nỗi đau xưa và nỗi đau cho tương lai (xem
truyện ký “Con người biết mùi hun khói”[5 – 240]), lòng yêu thương con
người của Hồ Chí Minh không giới hạn, hết sức chân thành và phẫn nộ
trước những bất công gây nên nỗi đau con người.
2.2 – Niềm tin vào con người và khả năng vươn lên tự cải tạo của họ –
một niềm tin giàu chất nhân văn, nhân đạo cộng sản chủ nghóa:
Ơ ûHồ Chí Minh, việc thể hiện lòng yêu nước thương dân xuất phát từ
những điều Người cảm nhận được trong hành trình văn hoá của mình, nó
đã trở thành yếu tố thuộc bản chất trong con người Bác. Trong “Nhật ký
trong tù” Bác viết:
Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên.
(Không ngủ được) [19 – 502]
Thể hiện niềm tin tuyệt đối vào khả năng giáo dục và tự giáo dục,
rèn luyện để vươn lên của mỗi cá nhân con người. Người suy ra từ bản
thân mình: “Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng”. (Đi đường) [19 –
359].
Ngay từ những ngày đầu khi mới tiếp cận chủ nghóa Mác – Lênin,
Hồ Chí Minh từng cho thấy: “Không: người Đông Dương không chết,
người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi … Đằng sau sự phục tùng tiêu

cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, gào thét và sẽ bùng
nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến.”[4 – 28]. Niềm tin ấy còn thể hiện
sự tiên đoán tài tình của Hồ Chí Minh, ngay từ khi nhận mình là người
Cộng sản (1920) Bác quan niệm phải tin vào nhân dân, tin vào sức mạnh
của quần chúng và dựa vào họ để làm nên sự nghiệp cách mạng. Trong
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 13
quan niệm của Hồ Chí Minh về cái Thiện và c ta còn thấy người ác là
những kẻ gây ra tội ác cho dân tộc, cho đồng bào. Không có người xấu, chỉ
có những người chưa được giáo dục, cải tạo. Vì vậy mà Hồ Chí Minh
thương cảm đến mọi “ngươiø cùng khổ”, một “người tù cờ bạc vừa chết”
cũng thấy Người cất tiếng nói xót xa, cảm thông, đau đớn:
Thân anh da bọc lấy xương
Khổ đau đói rét hết phương sống rồi
Hôm qua còn ở bên tôi
Sáng nay anh đã về nơi suối vàng. [4 – 425]
Một cháu bé nửa tuổi phải theo mẹ ở tù vì cha trốn lính cũng gợi sự
thương cảm, sự xúc động sâu sắc ở Hồ Chí Minh:
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà pha. [4 – 476]
Những điều đó cho thấy ở Hồ Chí Minh, tư tưởng nhân đạo đã mở
rộng quan niệm của nó, không giới hạn trong phạm vi tộc người, dân tộc,
quốc gia mà vì Con Người . Trong hành trình cách mạng của mình Hồ Chí
Minh luôn đặt niềm tin vào quần chúng nhân dân, “niềm tin ấy không hề
thay đổi rằng: Dân chúng rất tốt, rất sáng suốt, rất khôn khéo, rất anh
hùng… Người coi đó là chân lý, và đòi hỏi “người cán bộ phải ghi tạc vào
đầu cái chân lý đó” [17 – 271].
Triết học Mác – Lênin còn chỉ rõ mối quan hệ giữa con người và
hoàn cảnh, con người có thể cải tạo được hoàn cảnh, thắng lợi của cách
mạng là thắng lợi của một quốc gia, một dân tộc và cả trong từng mỗi con
người. Vì vậy mà Hồ Chí Minh luôn dạy bảo người cán bộ cách mạng phải

