Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

chương 6: Sinh lí hô hấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 86 trang )

Sinh lí người và động vật – Chương 6
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA SINH HỌC
BÀI THUYẾT TRÌNH
MÔN : SINH LÍ NGƯỜI VÀ ĐỘNG VẬT
LỚP - 01
CHƯƠNG VI: SINH LÍ HÔ HẤP
Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Giang An
Sinh viên thực hiện : Đặng Thị Tuyết 0853020803
Trần Thị Tuyển 0853025319
Lớp : 49 B- SINH
Vinh, tháng 3 năm 2011
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
1
Sinh lí người và động vật – Chương 6
KẾT CẤU TRÌNH BÀY
1. Cơ quan hô hấp
2. Ý nghĩa và sự phát triển tiến hóa của hệ hô hấp
3. Sơ lược cấu tạo hệ hô hấp
4. Cử động hô hấp, tần số hô hấp, thông số hô hấp
5. Cơ chế trao đổi khí ở phổi và ở tế bào
6. Sự vân chuyển khí trong máu
7. Điều hòa hoạt động hô hấp
8. Các bệnh đường hô hấp?
9. Tác hại của thuốc lá.
10. Biện pháp vệ sinh
I. CÁC KIỂU CƠ QUAN HÔ HẤP
Cơ quan hô hấp được sử dụng bởi hầu hết, hoặc tất cả các loài
Động vật để chuyển đổi loại khí cần thiết cho cuộc sống (được gọi là
sự hô hấp). Những cơ quan đó tồn tại dưới nhiều hình thức như:
 Bề mặt hô hấp: một số thủy sinh, hay động vật sống trên mặt


đất (một số loài nhện và rận , ví dụ) có thể hít thở một cách đơn
giản bằng cách trao đổi khí qua bề mặt của cơ thể.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
2
Sinh lí người và động vật – Chương 6
 Mang : nhiều thủy sinh, động vật sử dụng mang để thở. Ngay cả
các động vật trên mặt đất cũng có thể làm được điều này, như
với các loài mọt có thể tìm thấy được dưới những tảng đá trong
sân nhà. Mang chỉ đơn giản là lớp tế bào điều chỉnh một cách
cụ thể để trao đổi khí một cách phù hợp.Mang phụ: một số loài
nhện, bọ cạp, và vài loài chân khớp vẫn dùng mang phụ. Mang
phụ, chủ yếu là mang được điều chỉnh cho sử dụng trên đất,
trong quá trình hô hấp của chúng. Chúng là những tế bào đơn
giản, với nhiều vết nhăn để tăng diện tích bề mặt.
 Hệ thống ống khí: ống phát triển của nhiều loài chân khớp, có
thể từ mang phụ, mà đơn giản chỉ dẫn trực tiếp vào các cơ quan
thông qua các lỗ được gọi là lỗ mang, nơi mà các cơ quan nội
bộ tiếp nhận với không khí. Chúng có thể rất đơn giản, như là
với một số loài nhện, hoặc phức tạp hơn, kết thúc bằng một cái
túi khí phức tạp, như với nhiều côn trùng.
 Phổi: phổi được tạo bởi các mô cơ, các tế bào bên trong phổi
thu oxy trong không khí và chuyển nó vào trong máu qua mao
mạch và thải khí carbon dioxide ra.
II. Ý NGHĨA VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TIẾN HÓA HỆ HÔ HẤP
1. Bề mặt cơ thể
Các động vật đòi hỏi một sự cung cấp oxy liên tục cho sự hô
hấp tế bào cũng như cần phải phóng thích CO2 là sản phẩm thải của
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
3
Sinh lí người và động vật – Chương 6

