Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Phân tích tìm hiểu chiến lược thâm nhập thị trường và các thủ đoạn chuyển giá của công ty đa quốc gia hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.16 KB, 83 trang )

1 | P a g e
PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và cách
mạng khoa học-công nghệ, hoạt động của các Công ty đa quốc gia – MNCs
(Multinational Coporations) hay MNEs (Multinational enterprises) đã, đang
và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, tác động đến mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội trên toàn thế giới. Chúng là lực lượng
chủ chốt trong truyền tải khoa học công nghệ và kĩ thuật tiên tiến, cơ cấu lại
nền kinh tế thế giới và cũng là hình mẫucủa các tổ chức sản xuất hàng hoá
hiện đại. Vì vậy, các công ty đa quốc gia đang càng ngày càng thâm nhập
một cách mạnh mẽ vào tất cả các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có
nền kinh tế đang và kém phát triển.
Quá trình toàn cầu hoá đã thúc đẩy sự phát triển và phụ thuộc lẫn nhau
của nền kinh tế giữa các quốc gia, đồng thời dẫn đến những thay đổi sâu sắc
và lớn lao trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế thế giới. Các công ty đa quốc
gia đã ngày càng phát huy được vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế thế
giới. Các công ty lớn mạnh có nguồn tài chính dồi dào để phục vụ cho quan
hệ công chúng và vận động hành lang chính trị, có các nhà chính trị đại diện
cho nêncũng có thể có ảnh hưởng lớn đến quan hệ quốc tế và nền kinh tế
khu vực. Nói cách khác, trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, các công ty đa
quốc gia đóng vai trò then chốt.
2 | P a g e
Trong toàn cầu hoá kinh tế thế giới, công ty đa quốc gia là động lực
quan trọng cho sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá trên toàn thế giới
nói chung và cho từng quốc gia nói riêng. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia,
chúng góp phần nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, làm biến đổi cơ cấu
kinh tế ngành thông qua chuyển giao và nâng cao trình độ công nghệ, mở
rộng thị trường, nâng cao trình độ quản lý góp phần tăng trưởng cho các nền
kinh tế. Các công ty đa quốc gia cũng có tác động tích cực đến các hoạt
động thương mại, đầu tư trực tiếp, nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ cũng như phát triển các nguồn lực khác.


Một trong số những vấn đề mà người ta nghĩ đến khi nhắc đến các
công ty đa quốc gia chính là hiện tượng chuyển giá. Chuyển giá là một
trong những vấn đề còn khá mới mẻ trong hoạt động
thương mại ở Việt
Nam, nhưng gần đây các giao dịch có yếu tố nước ngoài ngày càng xuất
hiện nhiều dấu hiệu của hiện tượng chuyển giá. Hiện tượng này không chỉ
gây thiệt hại cho chính phủ nước chủ nhà do bị thất thu thuế, giảm phần lợi
nhuận của bên góp vốn của nước chủ nhà (do giá trị góp vốn của họ thấp)
mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại quốc tế. Do các quy luật của thị
trường tự do nên chuyển giá đã gây ra không ít nhiễu loạn trong quá trình
lưu thông. Điều này dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
Sự thâm nhập của các công ty đa quốc gia ngày càng nhiều vào nền kinh
2
3 | P a g e
tế các nước đang phát triển là một xu hướng tất yếu, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế; đồng thời, cũng đặt nền kinh tếcác nước này,
trong đó có Việt Nam, trước nhiều thách thức. Bên cạnh những ảnh hưởng
không tốt (họ du nhập những ý tưởng và hình ảnh khiến cho một số chính
phủ và tôn giáo lo ngại về sự bất ổn cho xã hội), thì các công ty đa quốc gia
lại mang lại một lợi ích to lớn cho các quốc gia sở tại như đóng thuế, tạo
công ăn việc làm, cung cấp sản phẩm và dịch vụ mà trước đó không có, trên
hết là nguồn vốn, công nghệ và kiến thức. Chính sự quốc tế hóa hoạt động
kinh doanh của các công ty đa quốc gia mà nguyên nhân chủ yếu tác động
đến sự hình thành và phát triển của các luồng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI).
Với các câu hỏi đặt ra như: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa
quốc gia tác động tới nền kinh tế các nước đang phát triển, trong đó có Việt
Nam như thế nào? Chúng ta cần có giải pháp gì để hạn chế những tác động
tiêu cực và khai thác có hiệu quả tác động tích cực từ các công ty đa quốc
gia?Các hình thức và thủ đoạn “chuyển giá” mà các công ty đa quốc gia áp