biết gần gũi nhân dân, yêu thương nhân dân, tin cậy nhân dân, nắm tâm tư
nguyện vọng của nhân dân để tránh mắc bệnh quan liêu, một trong những
căn bệnh nguy hiểm của sự nghiệp cách mạng, có làm được như thế mới:
“Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”[8 – 65].
Đất nước ta tồn tại suốt hàng ngàn năm lòch sử trải qua nhiều triều
đại, nhưng chưa có triều đại nào lại quan tâm đến việc đào tạo giáo dục
người cán bộ lãnh đạo chính quyền như thời đại Hồ Chí Minh. Chế độ
phong kiến coi người lãnh đạo (thống trò) là người quân tử, người dân lao
động (bò trò) là kẻ tiểu nhân, kẻ tiểu nhân phải phục tùng người quân tử… Ở
thời đại Hồ Chí Minh người cầm quyền đã được giáo dục rèn luyện theo tư
tưởng của Người, phải biết lấy dân làm gốc. Chính quyền của ta là chính
quyền “của dân, do dân, vì dân”, mọi hoạt động phải ”dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”. Người cán bộ cách mạng phải toàn tâm toàn ý cho
công việc, phải tin yêu dân, tin vào khả năng tự vươn lên của họ. Như đã
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 14
nói trên, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh còn thể hiện ở quan điểm kính
trọng con người và kính trọng nhân dân, “chúng ta phải yêu dân, kính dân
thì dân mới yêu ta, kính ta.”[8 – 65]. “Tôn trọng nhân dân, quý sinh mạng
con người ở Hồ Chí Minh thấm đượm một chủ nghóa nhân văn trong sáng
cao cả.”[17 – 273]. Là vò Tư lệnh tối cao của Đảng và dân tộc ta trong gần
suốt hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm nhưng Hồ Chí Minh hết sức
giữ gìn và bảo vệ sinh mạng con người. Ngay cả với kẻ thù, phải tiêu diệt
chúng nhưng Người luôn nhắc nhở mọi người không được gọi những trận
đánh giết được nhiều đòch là trận đánh “đẹp”, điều đó thể hiện tấm lòng
bác ái bao la của Người.
Tóm lại, tin vào con người cũng là một biểu hiện của tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh. Có tin tưởng con người, có thấy được khả năng vươn lên
tự cải tạo của họ thì mới có thể dùng người có hiệu quả, mới tạo ra được
sức mạnh của khối đại đoàn kết để hoàn thành sứ mạng cao cả mà lòch sử
đặt lên vai Người. Yêu thương, tin tưởng vào con người chính là nét đẹp

trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
2.3 – Suốt đời vì hạnh phúc của nhân dân:
Đó chính là “ham muốn tột bậc” của Hồ Chí Minh, từ thû ấu thơ,
Người đã chứng kiến bao cảnh lầm than của đồng bào, dân tộc. Ngày còn
là cậu học trò trường Quốc học Huếø, Nguyễn Tất Thành vì tham gia biểu
tình chống sưu cao, thuế nặng ở Trung kỳ mà bò thực dân Pháp truy lùng,
phải bỏ học và ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Suốt đời vì hạnh phúc
con người nhưng đó không phải là sự ban ơn của kẻ bề trên, không chỉ đối
với những nỗi đau tầm thường của con người mà “tầm cao của giá trò tư
tưởng nhân đạo đó là sự giải phóng con người”, vì con người.[1 – 2]. Hồ
Chí Minh luôn có quan niệm “lấy dân làm gốc”, coi quần chúng nhân dân
là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, giúp họ tự đứng lên làm
cuộc cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc và tự giải phóng mình. Ở
mặt này ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh đã kế thừa và sáng tạo từ tuyền
thống đấu tranh của dân tộc và các triết lý, tư tưởng tiến bộ của phương
Đông và của thế giới, nhất là của chủ nghóa Mác – Lênin. Khát vọng giải
phóng con người có từ ngàn xưa, nhưng tìm được con đường đi đúng đắn,
tìm được đường lối chỉ đạo cho khát vọng đó thành hiện thực thì phải đợi
đến khi Nguyễn i Quốc bắt gặp chủ nghóa Mác – Lênin. Lòch sử của dân
tộc ta cho thấy đó cũng là khát vọng của biết bao thế hệ:
Cha ông ta từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khoá
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 15
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
“Văn chiêu hồn” từng thấm giọt mưa rơi…
(Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi – Chế Lan Viên)
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghóa Mác vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, muốn cách mạng thắng lợi thì “đầu tiên là công việc
đối vối con người”, “Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và

văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”[3 – 49],
suốt cuộc đời Người luôn luôn tâm niệm và hưóng về mục tiêu cao cả đó.
“Với Hồ Chí Minh, độc lập của dân tộc phải gắn liền tự do hạnh phúc cho
con người ở những hưởng thụ cụ thể: ăn, mặc, ở, học tập, đi lại, việc làm…
Người nhấn mạnh ý tưởng này ở thư gửi các đồng chí đồng nghiệp của
mình trong guồng máy chính quyền mới (10 – 1945): “Ngày nay chúng ta
đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng nếu độc lập
mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có nghóa lý
gì. Chính phủ ta đã hứa với dân sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần
hạnh phúc …Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta
phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta,
kính ta.”[2 – 638]. Quá trình hoạt động cách mạng của Người luôn hướng
về mục đích cao cả đó là giải phóng nhân dân, giải phóng cho con người,
không phải để ban ơn hay vụ lợi cá nhân mà để sống vì mọi người, vì hạnh
phúc của nhân loại, mặc dù đây là công việc vô cùng khó khăn, gian khổ,
hy sinh. Hồ Chí Minh đã hy sinh cả cuộc đời cho lý tưởng cao đẹp đó,
“nhằm thực hiện được ý tưởng cao đẹp giải phóng con người, đem lại tự do
hạnh phúc cho con người thì phải xây dựng kiến thiết được xã hội không
còn chế độ người bóc lột người. Đó là chế độ xã hội chủ nghóa mà Hồ Chí
Minh và các đồng chí của mình trên bước đường cứu nước đã nhận thức
được và có quyết tâm thực hiện trên quê hương mình. Chế độ xã hội chủ
nghóa không phải do lực lượng nào ban phát cho, nó là sản phẩm của chính
con người – con người mang tố chất xã hội chủ nghóa.” [2 – 647]. Suốt đời
mình Người đã hy sinh hạnh phúc cá nhân cho hạnh phúc chung của mọi
người, cho Tổ quốc. Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng một đại gia đình
Việt Nam mà ở đó mọi người được sống độc lập, tự do, hạnh phúc. Muốn
có một xã hội tốt đẹp như vậy ngoài việc đấu tranh giành độc lập, tự do thì
sau đó “công việc đầu tiên là đối với con người”. “Vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” [11 – 222], Hồ Chí Minh hết
sức chú trọng việc “trồng người”. Bất kỳ một chế độ xã hội nào, muốn tồn

tại và phát triển phải có những lớp người tiên tiến, trung thành với lý tưởng
của cha ông, toàn tâm toàn ý phục vụ cho lợi ích chung của cả cộng đồng.
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 16
Các chế độ xã hội đều xây dựng những mẫu con người lý tưởng của thời
đại mình, chế độ phong kiến đó là các đấng trượng phu, hiền nhân quân tử,
các hiệp só, hay các võ só đạo… Chế độ tư bản là những doanh gia, thương
nhân giàu “nứt đố đổ vách”… Chế độ xã hội chủ nghóa là hình ảnh những
“con người mới”, lấy tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng, cống
hiến, hy sinh cho hạnh phúc chung của giai cấp, của loài người, biết làm
chủ cuộc sống, làm chủ xã hội. nước ta Hồ Chí Minh đã dày công giáo
dục và rèn luyện con người, mỗi giai đoạn của cách mạng nước nhà lại có
một mẫu con người mới xuất hiện. Trong kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1946 – 1954) hình ảnh “Anh bộ đội Cụ Hồ” đã trở thành
con người lý tưởng của thời đại, họ là mẫu người để cho mọi người ngưỡng
mộ, học tập và rèn luyện, những con người ấy đã làm nên những kỳ tích
lòch sử trong kháng chiến chống Pháp và cả chống Mỹ sau này (1965 –
1975), ở miền Nam thời chống Mỹ hình ảnh anh Giải phóng quân hiên
ngang trên tuyến đầu chống Mỹ cũng một thời làm rung chuyển thế giới:
Hoan hô anh Giải phóng quân
Kính chào Anh, con người đẹp nhất!
Lòch sử hôn Anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang, bất khuất trên đời…
…Anh đi xuôi ngược tung hoành
Bước dài như gió lay thành chuyển non. [21 – 432,397]
Hồ Chí Minh là ngưòi mở đường chỉ lối, người lèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam và trên “con thuyền” đo,ù Người đã đào tạo ra nhiều
lớp “thuỷ thủ” xuất sắc, họ chính là mẫu người lý tưởng của một thời đạn
bom, một thời đầy máu lửa, cho đến bây giờ hình ảnh của họ vẫn còn là
tấm gương sáng cho các thế hệ trẻ học tập, nhất là đức hy sinh, một lòng
một dạ cho Tổ quốc, cho lý tưởng.

