Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tiểu luận BỆNH KINH NGHIỆM TRONG NGÀNH TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THÔNG QUA HIỆN TƯỢNG NỢ XẤU NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH KHẮC PHỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.12 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
1. Thùc Ôn 2
2, Vai trò của thực ễn đối với nhận thức 4
BỆNH KINH NGHIỆM TRONG NGÀNH TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
THÔNG QUA HIỆN TƯỢNG “ NỢ XẤU” NGUYÊN NHÂN VÀ
CÁCH KHẮC PHỤC
A. MỞ ĐẦU
I/.Tính cấp thiết của đề tài:
Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta đã và đang mang lại những thành quả vô
cùng to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội. Trong những năm vừa
qua, đất nước ta đã từng bước trưởng thành tạo được tiền đề và điều kiện cần
thiết để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế đất nước
ổn định và chuyển sang một thời kỳ phát triển mới.
Trong sự phát triển chung của ngành KT nước ta sẽ là thiếu sót khi
không nhắc đến sự phát triển mạnh mẽ của ngành tài chính ngân hàng trong
những năm vừa qua. Đội ngũ cán bộ ngân hàng từng bước được đầu tư, phát
triển ngày càng có năng lực cao, đội ngũ này giữ một vị trí đặc biệt như một
chiếc cầu nối từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn, góp phần làm nền kinh tế
phát triển một cách uyển chuyển và nhịp nhàng.
Tuy nhiên đội ngũ này vẫn còn một số hạn chế chưa thực sự đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp phát triền kinh tế trong giai đoạn mới. Đặc biệt là
đội ngũ cán bộ tín dụng đã thiếu sót về nhiều mặt gây ra hiện tượng “ NỢ
XẤU” – một hiện tượng nhức nhối của ngành ngân hàng cũng như của nền
kinh tế trong suốt thời gian qua. Một trong những hạn chế đó là một bộ phận
họ đang mắc phải bệnh kinh nghiệm. Một loại bệnh phổ biến khi nền kinh tế
chuyển mình từ giai đoạn cũ sang giai đoạn phát triển mới. Cùng với những
bệnh khác bệnh kinh nghiệm là trở lực không chỉ với ngành ngân hàng mà là
của toàn nền kinh tế, toàn xã hội, gây giảm hiệu quả tổ chức thực tiễn của đội
ngũ này bị hạn chế, chính vì vậy nghiên cứu những biểu hiện của căn bệnh
1
ny t ú cú phng hng khỏc phc nú, mt vn cú ý ngha lý lun


v thc tin quan trng v cp bỏch i vi s nghip i mi t nc, tng
bc thc hin dõn giu nc mnh xó hi cụng bng dõn ch, vn minh.
II/. C s lý lun:
Ch ngha duy vt trc Mỏc mang tớnh cht trc quan. Mỏc ó ch rừ:
Khuyt im ch yu, t trc ti nay ca mi ch ngha duy vt l khụng
thy c vai trũ ca thc tin. K tha nhng yu t hp lý v khc phc
nhng thiu sút trong quan im ca cỏc nh trit hc trc mỡnh v thc tin,
Mỏc v ngghen ó em li mt quan nim ỳng n, khoa hc v thc tin
v vai trũ ca nú i vi nhn thc cng nh i vi s tn ti v phỏt trin
ca xó hi loi ngi. S ra i ca ch ngha duy vt bin chng ó to ra
mt cuc cỏch mng trong lý lun nhn thc. Bng s k tha nhng yu t
hp lý, phỏt trin mt cỏch sỏng to v c chng minh bi nhng thnh tu
ca khoa hc, k thut, ca thc tin xó hi, C.Mỏc v Ph.ngghen ó xõy
dng nờn hc thuyt bin chng duy vt v nhn thc: nhn thc l quỏ trỡnh
phn ỏnh bin chng, tớch cc, t giỏc v sỏng to th gii khỏch quan vo
u úc ca con ngi trờn c s thc tin. Vi vic a phm trự thc tin
vo lý lun nhn thc, cỏc nh kinh in ca ch ngha Mac-Lờnin ó to nờn
mt bc chuyn bin cỏch mng trong trit hc núi chung v trong lý lun
nhn thc núi riờng. Vy thc tin v lý lun l gỡ?
1. Thực tiễn
1.1 Khái niệm
Hoạt động con ngời chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực
quan trọng đó là: hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít):
Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử - xã
hội của con ngời nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
1.2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phơng tiện
2
vật chất đề tác động tới đối tợng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội,