dụng vào các nước nhận đầu tư? Làm rõ được những nội dung này thực sựlà
vấn đề quan trọng và cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.Chính vì
lí do đó, nhóm em đã chọn đề tài: ”Chiến lược thâm nhập của các công ty đa
quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển
3
4 | P a g e
giá” của các công ty đa quốc gia ở các nước nhận đầu tư” làm tiểu luận
môn Tài chính tiền tệ.
Bài tiểu luận bao gồm ba chương: chương I khái quát, đưa ra những
nhận định chung nhất về công ty đa quốc gia, để từ đó hiểu được và có cái
nhìn tổng thể về các chiến lược thâm nhập vào các nước đang phát triển và
thủ đoạn chuyển giá của chúng sẽ được giới thiệu trong chương II và III,
với những tác động tích cực cũng như những hệ lụy mà chúng mang lại cho
nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế các quốc gia mà chúng có trụ sở.
4
5 | P a g e
Phần I
Tổng quan về công ty đa quốc gia
1. Khái quát về công ty đa quốc gia:
1.1. Nguyên nhân ra đời của Công ty đa quốc gia:
Tiền thân của các công ty đa quốc gia là công ty quốc gia. Công ty
quốc gia này mang quốc tịch của một nước và vốn đầu tư vào công ty này
thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản nước sở tại.Việc kinh doanh của
họ ngày càng phát triển, hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra ngày càng
nhiều và chất lượng cao hơn. Từ thập niên 80, cùng với xu thế hội nhập
quốc tế và toàn cầu hóa, các công ty quốc gia tiến hành sáp nhập với nhau
tạo thành công ty đa quốc gia, nhằm mục đích:
Phục vụ mục tiêu lớn nhất là tối đa hóa giá trị tài sản Công ty nhờ việc
khai thác các tiềm năng tại chỗ như: không ngừng tìm kiếm các nguồn
nguyên liệu và nhân công với giá cả so sánh, tìm kiếm những ưu đãi về thuế,

bảo vệ tính độc quyền đối với công nghệ hay bí quyết sản xuất ở một ngành
không muốn chuyển giao cũng là lý do mở rộng khu vực sản xuất.
Sự liên kết giữa các công ty quốc gia nhằm tăng khả năng bảo vệ trước
những rủi ro. Ví dụ, rủi ro trong mua bán hàng hóa như vận chuyển, bảo
hiểm, chu kỳ cung cầu… Rủi ro trong chuyển dịch tài chính như: rủi ro khi
5
6 | P a g e
chính sách của chính quyền địa phương thay đổi, các rủi ro về tỷ giá lạm
phát, chính sách, quản lý ngoại hối, thuế, khủng hoảng nợ… Giảm thiểu sự
không ổn định của chu kỳ kinh doanh nội địa, chống lại chính sách bảo hộ
mậu dịch ở các nước, bảo vệ thị phần, giảm chi phí trung gian đáp ứng
nhanh nhu cầu người tiêu dung.
Cuối cùng là, các công ty đa quốc gia có thể sử dụng các công nghệ
chế tạo trực tiếp sản xuất theo bằng sáng chế (một bên là nhà cung cấp
cho phép sử dụng bằng sáng chế, một bên trả phí định kỳ cố định và gia
tăng theo sản xuất), điều này cho phép họ độc quyền sản xuất và trực tiếp
bán sản phẩm ở nước ngoài.
Cạnh tranh gay gắt thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, nhiều ngành
kỹ nghệ mới ra đời như công nghệ sinh học, điện tử, người máy… đòi hỏi
nhiều vốn, nhiều kỹ thuật cao cấp, công ty một quốc gia không thể đủ sức
đáp ứng cho nên sự ra đời của công ty đa quốc gia là cần thiết.
1.2. Khái niệm công ty đa quốc gia:
• KN1: MNC (Multinational Corporation): Là khái niệm để chỉ
các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Viết
tắt là MNC, có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Công
ty đa quốc gia có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và các
nền kinh tế của các quốc gia. Các công ty đa quốc gia đóng một vai trò
6
7 | P a g e
quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa.