Hình ảnh con người mới, những con ngưởi lý tưởng của thời đại đã
thể hiện những thắng lợi của cách mạng và thành công to lớn của Hồ Chí
Minh trên con đường đi tìm hạnh phúc cho dân tộc, cho mọi con người.
Không chỉ quan tâm đến những công việc đưa đến những hạnh phúc lớn
lao, Hồ Chí Minh còn quan tâm đến cả những hạnh phúc đời thường vô
cùng giản dò của họ:
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mọi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.[21 – 446]
Có thể nói ở Hồ Chí Minh, cái bình dò, bình thường, cái cao cả và cái
vó đại hoà quyện với nhau, khó phân biệt tách bạch, tất cả đều nằm trong
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 17
một phạm trù duy nhất đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về hạnh phúc con
người.
3 – Bước đầu xác đònh và nêu nhận xét về quá trình phát triển
của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh:
3.1 – Hồ Chí Minh là “tinh hoa, là khí phách của dân tộc Việt Nam”:
Trong Điếu văn của BCH TW Đảng do đồng chí Lê Duẩn đọc khi
vónh biệt Người (9 – 9 – 1969) có đoạn: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông
đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tòch, người anh hùng dân tộc vó đại và chính
Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta” [3 –
54]. Hồ Chí Minh là bậc thiên tài được hun đúc từ khí phách ngàn năm của
dân tộc, ở Người còn có cả tinh hoa của non sông xứ Nghệ và thiên nhiên
tươi đẹp Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đã tiếp thụ đầy đủ và sáng tạo
những tinh hoa văn hoá của nhân loại để hình thành nên trí tuệ và nhân
cách độc đáo.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với nét đặc sắc nhất là quan niệm
mới mẻ về con người, dù là thành phần nào, giai cấp nào, dân tộc nào,
cương vò nào ta cũng thấy Người đề cập và luôn luôn có những đònh hướng
cần thiết cho họ phát triển, hướng thiện. Cái triết lý hay còn gọi là cái đạo

mà Hồ Chí Minh nêu ra chỉ có thể gọi đó là đạo làm người. Đạo ở đây
cũng còn hiểu là đạo đức, đây là những biểu hiện cụ thể của tư tưởng nhân
đạo Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh thể hiện đạo đức của mình trên hai phương
diện: “Đạo đức chính trò và Đạo đức trong lối sống của con người”. [1 –
8]
- Về đạo đức chính trò, ta thấy Hồ Chí Minh trên hành trình cách
mạng đã tìm thấy lý tưởng cho đời mình là con đường đấu tranh giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, đem lại hạnh phúc ấm no cho nhân dân.
Người đã bắt đầu từ chủ nghóa yêu nước để đến với chủ nghóa Mác –
Lênin, hành trình cách mạng đầy gian khổ hy sinh để đưa về vận dụng vào
thực tiễn cách mạng Việt nam là một cuộc trường chinh vó đại của Người.
Đạo đức chính trò ở Hồ Chí Minh là làm chính trò không vụ lợi, chính trò ở
đây là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Làm chính trò không phải
để được là quan, làm quan không phải để “vinh thân phì gia”, mà là để
“phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân”. Đây là một nét hết sức quan
trọng làm nên tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, ngay cả những tình thế cấp
bách nhất trong tính mạng của mình, Hồ Chí Minh cũng chỉ một lòng một
dạ nghó về những mục tiêu cao cả đó:
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.[19 – 437]
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 18
…Sống khác loài người vừa bốn tháng
…May mà:
Kiên trì và nhẫn nại
Không chòu lùi một phân
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần.[19 – 507]
Phải chòu biết bao cực hình và khổ nhục như vậy mà vẫn trung kiên
bất khuất là bởi Hồ Chí Minh xác đònh mục đích của lý tưởng cách mạng
của mình. Phải biết hy sinh chòu đựng chờ thời cơ cách mạng, biết vùng lên

đúng lúc chứ đó không phải là sự cam chòu, đạo đức cách mạng yêu cầu
con người biết hy sinh nhưng nó còn cho thấy sự kiên trì nhẫn nại, biết
chọn thời cơ, biết vùng lên đúng thời điểm, để tránh tổn thất, đạt mục đích
thì đó mới là thứ đạo đức của người cách mạng chân chính, tỉnh táo, sáng
suốt.
- Về đạo đức trong lối sống: “Chiều sâu nhân bản trong triết lý về
con người của Hồ Chí Minh biểu hiện rõ nhất trong luận đề sau:
“ Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết
điểm”. Và “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng”
Cũng như vậy, Người khẳng đònh rằng: “Con người dù xấu, tốt, văn
minh hay dã man đều có tình” (trích theo [1 – 8]). Như vậy cái tình là cái
chiếm ưu thế trong đạo đức lối sống của Hồ Chí Minh, không phải vì cái
tình mà xóa nhòa quan điểm giai cấp của người cộng sản, tình phải kèm
theo lý “có lý có tình”, nhưng cũng không phải vì quan điểm giai cấp mà
quên mất cái tình, truyền thống của dân tộc ta xưa nay vẫn vậy. Như đã
phân tích ở quan điểm của Hồ Chí Minh về con người, ta thấy khát vọng
vươn lên cuộc sống tốt đẹp, hướng thiện là khát vọng vónh cửu của họ, và
cái tình ở đây chính là tính người hay vẫn thường gọi là nhân tính. [1 – 9].
Ta từng bắt gặp nhiều hình ảnh, sự việc rất sinh động minh chứng cho cuộc
sống thanh bạch, giản dò và cái tình rất cao cả của Hồ chí Minh. Viên Ưng,
một nhà văn lớn của Trung Quốc thế kỷ XX đã nhận xét: “Hồ Chí Minh là
một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng”. Di sản mà Hồ Chí Minh để lại cho
các thế hệ mai sau là tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong đó tư tưởng nhân
văn, tư tưởng của cái tình, của lòng nhân ái, yêu thương con người là
những bài học vô giá:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mênh mông áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn. [21 – 416]
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 19