quá trình nầy. Sự trao đổi khí giúp cho quá trình chuyển hóa của sự hô
hấp tế bào bằng cách cung cấp O2 và thải CO2.
Nguồn dự trử oxy chính của trái đất là khí quyển (khoảng
21%). Biển, sông và các nguồn nước khác cũng có chứa oxy dưới
dạng oxy hòa tan. Nguồn oxy gọi chung là môi trường hô hấp
(respiratory medium), là không khí cho động vật ở cạn và là nước cho
động vật thủy sinh. Trên cơ thể động vật, bộ phận để cho O2 từ môi
trường ngoài khuếch tán vào tế bào và CO2 khuếch tán ra khỏi tế bào
được gọi là bề mặt hô hấp (respiratory surface). Vì tất cả các tế bào
sống đều được bao bởi một lớp nước nên bề mặt hô hấp của các động
vật phải ẩm ướt để O2 và CO2 có thể khuếch tán qua chúng sau khi đã
hòa tan trong nước. Ðồng thời, bề mặt hô hấp cũng phải đủ lớn để
cung cấp O2 và phóng thích CO2 cho toàn bộ cơ thể.
Ở động vật, vấn đề cung cấp một bề mặt hô hấp đủ lớn phụ
thuộc chủ yếu vào kích thước cơ thể và môi trường sống của chúng (ở
nước hay ở cạn). Sự trao đổi khí xảy ra trên toàn bộ bề mặt cơ thể của
nguyên sinh động vật và các động vật đơn bào khác. Tương tự, ở một
số động vật như ruột khoang, giun dẹp, màng nguyên sinh của mỗi tế
bào trong cơ thể tiếp xúc với môi trường ngoài, cung cấp đủ bề mặt hô
hấp. Tuy nhiên, ở nhiều động vật do toàn bộ cơ thể không tiếp xúc
trực tiếp với môi trường hô hấp nên bề mặt hô hấp là một lớp tế bào
biểu mô ẩm phân cách môi trường hô hấp với máu hoặc mao mạch.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
4
Sinh lí người và động vật – Chương 6
Một số động vật dùng lớp da bên ngoài như một cơ quan hô
hấp. Chẳng hạn giun đất có lớp da ẩm và trao đổi khí bằng cách
khuếch tán qua bề mặt cơ thể. Ngay bên dưới lớp da là một mạng lưới
mao mạch dầy đặc. Vì bề mặt hô hấp cần được duy trì ẩm, giun đất và
nhiều động vật thở bằng da (bao gồm cả lưỡng thê) phải sống trong

môi trường nước hoặc những nơi ẩm thấp. Phần lớn những động vật
hô hấp bằng da thường tương đối nhỏ và cơ thể thường có dạng mỏng,
dài hoặc dẹp, nhờ đó bề mặt hô hấp tăng lên
Ðối với hầu hết các động vật khác, bề mặt cơ thể nói chung
thiếu những vùng thích hợp để trao đổi khí cho toàn bộ cơ thể. Ở các
động vật nầy, một vùng của bề mặt cơ thể được tăng cường các nếp
gấp hoặc phân nhánh, do đó làm tăng diện tích cần cho sự trao đổi khí.
Phần lớn động vật thủy sinh bề mặt hô hấp được mở ra ngoài và tiếp
xúc với nước, tạo thành mang. Ngược lại, các động vật ở cạn lại có bề
mặt hô hấp bên trong cơ thể, thông với khí quyển qua một hệ thống
ống phân nhánh. Ống khí của côn trùng và phổi của động vật có
xương sống là hai dạng của kiểu bề mặt hô hấp.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
5
Sinh lí người và động vật – Chương 6
2. Mang
Mang là phần uốn cong ra ngoài của bề mặt cơ thể được chuyên
hóa cho sự trao đổi khí. Ở một số động vật không xương sốngnhư sao
biển, mang có hình dạng đơn giản và được phân bố gần như trên toàn
bộ cơ thể. Nhiều loài giun đốt có các mang mở ra từ mỗi đốt thân
hoặc các mang hình lông chim tập hợp thành đám ở đầu hoặc đuôi.
Mang của sò, tôm và nhiều động vật khác được giới hạn ở một vùng
của cơ thể và tổng bề mặt của mang lớn hơn nhiều so với bề mặt của
những phần còn lại trong cơ thể.
Nước là môi trường hô hấp vừa có những thuận lợi, vừa
có những bất lợi. Thuận lợi vì mang hoàn toàn được bao quanh bởi
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
6
Sinh lí người và động vật – Chương 6
môi trường nước nên không có vấn đề trong việc giữ cho màng của bề