• KN2: Công ty đa quốc gia là công ty có hoạt động sản xuất
kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ thông tin không chỉ nằm gói gọn
trong lãnh thổ của một quốc gia mà hoạt động sản xuất kinh doanh và
cung cấp dịch vụ trải dài ít nhất ở hai quốc gia và có Công ty có mặt lên
đến hơn trăm quốc gia khác nhau
• KN3: Công ty đa quốc gia (MNC) là tổ chức sản xuất kinh
doanh dịch vụ và khoa học kỹ thuật được thành lập dựa trên các hiệp
định Chính phủ hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa các tổ chức tư
nhân ở các nước khác nhau.
1.3. Các loại hình công ty đa quốc gia (cấu trúc):
• Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” sản xuất các sản
phẩm cùng loại hoặc tương tự ở các quốc gia khác nhau (ví dụ:
McDonalds).
• Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” có các cơ sở sản xuất ở
một số nước nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của
nó ở một số nước khác (ví dụ: Adidas).
• Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” có các cơ sở sản xuất ở
các nước khác nhau mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều
7
8 | P a g e
dọc (ví dụ: Microsoft)
2. Đặc điểm của công ty đa quốc gia:
2.1. Quy mô, doanh thu và phạm vi hoạt động lớn
Sở hữu của các công ty đa quốc gia là sở hữu có tính chất đa chủ và đa
quốc tịch thể hiện ở sự tham gia của nhiều chủ sở hữu ở các nước khác
nhau đối với tài sản của công ty được phân bổ trên phạm vi toàn cầu. Sự
liên kết giữa các doanh nghiệp trong công ty đa quốc gia nhằm mục tiêu
quan trọng nhất là giải quyết những khó khăn về vốn phục vụ kinh doanh.
Vì vậy sau khi thành lập công ty đa quốc gia, các công tythành viên phát
triển nhanh hơn, tài sản có quyền sở hữu cũng tăng lên khá nhanh, từ đó

tổng tài sản cũng tăng lên đáng kể.
Các công ty đa quốc gia thường sở hữu các yếu tố có tính cốt lõi và
quyết định đối với quy trình sản xuất: vốn đầu tư, bí quyết công nghệ, các
kỹ năng quản trị và mạng lưới hoạt động toàn cầu. Do đó, tạo khả năng
sinh lợi rất lớn và mang tính tiên phong nhằm tạo lợi thế cạnh tranh vượt
trội so với các đối thủ. Các công ty đa quốc gia cũng thường thu hút một
lượng lớn lao động ở chính quốc và các quốc gia khác.
8
9 | P a g e
2.2. Các công ty đa quốc gia là công ty đa ngành, tức là hoạt động trong
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực:
Hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực như tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, nghiên cứu ứng dụng về khoa học công nghệ… là xu
hướng có tính quy luật cùng với sự phát triển của các công ty đa quốc gia.
Ví dụ, Mitsubishi ban đầu chỉ hoạt động trong lĩnh vực cơ khí chế tạo
nhưng nay đã hoạt động trong các lĩnh vực như khai khoáng, luyện kim,
hóa chất, luyện kim, ngân hàng,…
Với sự kết hợp ngày càng chặt chẽ giữa các lĩnh vực có liên quan
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sự liên kết giữa nghiên cứu khoa
học và sản xuất đã tăng thêm lợi thế so sánh cho các công ty đa quốc gia
trong việc mở rộng địa bàn hoạt động và gia tăng lợi nhuận.
2.3. Sự đa dạng về cơ cấu tổ chức và sở hữu vốn:
Về cơ cấu tổ chức, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện và hiệp
thương. Cần nhấn mạnh, công ty đa quốc gia không phải là một doanh
nghiệp, không có tư cách pháp nhân độc lập. Do đó các mệnh lệnh hành
chính không được sử dụng trong điều hành các công ty đa quốc gia. Các
doanh nghiệp là thành viên của công ty đa quốc gia đều có pháp nhân độc
lập, có cơ quan quyền lực cao nhất như hội đồng thành viên, đại hội cổ
đông.
9

