Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Tục treo tranh và câu đối Tết có từ khi nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.27 KB, 4 trang )

Tục treo tranh và câu đối Tết có từ khi nào?
Tục lệ dán câu đối chỉ phát triển mạnh từ triều Minh. Trong khi, tục
treo tranh vào dịp năm mới đã có từ thời tam đại (khoảng thế kỷ 22
đến 21 TCN).
Tranh môn thần
Treo tranh Tết lúc đầu để chống ma quỷ
Tục treo tranh vào dịp năm mới đã có từ thời tam đại (khoảng thế kỷ 22 đến 21
TCN). Tuy nhiên tranh lúc này chỉ là hình vẽ thần linh mà chủ yếu là để chống
ma quỷ.
Các hình vẽ cũng tùy ý, không nhất định. Đến cuối thời nhà Chu đầu thời Tần,
Hán thì các thần để chống ma quỷ nói chung được chuyển thành môn thần tức
là thần canh cửa nhưng chưa có tên.
Phải đến thời Nam Bắc triều hai thần canh cửa đầu tiên mới có tên là Thần Dư,
Ức Lỗi. Đến nhà Đường thì thần canh cửa lại có thêm hai vị là Tần Thúc Bảo và
Uất Trì Kính Đức. Tuy nhiên tất cả các tranh này vẫn chỉ là tranh môn thần mặc
dù lúc này đã bắt đầu có việc dán môn thần ra các cổng thành để các môn thần
này thành thần coi thành.
Cuối đời Đường mới bắt đầu xuất hiện tranh vẽ phong cảnh và vẽ người. Đó là
những bộ tranh nhị bình như "lý ngư vọng nguyệt", "công múa" và những bộ
tranh tứ bình như "Mai, Lan, Trúc, Cúc" hoặc "bốn tố nữ chơi đàn". Bốn mỹ
Sưu tầm: Cao Minh Anh-THCS Hạ Sơn
1
nhân đầu tiên được vẽ thành bốn tố nữ là Vương Chiêu Quân, Ban Siêu, Triệu
Phi Yến và Lục Châu.
Đến sau các hoạ sĩ vẽ tranh mới vẽ thêm các tố nữ khác như Tây Thi, Điêu
Thuyền (có lẽ vì xuất sứ đầu tiên là "bốn tố nữ chơi đàn" nên sau này ở Trung
Quốc người ta thường nói đến tứ đại mỹ nhân chứ không phải là ngũ, lục đại
mỹ nhân mặc dù các mỹ nhân kể ra không hoàn toàn trùng nhau ở một quốc
gia không thiếu gì người đẹp). Đến các đời sau thì tuỳ từng triều đại mà các gia
đình chơi tranh cũng thay đổi các loại tranh cho phù hợp nhưng loại tranh được
nhiều gia đình ưa chuộng là tranh "Tế hàn tam hữu" vẽ về Tùng, Bách, Mai


hoặc là tranh "Ngọc đình phú quí" vẽ về hoa mẫu đơn.
Trải qua nhiều thời gian, dân gian hình thành tập tục treo tranh đón năm mới.
Trong các gia đình ngày tết thường treo tranh với quan niệm để cảnh sắc thêm
vui tươi, con người thêm sảng khoái, xua đi những điều ám muội rủi ro. Tranh
tết là hình ảnh cô đọng của sinh hoạt hàng ngày, người ta thường ngắm nó để
nhớ lại những năm qua và hình dung những gì sẽ gặp, sẽ làm trong năm tới.
Đến các đời sau tranh tết còn có nhiều đối tượng và mục đích khác như: Tranh
thờ, tranh đố, tranh cầu lộc, tranh người lớn, tranh trẻ em
Văn nhân sĩ phu thường thích bộ nhị bình hoặc bộ tứ bình. Cũng có nhà chơi
tranh vẽ về các sự tích như Chinh đông chinh tây, Tam quốc, ông Tài, ông Lộc
hay tranh Công tào vẽ sứ giả nhà Trời cưỡi rồng Trên các bàn thờ có nhà còn
treo tranh là hình ảnh các con vật trong từng năm như gà, lợn, ngựa, rồng bởi
họ tin là trong năm ngắm những tranh đó sẽ gặp nhiều may mắn.
Ở Việt Nam từ thế kỷ XVI đã xuất hiện dòng tranh Đông Hồ với 5 loại tranh là:
Tranh thờ, Tranh lịch sử, Tranh chúc tụng, Tranh sinh hoạt và Tranh truyện.
Cũng khoảng thời gian này ở phía Bắc còn có dòng tranh Hàng Trống, Tranh
Kim Hoàng. Ở miền Trung (Huế) có dòng tranh Tranh làng Sình. Hàng năm có
hàng nghìn, hàng triệu bức tranh các loại được bán cho những lái buôn, hoặc
bán lẻ cho các gia đình mua về làm tranh treo tết với mong muốn mang phú
quý, vinh hoa cho mọi nhà. Sau phiên chợ tranh cuối cùng (26/12 âm lịch)
những gia đình nào còn lại tranh đều bọc kín đem cất đi chờ đến mùa tranh
năm sau lại mang ra chợ tranh bán.
Đôi câu đối cổ nhất Trung Quốc
Có lẽ tục treo câu đối Tết là tục xuất hiện tương đối muộn. Theo “Tống sử Thục
thế gia” câu đối đầu tiên được ghi lại là vào thời Nam Bắc triều. Theo tập tục
trước đây, người dân đón năm mới thường treo trước cửa hai thẻ gỗ đào vì cho
rằng quỉ sợ gỗ đào. Vào thời Ngũ đại (934-965), Thục Hậu chủ là Mạnh Sưởng
Sưu tầm: Cao Minh Anh-THCS Hạ Sơn
2
trong một đêm giao thừa (năm 959) đi qua một nhà thấy chỉ có hai thẻ gỗ đào,