mặt hô hấp luôn luôn ẩm. Bất lợi vì nồng độ oxy hòa tan trong nườc
thấp hơn nhiều so với oxy có trong không khí và khi nước càng ấm,
càng có nhiều muối thì càng có ít oxy hòa tan. Vì vậy cần phải có sự
thông khí (ventilation) mang mới nhận đủ oxy từ nước.
Ở cá xương, mang được thông khí liên tục bởi một dòng nước
liên tiếp đi vào miệng, thông qua khe ở hầu, thổi qua mang và sau đó
thoát ra ở phía sau của nắp mang. Vì nước có ít oxy trên một đơn vị
thể tích hơn không khí nên cá phải dành một số năng lượng nhất định
cho sự thông khí ở mang.
Sự sắp xếp các mao mạch trong mang cá cũng tăng cường sự
trao đổi khí. Máu chảy theo hướng ngược với hướng nước chảy qua
mang. Phương thức nầy làm cho oxy được chuyển vào máu bởi một
quá trình rất hiệu quả gọi là sự trao đổi ngược dòng (countercurrent
exchange). Khi máu chảy ngang qua mao mạch, nó càng lúc càng tải
nhiều oxy do nước có oxy hòa tan liên tục chảy qua mang. Ðiều này
có nghĩa là dọc theo toàn bộ chiều dài của mao mạch có một gradient
khuếch tán phù hợp cho sự chuyên chở oxy từ nước vào máu. Cơ chế
trao đổi ngược dòng nầy có hiệu quả đến mức mang có thể lấy hơn
80% oxy hòa tan trong nước đi ngang qua bề mặt hô hấp.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
7
Sinh lí người và động vật – Chương 6
Hệ thống trao đổi ngược dòng ở các lá mang cá
3. Hệ thống ống khí
Môi trường hô hấp là không khí có nhiều thuận lợi, không chỉ
vì có một lượng lớn oxy mà còn vì CO2 và CO2 khuếch tán nhanh
hơn, bề mặt hô hấp bộc lộ trong không khí nên không cần sự thông
khí. Khi động vật tiến hành thông khí, chúng cần ít năng lượng vì
không khí được vận chuyển dễ dàng hơn nước. Tuy nhiên do bề mặt
hô hấp lớn và ẩm nên chúng sẽ liên tục mất nước do sự bốc hơi. Vì