10 | P a g e
Sở hữu vốn của công ty đa quốc gia cũng rất đa dạng. Trước hết vốn
trong công ty đa quốc gia là do các công ty thành viên làm chủ sở hữu,
bao gồm cả vốn tư nhân và vốn nhà nước. Quyền sở hữu vốn trong công
ty đa quốc gia cũng tùy thuộc vào mức độ phụ thuộc của các công ty
thành viên vào công ty mẹ.
2.4. Đặc điểm xu hướng phát triển:
Thay đổi trong lĩnh vực đầu tư: trong hoạt động đầu tư của mình có
sự chuyển dịch từ công nghiệp khai thác tài nguyên sang công nghiệp chế
biến sản phẩm, đem lại giá trị cao hơn; từ công nghiệp thâm dụng lao
động nhiều chuyển sang đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều kĩ thuật và
công nghệ mới và sang các ngành dịch vụ điện tử, dịch vụ thương mại, tài
chính ngân hàng, y tế, giáo dục…
Các công ty đa quốc gia ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong sự
phát triển của kinh tế thế giới: Hiện nay các công ty đa quốc gia chiếm
đến 2/3 trị giá thương mại quốc tế, chiếm 4/5 tổng giá trị đầu tư FDI; 9/10
thành quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao kĩ thuật của thế giới;
chiếm 95% hoạt động XNK lao động quốc tế… và các công ty đa quốc
gia đóng vai trò trọng yếu trong đẩy nhanh quốc tế hóa đời sống kinh tế
toàn cầu, biến mỗi nước trở thành một bộ phận của kinh tế thế giới.
Mở rộng các hình thức liên kết kinh tế để tăng cường khả năng cạnh
10
11 | P a g e
tranh: Để mở rộng phạm vi thế lực, tăng sức cạnh tranh phù hợp với bước
phát triển mới của kinh tế và kĩ thuật, cùng với chiến lược sáp nhập, các
công ty đa quốc gia lớn còn đẩy mạnh hoạt động liên hợp. Đó là sự thiết
lập quan hệ hợp tác giữa hai hoặc nhiều công ty đa quốc gia ngang sức
cùng hoặc khác quốc tịch nhằm thực hiện mục tiêu nào đó.
Đa dạng hóa và chuyên môn hóa cao độ là một xu hướng chiến lược
mới của mỗi công ty đa quốc gia: Các công ty thông qua sản xuất nhiều

chủng loại sản phầm hoặc thỏa mãn nhiều lĩnh vực dịch vụ khác nhau để
giảm bớt rủi ro, tìm kiếm cơ hội kinh doanh mới, đối phó với tình trạng
kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, nhu cầu thị trường giảm sút. Một số
khác lại “ thu hẹp chiến tuyến”, loại bỏ các hoạt động sản xuất “ngoại vi”,
dốc toàn lực phát huy thế mạnh chuyên môn của mình.
11
12 | P a g e
3. Vai trò của các công ty đa quốc gia:
3.1. Vai trò tích cực của các công ty đa quốc gia:
• Thúc đẩy Thương mại quốc tế phát triển:
Một trong những vai trò nổi bật của công ty đa quốc gia là thúc đẩy
thương mại quốc tế phát triển, thúc đẩy nhanh quá trình nhất thể hóa nền
kinh tế thế giới. Công ty đa quốc gia chi phối hầu hết chu chuyển hàng
hoá giữa các quốc gia bởi các kênh lưu thông xuyên quốc gia của mình.
Một đặc điểm nữa là trao đổi giữa các chi nhánh trong nội bộ công ty đa
quốc gia của các nước ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng giá trị thương mại nhiều nước. Trong những năm gần đây, với chiến
lược đa quốc gia và tạo ra các liên kết giữa thương mại và đầu tư giữa các
nước với nhau.
• Thúc đẩy đầu tư nước ngoài: thông qua việc các công ty đa quốc
gia đầu tư vốn vào các nước đang phát triển:
Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện
qua kênh đẩu tư nước ngoài của các công ty đa quốc gia. Các công ty đa
quốc gia thúc đẩy nhanh quá trình tự do hóa đầu tư nước ngoài thông qua
tham gia sâu rộng vào quá trình quốc tế hóa sản xuất. Các cản trở về đẩy
12
13 | P a g e
mạnh tự do hóa đầu tư đã được tháo bỏ, để các nước trên thế giới cùng
được tham gia vào quá trình tự do hóa kinh tế quốc tế. Với lợi thế của
mình về nhiều vốn, kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thị