3.2 – Quá trình phát triển tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh:
Sự hình thành và quá trình phát triển tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
có thể thấy nổi bật ở ba giai đoạn trong suốt cuộc đời đầy sóng gió và vinh
quang của Người:
3.2.1 – Thời kỳ là anh thanh niên Nguyễn Tất Thành (1890 – 1911),
Người đã tiếp thụ được lòng nhân ái bao dung từ bà mẹ nghèo làm ruộng,
dệt vải Hoàng Thò Loan, từ những lời ru ầu ơ, đến những điệu ví dặm, câu
hò ở người mẹ và những người dân xứ Nghệ, từ những bài học về lòng độ
lượng và tấm gương học tập nghiêm túc của nhà Nho Nguyễn Sinh Sắc,
thân phụ của Người. Đây có thể gọi là thời kỳ “ẩn nhẫn nấp náu”, thời kỳ
chuẩn bò tiềm lực tinh thần cho con chim đại bàng sắp sửa tung cánh bay
cao, bay xa. Tư tưởng nhân văn đó chính là lòng yêu kính cha mẹ, ông bà,
anh em ruột thòt, quê hương, gia đình mà nguồn gốc sâu xa là truyền thống
dân tộc cộng với những nét đẹp của tư tưởng Nho giáo “trai thì trung hiếu
làm đầu”. giai đoạn này ta thấy “trung, hiếu” của Nho giáo đã có
những biến đổi về khái niệm trong quan niệm của Nguyễn Tất Thành.
Trong chữ “hiếu” đã bao hàm nghóa của chữ “trung” một sự kiện trong
cuộc đời của hai cha con Người còn được kể lại: đầu năm 1911, sau khi
“treo ấn từ quan” cụ Nguyễn Sinh Sắc vào Sài Gòn làm nghề bốc thuốc trò
bệnh cứu người, Nguyễn Tất Thành từ trường Dục Thanh (Phan Thiết) vào
tìm gặp, cụ đã nói với con trai, đại ý: nước đã mất, dân lầm than, anh còn
đến tìm ta làm gì nữa. Đây chính là động lực lớn lao để Nguyễn Tất Thành
quyết chí ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước. Trong lời dạy của cụ Phó
bảng, trung - hiếu chỉ là một. Trung là trung với nước, là phải tìm cách cứu
nước nhà khỏi họa thực dân. Muốn tỏ lòng hiếu với cha thì phải tìm cách
cứu dân, cứu nước. Rõ ràng hai chữ “trung hiếu” của Nho giáo đã thay đổi
về nội hàm của nó. Một điều nữa tác động lớn đến nhận thức của Nguyễn
Tất Thành là thực tiễn sinh động của đơiø sống xã hội Việt Nam trong phần
đầu thế kỷ XX, một xã hội thực dân nửa phong kiến với sự cai trò hà khắc,
tàn bạo của thực dân Pháp; với sự bóc lột thậm tệ của bọn đòa chủ và cuộc