vậy trong môi trường không khí bề mặt hô hấp thường được cuộn vào
trong cơ thể. Hệ thống ống khí của côn trùng là một dạng của bề mặt
hô hấp nầy.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
8
Sinh lí người và động vật – Chương 6
Hệ thống ống khí của côn trùng
Ống khí (trachea) là một hệ thống ống phân nhánh khắp cơ thể
côn trùng. Các ống nhỏ nhất tiếp xúc với bề mặt của hầu hết các tế
bào, nơi đây khí được trao đổi bởi sự khuếch tán qua lớp biểu mô ẩm
lót ở đầu tận cùng của hệ thống ống khí. Vì tất cả các tế bào của cơ
thể đều bộc lộ trong môi trường hô hấp nên hệ tuần hoàn mở của côn
trùng không tham gia vào việc vận chuyển O2 và CO2.
Ðối với các côn trùng nhỏ, chỉ riêng sự khuếch tán cũng đủ để
chuyển O2 từ không khí vào hệ thống ống khí và thải O2 ra ngoài.
Những côn trùng lớn thường cần nhiều năng lượng hơn để thông khí
cho hệ thống ống khí nhờ chuyển động nhịp nhàng của cơ thể để đóng
và mở các ống khí. Một côn trùng khi bay thường có tốc độ trao đổi
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
9
Sinh lí người và động vật – Chương 6
chất cao, tiêu thụ O2 gấp 10 đến 100 lần so với lúc nghỉ ngơi vì vậy
các tế bào cơ cánh có rất nhiều ti thể.
Ống khí và phổi
4. Phổi
Ngược với hệ thống ống khí được phân nhánh khắp cơ thể côn
trùng, phổi chỉ được giới hạn trong một vùng. Vì bề mặt hô hấp của
phổi không tiếp xúc trực tiếp với tất cả các phần khác của cơ thể nên
cần hệ tuần hoàn chuyên chở O2 từ phổi đến các phần còn lại của cơ
thể. Phổi có một mạng lưới dầy đặc các mao mạch nằm ngay dưới lớp

biểu mô tạo thành bề mặt hô hấp.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
10
Sinh lí người và động vật – Chương 6
Ở phần lớn lưỡng thê, phổi như một quả bóng, không cung cấp
một bề mặt hô hấp lớn nhưng ngoài phổi, lưỡng thê còn nhận được O2
từ sự khuếch tán qua da. Ngược lại, phổi của thú có một cấu trúc xốp
và có hình tổ ong với một biểu mô ẩm giữ vai trò bề mặt hô hấp. Tổng
bề mặt của mô đủ để trao đổi khí cho toàn bộ cơ thể .
Tiến hóa của phổi động vật có xương sống
 Phổi của người
Phổi người nằm trong xoang ngực, được bao bởi một túi có
màng đôi. Lớp màng trong của túi dính chặc với phía ngoài của phổi
và lớp màng ngoài dính vào thành của xoang. Hai lớp màng nầy được
phân cách bởi một khoảng hẹp chứa đầy dịch. Do sức căng bề mặt, hai
lóp nầy có thể trượt lên nhau nhưng không thể tách ra.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
11
Sinh lí người và động vật – Chương 6
Không khí đi vào phổi qua một hệ thống ống phân nhánh.
Khí đi vào hệ thống nầy qua mũi, chúng được lọc bởi các lông mũi,
được sưởi ấm, làm ẩm ướt khi đi qua xoang mũi. Xoang mũi dẫn vào
hầu (pharynx) rồi đến thanh quản (larynx) có vách bằng sụn. Ở người
thanh quản còn là cơ quan phát âm.
Từ thanh quản, không khí đi ngang qua khí quản
(trachea). Khí quản được duy trì hình dạng nhờ các vòng sụn (hình
chữ C). Khí quản phân nhánh thành 2 phế quản (bronchi), mỗi phế
quản đi về một phổi. Trong phổi, phế quản phân nhánh nhiều lần
thành các ống nhỏ hơn gọi là tiểu phế quản (bronchioles). Lớp biểu
mô bên trong các phế quản được bao phủ bởi các tiêm mao và một lớp

màng nhầy mỏng. Chất nhầy giữ bụi, hạt phấn và các chất bẩn khác,
nhờ chuyển động của tiêm mao đẩy chất nhầy xuống yết hầu, tại đây
chúng được nuốt vào thực quản. Quá trình nầy giúp làm sạch hệ hô
hấp.
Cuối cùng các phế quản nhỏ nhất đi vào các phế nang (aveoli).
Lớp biểu mô mỏng của hàng triệu phế nang trong phổi giữ vai trò như
một bề mặt hô hấp. O2 trong không khí đi vaò phế nang theo đường
hô hấp sẽ hòa tan trong lớp màng ẩm và khuếch tán qua biểu mô đi
vào lưới mao mạch chung quanh các phế nang. CO2 khuếch tán từ các
mao mạch qua biểu mô của phế nang rồi đi vào không khí.

Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
12
Sinh lí người và động vật – Chương 6
 Sự hình thành và phát triển hệ hô hấp của thai nhi
Sau bốn tuần lễ trứng được thụ tinh và hình thành phôi phôi thai
lúc này sẽ hình thành 3 lớp khác nhau, lớp bên trong được gọi là lớp
nội bì, sẽ phát triển thành gan, phổi, và bộ máy tiêu hóa của bé. Đây
được coi là dấu mốc đánh dấu sự ra hình thành rõ rệt của bộ máy hô
hấp của bé. Những bộ phận khác nhau của hệ hô hấp như vùng mũi
họng hầu, đường dẫn khí, cơ hô hấp, lồng ngực và phổi của bé có quá
trình hình thành và phát triển khá riêng biệt.
1. Vùng mũi, họng, hầu
Được hình thành rõ nét vào tuần thứ 6 của thai kỳ, và đến tuần
thứ tám thì có thể quan sát thấy chóp mũi của bé. Tuy nhiên, trong
suốt thai kỳ, mũi của bé chưa hoàn thiện hẳn, mà phát triển dần theo
tuổi. Đến tháng thai kỳ cuối cùng, mũi của bé cũng còn rất ngắn và
nhỏ do xương mặt chưa phát triển, và khi chào đời bé chỉ mới thở
mũi, không thở miệng được. Xoang hàm cũng hình thành vào những
tháng cuối của thai kỳ, nhưng rất hẹp, sau rộng dần ra trước và 2 bên

nhờ cột sống cổ uốn cong dần, kết hợp với sự phát triển xương sọ mặt.
Niêm mạc và hệ bạch huyết khi ở trong bụng mẹ còn rất mỏng, thanh
quản hình thành nhưng lòng hẹp và rất mềm.
2. Đường dẫn khí
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
13
Sinh lí người và động vật – Chương 6
Ở tuần lễ thứ 10, tất cả các cơ quan nội tạng của bé hầu như đã
được hình thành đầy đủ và bắt đầu hoạt động một cách nhịp nhàng với
nhau. Não bộ phát triển với tốc độ rất nhanh vào tuần lễ này, có
khoảng 250.000 tế bào thần kinh mới được sản sinh ra mỗi một phút!
Khi những thay đổi bên ngoài diễn ra như sự tách biệt rõ ràng của các
ngón tay và các ngón chân và đoạn cuối của sống lưng biến mất, thì
các thay đổi bên trong cũng đang diễn ra cùng lúc. Các mầm răng bên
trong miệng cũng được hình thành, và đường dẫn khí trong hệ hô hấp
được hoàn thiện. Từ khí quản đến phế nang của bé hình thành rõ 23
lần phân nhánh, tiểu phế quản được tính thừ lần phân nhánh thứ 20.
Từ lần phân nhánh thứ 17 ( tiểu phế quản hô hâp) mới có chức năng
trao đổi khí, trước đó chỉ có chức năng dẫn khí. Hệ cơ trơn đuờng dẫn
khí chịu tác động trực tiếp của Adrenalin và nor- adrenaline trong máu
gây giãn phế quản. Hệ thần kinh phó giao cảm tác động thông qua dây
X gây co cơ trơn. Các kích thích phó giao cảm bao gồm khói bụi, xúc
động… Atropin ức chế phó giao cam gay giãn phế quản. Đường dẫn
khí từ phế quản đến ống phế nang tăng dần về đường kính mô đàn hồi,
cùng với sự xuất hiện của những vòng có trơn, xung quanh đường dẫn
khí làm cho kháng lực ngày càng giảm. Vòng sụn nhỏ dần và biến mất
ở các tiểu phế quản. Cấu tạo từ nay chỉ là những vòng cơ trơn, càng
xuống dưới chỉ còn vài sợi cơ trơn mỏng. Từ đoạn này trở đi, đường
dẫn khí được mở thông qua áp lực làm mở phế nang nên rất dể bị xẹp.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh

14
Sinh lí người và động vật – Chương 6
3. Cơ hô hấp - lồng ngực
Tuần lễ thứ 5 người mẹ mang thai, khi lồng ngực của bé nhô rõ,
che chắn cho tim. Sang tuần thứ 6, khi bộ máy hô hấp hình thành rõ
nét hơn, nếu siêu âm đã nhận ra tim thai bắt đầu đập, hệ hô hấp của bé
bắt đầu có dấu kết nối với nhau thai của mẹ. Đến tuần thứ 7, bé đã có
thể thực hiện hô hấp và thải những chất bẩn của bé ra ngoài túi ối.
Đến tuần thứ 13 thai kỳ, khi bánh nhau thai phát triển cung cấp oxy
cho thai nhi, bé đã bắt đầu có những dấu hiệu rõ nét thực hiện hô hấp,
và lúc này, cơ hô hấp đã có cơ chết hoạt động. Số lượng sợi cơ và hệ
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
15
Sinh lí người và động vật – Chương 6
võng nội cơ tương (sarcoplasmic reticulum) vẫn còn tiếp tục phát triển
sau khi bé ra đời. Từ tuần 24 đến 32 của thai kỳ, mặc dù bé vẫn nhận
được lượng oxy từ bánh nhau, nhưng phổi của bé sẽ chỉ bắt đầu hoạt
động để tự nhận oxy ngay sau khi bé được sinh ra. Để chuẩn bị cho
cuộc sống bên ngoài sau này, phổi bé đã bắt đầu sản xuất ra chất
surfactant.Các cơ hô hấp và lồng ngực tiếp tục được hoàn thiện cho
đến khi bé ra đời. Nếu trẻ sinh non, cơ hòanh rất mau “ mệt” do hệ
võng nội cơ tương chưa phát triển. Hệ sụn xương, cơ hô hấp tiếp tục
phát triển. Lúc sinh lồng ngực mềm, dễ biến dạng. Cho đến 1 tuổi
lồng ngực của bé mới có thể giống như người lớn.
4. Sự phát triển của phổi
Quá trình biệt hóa của hệ hô hấp bắt đầu từ tuần thứ 4-5 của
thai nhi, hình thành phổi của bé, khi mầm phổi nguyên thủy thoát khỏi
ống nội bì để phân chia thành tế bào đảm trách các chức năng khác
nhau trong bộ máy hô hấp. Biệt hóa của phế nang bắt đầu từ tuần 25
đến lúc sinh trẻ sơ sinh có khoảng 70 triệu đơn vị phế nang hoàn