trường rộng lớn, các công ty đa quốc gia luôn tích cực đầu tư ra nước
ngoài nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Xu hướng sát
nhập, mua lại và thôn tính các công ty khác của các công ty đa quốc gia
tăng nhanh hơn là hình thức xây dựng doanh nghiệp mới để mở rộng đầu
tư ra thị trường ngoài nước. Chính xu thế gia tăng này là nguyên nhân
quan trọng gây bùng nổ đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra chúng ta cũng phải nói tới sự tích lũy về vốn ở các nước chủ
nhà. Với thế mạnh về vốn các công ty đa quốc gia đóng vai trò là động
lực thúc đẩy tích luỹ vốn của nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể tăng
cường thu hút vốn FDI đầu tư vào nước mình. Vai trò này của công ty đa
quốc gia cũng được thể hiện qua nhiều khía cạnh.
Tóm lại, công ty đa quốc gia đóng vai trò rất to lớn trong hoạt động
đầu tư quốc tế. Xét trên góc độ nền kinh tế toàn cầu thì công ty đa quốc
gia thúc đẩy lưu thông dòng vốn FDI trên phạm vi toàn thế giới. Mặt
khác, ở góc độ từng quốc gia riêng thì công ty đa quốc gia góp phần làm
tăng tích luỹ vốn cho nước chủ nhà.
• Làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế:
13
14 | P a g e
Ngày nay, kinh tế thế giới càng phát triển thì vai trò của các công ty
đa quốc gia cũng ngày càng cao. Với tỷ trọng lớn trong thương mại thế
giới thì các công ty đa quốc gia chính là chủ thể chính làm thay đổi cơ cấu
hàng hoá và cơ cấu đối tác trong thương mại thế giới.
• Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm:
Các công ty đa quốc gia đóng vai trò quan trọng đối với phát triển
nguồn nhân lực và tạo việc làm ở các nước phát triển và các nước đang
phát triển. Một vai trò quan trọng khác phải nhắc tới là công ty đa quốc
gia tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho lực lượng lao động phụ nữ ở các nước
đang phát triển. Hơn nữa tiền lương và điều kiện lao động ở các công ty
đa quốc gia thường cao hơn tiền lương và điều kiện lao động ở các công

ty nội địa.
• Công ty đa quốc gia với hoạt động chuyển giao công nghệ:
Công nghệ là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
trường và giứ thế độc quyền. Do đó, trong quá trình thực hiện đầu tư ra
nước ngoài các công ty đa quốc gia thường có những phương thức và
những kênh riêng để thực hiện hoạt động chuyển giao công nghệ của
mình. Không chỉ nắm giữ trong tay phần lớn công nghệ tiên tiến của thế
giới các công ty đa quốc gia còn biết cách sử dụng và khai thác các công
nghệ đó một cách có hiệu quả nhất nhằm duy trì vị trí độc quyền trên thị
14
15 | P a g e
trường, mở rộng phạm vi ảnh hưởng và khả năng lũng đoạn thị trường.
Thông qua hoạt động sản xuất, thương mại các công ty đa quốc gia đã
không ngừng có những phát minh, sáng chế và phổ biến những kinh
nghiệm về quản lý, các ý tưởng mới, và các sáng tạo khác trên phạm vi
toàn cầu. Có thể nói tính sáng tạo là đặc trưng riêng của các công ty đa
quốc gia mà không tổ chức nào có được. Tuy nhiên, quá trình chuyển giao
công nghệ thường đi kèm với quá trình độc quyền hoá. Do đó, các nước
đang phát triển trong quá trình tiếp nhận công nghệ cần nhận thức rõ vai
trò của các công ty đa quốc gia đồng thời có những đối sách thích hợp để
vừa phát huy tối đa tác dụng tích cực của công ty này đối với nền kinh tế
vừa hạn chế sự kìm hãm của chúng.
3.2. Ảnh hưởng tiêu cực:
Tác động tiêu cực từ nguồn vốn đầu tư của các công ty đa quốc gia đối
với các nước đang phát triển được thể hiện qua nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, các công ty đa quốc gia gặt hái nhiều lợi nhuận ở các nước
đang phát triển nhờ vị trí siêu độc quyền của họ trong các nền kinh tế này.
Tuy nhiên phần lớn các khoản lợi nhuận này được chuyển ra nước ngoài cho
công ty mẹ chứ không được tái đầu tư ở nước chủ nhà.
Thứ hai, các Công ty đa quốc gia còn tính giá phí quá cao khi chuyển