sống bần cùng của những kiếp người nô lệ … thực tiễn xã hội vơí những nỗi
khổ đau của người dân nô lệ, cảnh quan trường hỗn loạn, vua tôi bất lực và
bám gót thực dân bán rẻ Tổ quốc, rồi những cuộc khởi nghóa thất bại,
những chí só bậc cha anh bế tắc trên con đường cứu nước đã tác động sâu
sắc đến tình cảm, tư tưởng của Người, thôi thúc Người ra đi tìm con đường
đúng đắn nhất để cứu nước cứu nhà. Người lòng yêu nước, ý thức về đất
nước, dân tộc, nhân dân đã hình thành cơ sở cho tư tưởng nhân văn, nhân
đạo cao cả.
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 20
3.2.2 – Thời kỳ Nguyễn i Quốc bôn ba ở nước ngoài (1911 – 1941)
có tác động to lớn trong quá trình đònh hướng tư tưởng nhân văn, quá trình
bổ sung tính giai cấp, tính cách mạng trong tư tưởng đó. Hành trình đi để
thấy “bọn thực dân ở đâu cũng tàn ác như nhau, người nô lệ đâu cũng khổ
như nhau”, Người tìm hiểu về các cuộc cách mạng trên thế giới, chọn
đường lối đúng đắn, thích hợp nhất cho cách mạng nước nhà. Người tham
gia vào phong trào cách mạng và công nhân Pháp để rồi từ đó Người bắt
gặp chủ nghóa Mác – Lênin (1920). Đây là giai đoạn tìm tòi học hỏi bổ
sung lý luận nhận thức vô cùng quan trọng, tạo bước phát triển đột phá về
những quan niệm và mở rộng phạm vi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Người thâm nhập vào thực tiễn của phong trào công nhân, trực tiếp làm
người lao động bình thường để vừa lo những nhu cầu thiết yếu của đời
sống cá nhân, nhưng quan trọng hơn là để có điều kiện hiểu sâu về bản
chất của cuộc sống, của xã hội ngay từ trong lòng xã hội tư bản. Người
không chỉ hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân và
các dân tộc bò áp bức, Người còn tìm hiểu, học hỏi được những điều sâu
sắc của những tư tưởng văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng ở Phương
Tây. Người đọc các tác phẩm của nhiều nhà văn, nhà tư tưởng vó đại như
Ban – dắc, Huy – gô, Tônxtôi, Người tự nhận mình chỉ là “người học trò
của nhà văn Nga (Tônxtôi) vó đại”. Đây là những điều kiện vô cùng quan
trọng và cần thiết để Hồ Chí Minh đến với chủ nghóa Mác – Lênin, và

đònh hình phong cách tư tưởng nhân văn. Trong nhiều nét phong cách tạo
thành tư tưởng đó thì tự do là điều mà Người luôn luôn quan tâm. Tự do ở
Phương Tây như là một biểu tượng của giai cấp tư sản, nhưng “đối với Hồ
Chí Minh, độc lập, tự do cho các dân tộc bò áp bức là nội dung qua trọng
hàng đầu, là mục tiêu chiến lược quan trọng nhất trong tư tưởng của Người
với thế giới chứ không phải tự do cá nhân đơn thuần theo quan điểm dân
chủ tự do tư sản” [2 – 935,936]. Có thể khẳng đònh đây là thời kỳ bổ sung
lý luận quan trọng nhất về chủ nghóa yêu nước, tư tưởng nhân văn của Hồ
Chí Minh, vừa thâm nhập thực tiễn cách mạng ở nước ngoài, vừa học tập
tìm hiểu thông qua các học thuyết nổi tiếng của các nhà văn hóa Phương
Tây, đặc biệt là chủ nghóa Mác – Lênin. Đối với Hồ Chí Minh độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghóa xã hội mà mục tiêu cao cả nhất là mang lại
hạnh phúc cho đồng bào, đưa lại những quyền cơ bản nhất cho con người
đấy mới là nội dung quan trọng nhất của tư tưởng nhân văn, thời kỳ này
Người đang chuẩn bò mọi tiềm lực cho lý luận để sau này khi về nước vận
dụng nó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 21
3.2.3 – Thời kỳ Hồ Chí Minh với những thắng lợi của cách mạng
Việt Nam (1941 – 1969) là thời kỳ vó đại nhất trong cuộc đời cách mạng
sôi nổi của Người. Tấm lòng yêu nước thương dân của Người thể hiện từ
những hình ảnh sinh động và cao cả: “Xa nước ba mươi năm một câu Kiều
Người vẫn nhớ”, “Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất/ Lắng nghe trong
màu hồng hình đất nước phôi thai” (Chế Lan Viên). Đây là giai đoạn tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được biểu hiện cụ thể, đa dạng và sinh động.
Sau khi về nước, thành lập mặt trận Việt Minh, chuẩn bò cho cuộc khởi
nghóa vũ trang sau này, Người sang Trung Quốc nhằm liên hệ với Đảng
cộng sản đế liên minh chống phát xít Nhật thì bò chính quyền Tưởng Giới
Thạch bắt giam. “Mười bốn trăng tê tái gông cùm”[21 – 459] nhưng đã thể
hiện một nhân cách Hồ Chí Minh. Đọc Nhật ký trong tù của Người ta thấy
Bác là bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng” (Viên Ưng), bậc “đại nhân” ấy đã