chỉnh có thể đảm bảo cho cử động hô hấp. Để duy trì sức căng bề mặt
của phế nang sau cử động hô hấp đầu tiên cần phải có đủ chất
surfactant, chất này chỉ có đủ từ sau tuần thứ 32 của thai. Surfactant là
1 hợp chất gồm 3 thành phần chính: Dipalmitoyl lecithine, Surfactant
apoproteine và ion calci. Surfactant có vai trò làm giảm sức căng bề
mặt của lớp dịch phế nang do đó chống lại lực đàn hồi của phổi nên
phổi ít có khuynh hướng co xẹp. Nếu không có chất hoạt diện, nguy
cơ co xẹp phổi rất lớn. Ở trẻ sơ sinh nhỏ tháng, chưa có đủ Surfactant
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
16
Sinh lí người và động vật – Chương 6
nên dễ bị suy hô hấp do có những chỗ phổi bị xẹp xen kẽ với chỗ ứ
khí nhưng không trao đổi được, gọi là bệnh màng trong.
Sự tạo Surfactant được kích thích bởi Glucocorticoides và
hormone giáp trạng nên người ta tiêm corticoides cho những bà mẹ
chuyển dạ sinh non để giúp trẻ sơ sinh trưởng thành hơn.
Trong bào thai, phổi là 1 tạng đặc không chứa khí, sự hô hấp tế
bào chủ yếu nhờ vào sự trao đổi chất dinh dưỡng và oxy từ máu mẹ
qua hệ tuần hoàn bào thai. Chỉ có khoảng 10% máu từ động mạch
phổi đi lên phổi và 90% không qua phổi mà đi tắt qua lổ bầu dục và
ống động mạch vào động mạch chủ xuống. Sức cản (resistance) của
hệ động mạch phổi bào thai cao, gấp rưỡi hệ động mạch phổi, nên thất
phải ưu thế hơn thất trái.
Đến tuần thứ 37 của thai kỳ, phổi của bé đã trưởng thành và sẵn
sàng thích ứng với cuộc sống bên ngoài. Đây là bước cuối cùng khẳng
định hệ hô hấp bé yêu của bạn đã hoàn thiện, để có thể mang lại hạnh
phúc cho ba mẹ khi ra đời là một đứa trẻ khỏe mạnh.
III. SƠ LƯỢC CẤU TẠO HỆ HÔ HẤP
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
17

Sinh lí người và động vật – Chương 6
Cấu tạo hệ hô hấp
1. Lồng ngực
Lồng ngực là một cấu trúc hình vòm chứa toàn bộ các thành
phần của hệ hô hấp (trừ mũi & vùng hầu họng).
Lồng ngực đóng vai trò quan trọng trong quá trình thông khí,
được cấu tạo như một khoang kín:
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
18
Sinh lí người và động vật – Chương 6
- Phía trên là cổ, gồm các bó mạch thần kinh lớn, thực quản và
khí quản.
- Phía dưới là cơ hoành, một cơ hô hấp rất quan trọng, ngăn
cách với ổ bụng. Cơ hoành đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hít
thở. Một khi cơ hoành đẩy lên trên, tạo ra một sức nén làm nhỏ lồng
ngực lại và có tác dụng đẩy khí ra ngoài trong thì thở ra. Tương tự, để
hít vào, cơ hoành sẽ hạ xuống làm gia tăng thể tích bên trong lồng
ngực, kéo theo sự giãn nở của hai buồng phổi làm cho không khí tuồn
đầy vào bên trong trong thì hít vào. Nín thở là một động tác cố gắng
làm bất động cơ hoành và thể tích lồng ngực được giữ nguyên, khí sẽ
không lưu chuyển ra vào.
- Xung quanh là cột sống, 12 đôi xương sườn, xương ức, xương
đòn và các cơ liên sườn bám vào, trong đó quan trọng là các cơ hô
hấp.
Khi các cơ hô hấp co giãn, xương sườn sẽ chuyển động làm
kích thước của lồng ngực thay đổi và phổi co giãn theo, nhờ đó mà
thở được.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
19
Sinh lí người và động vật – Chương 6

Cấu tạo hệ hô hấp
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
20
Sinh lí người và động vật – Chương 6

Sơ đồ phổi và đường dẫn khí
2. Đường dẫn khí
Đường dẫn khí là một hệ thống ống, từ ngoài vào trong gồm có:
mũi, họng, thanh quản, khí quản, phế quản, phế quản đi vào hai lá
phổi. Trong lá phổi, các phế quản chia nhánh nhiều lần, tiểu phế quản
tận, tiểu phế quản hô hấp, cuối cùng nhỏ nhất là ống phế nang dẫn vào
các phế nang.
Hầu họng giống như một ngã tư giao nhau giữa một bên là mũi
& khí quản, bên còn lại là miệng và thực quản.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
21
Sinh lí người và động vật – Chương 6
Thanh quản là đoạn đầu tiên của ống dẫn khí vào cơ thể. Đoạn
thanh quản có chứa hai dây thanh có chức năng chính trong việc phát
ra các âm tiết khác nhau trong ngôn ngữ & những âm phát ra khác từ
miệng.
Khí quản là một ống có cấu tạo chủ yếu là sụn bắt nguồn từ
thanh quản chạy song song với thực quản bên trong lồng ngực.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
22
Sinh lí người và động vật – Chương 6
Đầu còn lại của khi quản được chia là hai nhánh lớn để dẫn khí
vào phổi qua vô số các nhánh dẫn khí được phân chia tiếp (gọi là tiểu
phế quản) đến từng vị trí trong mô phổi.
Các tiểu phế quản dẫn khí đến phổi thổi phồng các túi khí (gọi