ngoài ra không có một thứ gì khác. Đoán đây là một nhà nghèo nhà vua liền sai
quân đem bút mực đến và viết lên hai tấm gỗ đào hai hàng chữ:
Tân niên nạp dư khánh
Gia tiết hiệu trường xuân
Nghĩa là:
Năm mới thêm nhiều phúc
Tết đến gọi mùa Xuân
Đây được coi là đôi câu đối cổ nhất của Trung Quốc. Các quan lại đi theo nhà
vua thấy hay cũng học theo về nhà viết và treo ở nhà mình. Các năm sau đến
ngày giáp Tết, các quan lại, sỹ phu chuẩn bị tết không quên viết chữ lên thẻ,
sau đó viết lên giấy để dán trước nhà.
Phố ông đồ.
Tại Việt Nam cũng có một truyền thuyết tương tự. Tương truyền, vào một năm,
sắp tới giao thừa, vua Lê Thánh Tông dạo phố phường xem dân ăn Tết. Thấy
một nhà không treo câu đối, vua vào hỏi, biết đó là nhà một người thợ nhuộm
vợ goá, con trai đi vắng, vua sai lấy giấy bút đến và viết:
Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ;
Triều đình chu tử tổng ngõ gia.
Sưu tầm: Cao Minh Anh-THCS Hạ Sơn
3
(Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ
Đỏ tía triều đình tự cửa ta)
Tuy xuất hiện từ thời Ngũ đại nhưng phải đến đời Đường mới hình thành tục
treo câu đối tết, nhưng vẫn chưa thật phát triển. Nhiều gia đình muốn có câu đối
để treo nhưng không biết làm mà cũng chưa có tục viết và bán câu đối ngoài
chợ.
Truyện dân gian còn kể rằng: một nhà nọ muốn có câu đối treo tết nên lúc trang
trí nhà cửa chuẩn bị đón Xuân, gia chủ sửa sang cổng nhà thật đẹp, treo đèn
lồng, làm hoa giấy sặc sỡ và dán ở hai bên cổng 2 băng giấy trắng, cạnh đó có
1 tờ giấy ghi lời mời: "Trân trọng đợi các văn nhân cho chữ".

Một nhà nho là Lưu Vũ Tích đi qua cổng nhìn thấy, hiểu ý chủ nhà muốn xin câu
đối Tết nhưng ông lại nghĩ ra cách đùa vui nên ông lấy bút và đề: "Lưỡng xứ
mang mang giai bất kiến nhất chỉ không văn". (nghĩa là: hai bên đều mờ mịt
không hề nhìn thấy gì chỉ là tờ giấy trắng).
Tục lệ dán câu đối chỉ phát triển mạnh từ triều Minh. Ngày xuân nếu thiếu một
đôi câu đối đỏ treo trong nhà chắc hẳn là chưa toàn vẹn. Đôi câu đối khiến
người ta cảm thấy Tết cổ truyền trở nên thiêng liêng hơn, trang trọng hơn và
đặc biệt hơn những ngày bình thường khác.
Câu đối Tết thường viết vào giấy màu đỏ, vì màu đỏ tượng trưng cho sự đầm
ấm, phù hợp với không khí thiêng liêng và có lẽ còn mang hàm ý của tục dùng
màu đỏ để doạ giống quỷ có tên là Năm trong truyền thuyết. Ngoài ra, màu đỏ
còn chống được hơi sương, khí ẩm của mùa đông buốt giá. Cũng có khi người
ta dùng giấy vàng để viết nhưng ít hơn. Vì câu đối thường được viết bằng màu
đen trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào nên được gọi chung là câu đối đỏ.
Sưu tầm: Cao Minh Anh-THCS Hạ Sơn
4

×