giao công nghệ cho công ty con. Các công ty con phải phụ thuộc nhiều vào
15
16 | P a g e
máy móc, thiết bị, linh phụ kiện hơn so với các công ty trong nước. Các
công ty đa quốc gia làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế các nước đang
phát triển vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các công ty
này. Các công ty đa quốc gia tiến hành đầu tư, lập nhiều khu công nghiệp,
các nhà máy chế tạo sản phẩm. Các quy trình đều do các công ty mẹ nắm
giữ và được chuyển giao dần dần cho các nước đang phát triển. Đồng thời
các công ty đa quốc gia cũng nắm giữ những đường dây tiêu thụ hàng hóa từ
các nước phát triển. Chính vì vậy nước đang phát triển càng dựa nhiều vào
đầu tư nước ngoài của các công ty đa quốc gia thì sự phụ thuộc về kinh tế
ngày càng lớn.
Thứ ba, các công ty đa quốc gia thường được vay ưu đãi từ ngân hàng ở
nước chủ nhà nhiều hơn so với các công ty trong nước. Đây cũng được coi là
một trong những nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh của công ty
trong nước luôn kém hơn các công ty đa quốc gia này. Một khía cạnh khác
nữa là đầu tư vào các nước đang phát triển của các công ty đa quốc gia có
thể xảy ra tình trạng khiến các công ty nội địa đi tới phá sản do các công ty
đa quốc gia có thế mạnh về tài chính, kỹ thuật và đôi khi còn được hưởng
những ưu đãi lớn hơn so với công ty nôi địa. Như vậy các nước này cần phải
xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng, cơ chế luật pháp đảm bảo cho
doanh nghiệp trong nước không bị bất lợi hơn các doanh nghiệp nước ngoài.
16
17 | P a g e
Thứ tư, nhiều công ty đa quốc gia còn không góp phần thúc đẩy kỹ năng
kinh doanh ở nước chủ nhà, bởi lẽ họ thâm nhập vào thị trường các nước
đang phát triển bằng con đường mua lại doanh nghiệp trong nước hoặc sử
dụng nguồn lực vượt trội của mình để loại bỏ đối thủ cạnh tranh trong nước.
Thứ năm, nhiều nhà máy khai thác tài nguyên thuộc các công ty đa quốc

gia còn gây ô nhiễm môi trường cho các nước đang phát triển. Doanh nghiệp
như người dân ở Ilo, Peru bị mắc bệnh về đường hô hấp và nhiều vấn đề sức
khỏe khác do ô nhiễm không khí và nguồn nước từ một nhà máy đúc đồng
thuộc 3 tập đoàn lớn của Mỹ, mỗi ngày nhà máy này thải vào không khí
2000 tấn Sunphuadioxit, gấp 10 – 15 lần so với mức cho phép ở Mỹ. Các
nhà phê bình còn cho rằng nhân công ở các nhà máy này chỉ được trả lương
rất thấp, điều kiện làm việc, quy định về y tế, an toàn lao động đều thấp hơn
so với Mỹ. Các công ty đa quốc gia trong một số trường hợp cũng thông qua
đầu tư nước ngoài để “ xuất khẩu ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển
– nơi mà luật pháp và các biện pháp cưỡng chế bảo vệ môi trường khác chặt
chẽ - sang các nước đang phát triển – nơi mà luật pháp và các biện pháp
cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu hiệu.
Thứ sáu, tình trạng phân phối thu nhập không đều ở các nước nhận đầu
tư cũng là một tác đông tiêu cực cần phải nhắc tới ở đây. Thường tiền lương
của nhân công, lao đông làm trong các công ty liên doang bao giờ cũng cao
17
18 | P a g e
hơn mức trung bình ở địa phương.
Thứ bảy, một tác động tiêu cực khác của các công ty đa quốc gia là can
thiệp vào nền chính trị của các nước nhận đầu tư thông qua một số cách khác
nhau. Tuy vậy, thường thì các công ty đa quốc gia đánh giá cao sự ổn định
chính trị của một nước, như vậy họ có thể yên tâm đặt lòng tin và đầu tư vào
nước đó. Ngoài ra các công ty đa quốc gia còn có ảnh hưởng tới cơ cấu xã
hội của nước nhận đầu tư. Khi các công ty đa quốc gia đầu tư vào một nước
thì sẽ tạo ra việc làm, thu nhập cho số đông người dân nước đó, những người
đó có thu nhập và địa vị ổn định trong xã hội, còn lại một phần lớn những
người không hòa nhập vào xã hội công nghiệp và do đó tạo ra sự phân cấp
trong xã hội khá rõ rệt.
18
19 | P a g e