là phế nang), nơi diễn ra quá trình trao đổi khí với hồng cầu.
Từ hai nhánh phế quản vào hai phổi, sự phân chia thành các
tiểu phế quản & tiểu tiểu phế quản cần thiết để dẫn khí cho cả 300-
400 phế nang cho mỗi buồng phổi (lá phổi).
Ngoài chức năng dẫn khí, đường dẫn khí còn có các chức năng
quan trọng khác:
- Điều hòa lượng không khí đi vào phổi
- Làm tăng khả năng trao đổi khí ở phổi
- Bảo vệ phổi
Sở dĩ như vậy là nhờ đường dẫn khí có những đặc điểm cấu tạo
sau đây :
- Niêm mạc có hệ thống mao mạch phong phú để sưởi ấm cho
luồng không khí đi vào, có nhiều tuyến tiết nước để bão hòa hơi nước
cho không khí. Không khí được sưởi ấm và bão hòa hơi nước sẽ làm
tăng tốc độ trao đổi khí ở phổi.
- Niêm mạc mũi có hệ thống lông để cản các hạt bụi lớn, niêm
mạc phía trong có những tuyến tiết ra chất nhầy để giữ lại các hạt bụi
nhỏ, đường dẫn khí càng vào trong càng hẹp và gấp khúc nên bụi dễ
bị giữ lại hơn. Ngoài ra, các tế bào niêm mạc của khí phế quản còn có
hệ thống lông rung, chúng lay động theo chiều từ trong ra ngoài, có
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
23
Sinh lí người và động vật – Chương 6
tác dụng đẩy bụi và chất dịch ứ đọng trong đường hô hấp ra ngoài.
Một trong các chất liệt cử động lông là khói thuốc lá, do đó dễ gây
nhiễm khuẩn phổi.
Cấu trúc lông đường dẫn khí
- Khí quản và phế quản cấu tạo bằng những vòng sụn, nhờ đó
đường dẫn khí luôn rộng mở không khí lưu thông dễ dàng.
- Ở các phế quản nhỏ, có hệ thống cơ trơn (cơ reissessen), các

cơ này có thể co giãn dưới tác dụng của hệ thần kinh tự động làm thay
đổi khẩu kính của đường dẫn khí để điều hòa lượng không khí đi vào
phổi, thần kinh giao cảm làm giãn cơ, thần kinh phó giao cảm làm co
cơ. Khi lớp cơ trơn này co thắt sẽ gây cơn khó thở.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
24
Sinh lí người và động vật – Chương 6
Đường dẫn khí của phổi sau khi đã lấy bỏ phế nang.
3. Phổi và màng hô hấp
Phổi là một tổ chức rất đàn hồi, được cấu tạo cơ bản bởi các
phế nang. Đây là nơi chủ yếu xảy ra quá trình trao đổi khí. Cả hai phổi
có khoảng 300 triệu phế nang. Tổng diện tích mặt bên trong của các
phế nang rất lớn, khoảng 70m2 - 90m2 và đó là diện tiếp xúc giữa phế
nang và mao mạch phổi.
Đặng Thị Tuyết – Trần Thị Tuyển 49 B Sinh
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×