tỏ lòng cảm thông, yêu thương những con người cùng khổ, thể hiện một
tinh thần quốc tế trong sáng và cao cả. Năm 1945 khi lãnh đạo toàn dân
giành được độc lập, Người viết bản Tuyên ngôn nổi tiếng khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, “Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao
nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hy sinh của những người con anh
dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo
xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết
quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu
nhân dân Việt Nam”[24 – 56,57]. Có thể nói đây là tác phẩm biểu hiện
cao nhất cho tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Khát vọng độc lập cho dân
tộc đã được thực hiện, Người đã đưa dân tộc ra khỏi cảnh lầm than. Hành
trình xây dựng một nước Việt Nam mới là hành trình còn nhiều gian khổ,
cam go, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác cách mạng Việt nam đã
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Mỗi thời kỳ như vậy ta thấy xuất
hiện những nội dung mới trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Thời kỳ
giành, giữ độc lập, kháng chiến chống thực dân Pháp, tư tưởng nhân văn
thể hiện trong khẩu hiệu mà Người nêu ra: “diệt giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm”, đói và dốt cũng là những thứ giặc nguy hiểm mà ta phải tiêu
diệt chúng để cứu quốc gia đồng bào, yêu thương đồng bào là lo lắng cho
đồng bào ở cả những điều tưởng như nhỏ nhặt nhất như dạy chữ cho mọi
người, phong trào “Bình dân học vụ” chính là cứu con người ra khỏi sự dốt
nát. Kháng chiến và kiến quốc là mục tiêu cao cả của dân tộc ta lúc bấy
giờ và cũng là của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Trong kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1975), là thời kỳ nước ta, dân
tộc ta đã có vò thế trên chính trường Quốc tế. Vì vậy cả thế giới hướng về
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 22
Việt nam. Hồ Chí Minh đã là lãnh tụ nổi tiếng thế giới, thế nhưng ta vẫn
thấy cuộc sống của Người thật giản dò. Người đã mở rộng tầm quan hệ
quốc tế, coi nhân dân lao động, nhân loại tiến bộ là bè bạn “Quan san
muôn dặm một nhà/ Bốn phương vô sản đều là anh em”, yêu thương con

người nhưng Hồ Chí Minh cũng rất cương quyết với kẻ thù của dân tộc và
của nhân loại. Trước những diến biến ngày càng phức tạp của thế giới, Hồ
Chí Minh một mặt chèo lái con thuyền cách mạng, mặt khác kiên đònh lập
trường chính trò và lập trường nhân văn của mình. Vừa chống Mỹ vừa xây
dựng Chủ nghóa xã hội ở miền Bắc, nhưng Hồ Chí Minh vẫn quan tâm đến
con người, Người đã có những dự cảm thiên tài về tình hình cách mạng thế
giới nên Người hết sức chú trọng trong việc giáo dục rèn luyện những lớp
người kế tục. Trong Di chúc để lại Người nói nhiều về việc giáo dục, đào
tạo con người mới, nhất là thế hệ trẻ: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Tư tưởng nhân văn của
Người thể hiện một tầm cao mới đó là quan tâm đến tương lai của đất
nước của dân tộc và cả thời đại. “Bởi vậy, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
là đỉnh cao của chủ nghóa nhân đạo cao cả của dân tộc Việt Nam ở mọi
thời đại”[1 – 26].
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 23
CHƯƠNG HAI
NHẬN THỨC VỀ TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH QUA
MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC CỦA NGƯỜI
1 – Biểu hiện của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh qua các tác
phẩm văn xuôi:
Ngay từ thû thiếu thời, Hồ Chí Minh đã tâm đắc hai câu thơ của
Viên Mai mà thân phụ Người vẫn thường đọc:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thò văn chương
(Khuya sớm những mong ghi sử sách
Lập thân hèn nhất ấy văn chương)
Người xưa thường quan niệm muốn lập thân mưu danh lợi thì lấy văn
chương khoa cử làm con đường duy nhất. Nhưng mưu danh lợi mà quên
mất trách nhiệm của mình trước hoàn cảnh của non sông Tổ quốc thì đó là
điều đáng trách. Hồ Chí Minh cũng không coi văn chương chỉ có ý nghóa