Phần II
Chiến lược thâm nhập thị trường của Công ty đa quốc gia
Trong những thập kỷ vừa qua các Công ty đa quốc gia (MNCs) đã đầu tư
hàng tỷ USD ra nước ngoài theo hình thức đầu tư song phương: Hoa Kỳ đầu
tư vào Cộng đồng kinh tế Châu Âu và ngược lại; Nhật Bản đầu tư vào Hoa
Kỳ và ngược lại; Canada đầu tư trực tiếp vào Hoa Kỳ và ngược lại,….
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, MNCs đã chuyển hướng đầu tư vào
các nước đang phát triển và những nước đang chuyển từ nền kinh tế tập
trung sang nền kinh tế thị trường. Ví dụ trong giai đoạn 1991-1995, Công ty
Volkswagen đã đầu tư 6 tỷ USD vào nhà sản xuất ô tô Skoda của Cộng Hoà
Czech; hoặc Opel (Đức) đã đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất ô tô trị
giá 680 triệu USD tại Đông Đức. Sự chuyển hướng đầu tư này bắt nguồn từ
một số lý do như sau: triển vọng sinh lời tại những thị trường này cao dù
rằng những rủi ro về kinh tế và chính trị còn lớn; các chương trình tư nhân
hóa được tiến hành rộng khắp tại các nước Nam Mỹ và đây là một cơ hội
cho MNCs thâm nhập vào khu vực này; mặt khác, sự tăng trưởng mạnh mẽ
và đầy triển vọng của Nhật Bản trong thập niên 80 của thế kỷ 20 đã dẫn đến
việc đầu tư vốn của Nhật ra thị trường nước ngoài. Với sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học - công nghệ, hoạt động của
19
20 | P a g e
MNCs đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, tác
động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi quốc tế.
Chúng là lực lượng chủ chốt trong truyền tải khoa học, kỹ thuật và công
nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế thế giới, và là mẫu hình thực hiện kiểu tổ chức
sản xuất hàng hoá hiện đại.
Với các câu hỏi đặt ra như: Quá trình thâm nhập của MNCs tác động tới
nền kinh tế các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam như thế nào?
Chúng ta cần có giải pháp gì để hạn chế những tác động tiêu cực và khai
thác có hiệu quả tác động tích cực từ MNCs? Làm rõ được những nội dung

này thực sự là vấn đề quan trọng và cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn.
20
21 | P a g e
1. Khái quát về thâm nhập thi trường:
Thâm nhập thị trường của MNCs là chiến lược của những công ty
(doanh nghiệp) lớn, có phạm vi hoạt động ở nhiều quốc gia bằng việc mở
rộng thị trường dưới nhiều hình thức, nhằm hướng tới mục tiêu chiếm lĩnh
thị trường sản phẩm để thu lợi nhuận độc quyền.
MNCs hoàn toàn khác biệt với những công ty nội địa (những công ty
giới hạn hoạt động của mình chỉ ở thị trường nội địa) ở chỗ MNC không bao
giờ giới hạn hoạt động của mình trên cơ sở thị trường nội địa.MNC đưa ra
quyết định dựa trên cơ sở vì lợi ích của nó hơn là lợi ích quốc gia. Thậm chí
MNC sẵn sàng chuyển giao ngân quỹ và tạo ra công ăn việc làm tại hải
ngoại thay vì tại quốc gia nó ra đời nếu như nó tìm được lợi nhuận hấp dẫn
hơn ở thị trường nước ngoài. Ví dụ IBM đã biệt phái khoảng 120 chuyên gia
và 10 tỷ USD sang EC để đầu tư cho hoạt động kinh doanh viễn thông tại
đây trong vòng một năm (Robert B. Reich, “Who is them?” Harvard
Business review, March-April 1991, p.77) thay vì đầu tư tại Hoa Kỳ.
Chiến lược này không chỉ được một mình IBM áp dụng. Nhiều công ty
khác trong qúa trình đầu tư của mình đã tạo nên nhiều công ăn việc làm tại
thị trường hải ngoại. Ví dụ tại Nhật Bản, Xerox đã có trên 12.000 lao động,
Texas Instrument có hơn 5.000 lao động, Hewlett – Parkard có trên 3.000
21
22 | P a g e
lao động. Nói chung nhiều công ty Hoa Kỳ đã thuê một lực lượng lao động
là người Nhật một cách đáng kể. Tình trạng của các công ty ngoại quốc kinh
doanh tại thị trường Hoa Kỳ cũng đã nói lên một điều tương tự. Cụ thể, năm
1990 có khoảng 640 công ty tại Hoa Kỳ thuộc sở hữu hoàn toàn, hoặc một
phần bởi người Nhật, và những công ty này đã sử dụng khoảng 160.000

công nhân là người Mỹ, và hơn 100 liên doanh Nhật – Mỹ cũng đã thiết lập
trong năm 1990. Đến cuối thế kỷ thứ 20, có trên 800.000 nhân công Hoa Kỳ
làm việc tại các công ty Nhật Bản. Nếu xét tổng quát thì các công ty có
nguồn gốc nước ngoài cho đến năm 1989 đã sử dụng khoảng 3 triệu nhân
công người Mỹ. Cũng trong năm 1989, số lượng công việc được tạo ra bởi
các công ty sản xuất có nguồn gốc nước ngoài đã cao hơn số lượng công
việc được tạo ra bởi các công ty có nguồn gốc Hoa Kỳ.
Đôi khi một số dự án kinh doanh quốc tế lại sử dụng nhân công từ hàng
loạt nước khác. Ví dụ, một loại xe hơi thể thao của Mazda, loại MX – 5
Miata, được thiết kế tại California, nhưng chi tiết được tạo ra tại Anh, lắp
ráp tại Michigan và Mehico, loại xe hơi này lại sử dụng các bộ phận điện tử
được sáng chế tại New Jersey và được chế tạo tại Nhật Bản. Tương tự như
vậy, loại xe ăn khách của Chevrolet – Geo Metro – được thiết kế tại Nhật
Bản, và chế tạo tại Canada bởi một nhà máy do công ty Suzuki sở hữu. Hoặc
trong trường hợp của Boeing thì loại máy bay này được thiết kế tại bang
22
23 | P a g e
Washington và Nhật Bản, nhưng lắp ráp tại Seatle với chóp đuôi làm từ
Canada, một số chi tiết phần đuôi lại được sản xuất tại Trung Quốc và Italy,
và đầu máy thì được làm từ Anh. Nói cách khác, MNC tiến hành các hoạt
động và thoả thuận sao cho nó có lợi nhất, thậm chí điều này sẽ dẫn đến sự
hợp tác của nhiều công ty thuộc từ 3 cho đến 4 quốc gia khác nhau. Điều này
là một thực tế hiển nhiên được tiến hành bởi MNCs bất kể quy mô của nó là
lớn hay nhỏ.
23
24 | P a g e
2. Các hình thức thâm nhập thị trường:
Quá trình này thường thể hiện qua một trong 6 hình thức sau: xuất khẩu;
dự án trao tay (turnkey project), nhượng quyền (licencing); chuyển nhượng
kèm theo bí quyết kinh doanh (franchising); liên doanh; doanh nghiệp hoàn

toàn sở hữu nước ngoài (100% vốn nước ngoài) nhằm đánh dấu sự có mặt
24
25 | P a g e
của MNCs trong quá trình thâm nhập thị trường. Như vậy, để tiến hành quá
trình thâm nhập thì trường, MNCs có nhiều cách lựa chọn hình thức sở hữu,
từ việc sở hữu 100% vốn cho đến việc mua cổ phần từ đa số đến thiểu số.
Với sự cạnh tranh quốc tế ngày càng mãnh liệt, rủi ro khi bước vào thị
trường, sự phát triển sản phẩm ngày càng đa dạng… nhiều công ty xem xét
việc hợp tác hay liên minh quốc tế giữa các công ty như là một cứu cánh để
giảm thiểu rủi ro. Các hình thức hoạt động đó sẽ được phân tích sau đây:
2.1. Sở hữu 100% vốn:
Đối với nhiều MNC giải pháp lập một chi nhánh 100% vốn là một giải
pháp được nghĩ đến đầu tiên khi tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp. Điều
này xuất phát từ một số lý do: (i) Tư tưởng vị tộc khi định hướng chiến lược
kinh doanh quốc tế; (ii) Vấn đề tài chính. Ví dụ, một số quản trị gia của IBM
cho rằng nếu họ chia sẻ một phần sở hữu của họ cho phía đối tác nước ngoài,
họ sẽ tạo ra một tiền lệ cho việc chia sẻ quyền sở hữu và kiểm soát với đơn
vị kinh doanh bản xứ và điều này thường dẫn đến một sự gia tăng phí tổn
cao hơn là những lợi ích có thể có được.
Để có thể có một quyết định hợp lý khi quyết định mức độ mở rộng
quyền sở hữu, quản trị gia của MNCs thường phải xem xét một mức độ kiểm
soát như thế nào là cần thiết cho sự thành công của công ty trong hoạt động
kinh doanh và marketing quốc tế. Thông thường việc sở hữu 100% vốn là
25

×