thù tạc, nhàn tản ngâm ngợi khi trà dư tửu hậu, mà Người còn thấy được
vai trò to lớn của văn chương trong việc tác động đến tư tưởng tình cảm
của con người. Lòch sử đã đặt lên vai Người sứ mạng lớn lao là tìm đường
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, đem độc lập tự do cho dân tộc,
hạnh phúc cho đồng bào. Trên hành trình cứu nước ấy Hồ Chí Minh sớm
nhận thấy vai trò to lớn của văn chương nghệ thuật, nó là vũ khí sắc bén
của cách mạng và người nghệ só cũng phải là một chiến só luôn luôn mang
tinh thần tiến công cách mạng. Người đã am hiểu một cách sâu sắc những
đặc trưng và quy luật của sáng tạo nghệ thuật, lấy quan điểm cách mạng
của hệ tư tưởng vô sản làm phương hướng nhận thức và sáng tạo. Hành
trình học hỏi đã tạo cho Người một vốn tri thức uyên bác, tiếp thụ sâu sắc
những tinh hoa của nhiều nền văn hoá từ Đông sang Tây, với một tâm hồn
giàu cảm xúc yêu thương và luôn luôn bừng sáng vẻ đẹp của trí tuệ, lại
luôn luôn thiết tha với vẻ đẹp của cuộc sống và nghệ thuật, nên ngay từ
những tác phẩm đầu tay của mình Người đã mang đến những phẩm chất
cao đẹp của một chất lượng sáng tạo mới.
Hoạt động văn học chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ sự nghiệp lớn
lao mà Hồ Chí Minh đã cống hiến cho dân tộc, nhưng đáng quý biết bao
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 24
khi qua từng tác phẩm ta thấy được không khí của thời đại với những hình
ảnh tiêu biểu, “đặc biệt trong từng tác phẩm đều in lại đậm nét và rất tâm
huyết tấm lòng của Người với non sông đất nước, với quần chúng nhân
dân, đều toát lên một tâm hồn cao thượng, một trí tuệ sáng suốt và kiên
nghò.” [18 – 9]. Hoạt động văn học của Hồ Chí Minh gần như song hành
với hoạt động cách mạng, và Người cũng coi nó như là một bộ phận của
hoạt động cách mạng. Trong suốt hơn nửa thế kỷ Người đã để lại một di
sản khá đồ sộ về văn học, trong đó nhiều tác phẩm được coi là mẫu mực.
Toàn bộ các tác phẩm của Người đều toát lên một vấn đề quan trọng là
Người hết sức chú ý về nội dung phản ánh. Trong đó cảm hứng lớn nhất là
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ

các sáng tác của Người. Hạt nhân của cảm hứng này cũng chính là tư
tưởng nhân văn. Nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ Hồ Chí Minh trước hết là
một chiến só cách mạng, đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập tự do của
dân tộc và giai cấp. Khi một số người gọi Bác là nhà văn, Người nói: “gọi
tôi là nhà tuyên truyền, tôi cũng không tranh cãi, nhà cách mạng chuyên
nghiệp là đúng nhất” [19 – 619]. Nói như nhà phê bình văn học Hoài
Thanh: “Bác Hồ không tự coi mình là nhà thơ nhưng trên con đường hoạt
động cách mạng, Người đã lỡ tay đánh rơi vào kho tàng văn học của nước
nhà một viên ngọc quý”. Hành trình hoạt động văn học của Người bắt đầu
từ những năm hai mươi của thế kỷ XX với những tác phẩm tố cáo mạnh
mẽ trước công luận những tội ác của chủ nghóa thực dân Pháp như : Bản án
chế độ thực dân Pháp, Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương, Nhật
ký chìm tàu, Con người biết mùi hun khói, Vi hành, Những trò lố hay Varen
và Phan Bội Châu… Các tác phẩm trên đã lên án một cách mạnh mẽ, sâu
sắc từng mặt, từng vấn đề về những tội ác tàn bạo, những trò bóc lột thậm
tệ của chủ nghóa thực dân, của bọn đế quốc đối với nhân dân các nước
thuộc đòa …, bên cạnh đó ta còn thấy toát lên một tinh thần sôi sục đấu
tranh của một ngòi bút luôn luôn đặt mục đích cách mạng cho các sáng tác
của mình. Mặc dù thể hiện nhiều phong cách khác nhau nhưng ta cũng
thấy nổi bật trong những trang viết đó một tấm lòng nhân ái, biểu hiện một
triết lý nhân văn sâu sắc. Những tác phẩm chính luận của Người đã thể
hiện những tư tưởng cách mạng của thời đại mới của giai cấp vô sản và
dân tộc. Nhiều tác phẩm mang tính đả kích châm biếm sâu cay kẻ thù và
bọn vua quan bù nhìn (Vi hành) nhưng ẩn đằng sau cái cười chua xót đó là
lòng nhân hậu, yêu thương đồng bào. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp Người viết năm 1925 tại Pari, đây không chỉ là tác phẩm có giá trò
lớn về tư tưởng, chính trò, văn học mà còn có giá trò nhân văn. Việc lên án
ĐTKH - HƯỚNG - 2012 25

×