làm biến đổi nó, tạo ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của con ng-
ời.
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự
mang tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của
thực tiễn, là cơ sở đề phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận
của con ngời.
1.3. Tính chất lịch sử xã hội
ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác
nhau, thay đổi về phơng thức hoạt động.
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ
muôn vẻ và vô tận giữa con ngời với giới tự nhiên và con ngời với con ngời
trong quá trình sản xuất vật chất và tinh thần, là phơng thúc cơ bản của sự tồn
tại xã hội của con ngời.
1.4. Thực tiễn của con ngời đợc tiến hành dới nhiều hình thức
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con ngời tạo ra một hiện thực
mới, một thiên nhiên thứ hai. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật
chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại của con ngời, những điều kiện này
không đợc giới tự nhiên mang lại dới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình đó,
con ngời cũng phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện
thực thông qua hoạt động thực tiễn là cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có
tính tích cực, sáng tạo của con ngời. Con ngời không thích nghi một cách thụ
động mà thông qua hoạt động của mình, tác động một cách tích cực để biến
đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực tiễn.
a,Hoạt động sản xuất vật chất
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật
chất là tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con
ngời đối với thế giới, giúp con ngời vợt ra khỏi khuôn khổ tồn tại của các loài
vật.
b.Hoạt động chính trị xã hội
Là hoạt dộng của con ngời trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát

triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng
rãi cho hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trờng xã hội xứng đáng với
bản chất con ngời bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
c. Hoạt động thực nghiệm khoa học
3
Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con ngời phải tạo ra một thế giới riêng
cho thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
2, Vai trũ ca thc tin i vi nhn thc
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là
tiêu chuẩn của nhận thức.
2.1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con ngời làm biến đổi thế giới khách quan, bắt
các sự vật, hiện tợng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và
quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh
các vấn đề đòi hỏi con ngời phải giải đáp và do đó nhận thức đợc hình thành.
Nh vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con ngời tự hoàn thiện và phát triển thế
giới quan( tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con ngời cũng ngày càng phát triển hơn,
các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tợng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các
phơng tiện hiện đại giúp con ngời đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
2.2. Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định.
Mỗi bớc phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho
nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Nh vậy thực tiễn trang bị
những phơng tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận
thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập đợc phong phú,
nhiều vẻ, con ngời mới phân biệt đợc đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài,
đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật.

2.3. Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó đợc vận dụng vào
thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri
thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật
chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt
nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo
hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có
thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con ngời mới thể hiện đợc sức mạnh
của mình, sự hiểu biết của con ngời mới có ý nghĩa.
4
2.4. Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức
đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngợc lại.
2.5. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
a.Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan đợc thực tiễn
khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con ng-
ời)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ:
chân lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tơng đối ) vì tính hai mặt trong
quá trình nhận thức của nhân loại.
b.Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm
tra chân lý không phải là ý thức t tởng, t duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có
thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật
chất, qua đó nó đợc hiện thực hoá, vật chất hơn thành các khách thể cảm
tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận thức của con ngời đúng hay sai, có
đạt tới chân lý hay không.

Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con ngời
cũng đợc kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+ Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+ Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể
chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con ngời mà nó đợc
thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Nh vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và nh vậy
mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của
nhận thức.
3. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
3.1. Lý luận
a. Khái niệm
Là một hệ thống những tri thức đợc khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh
những mi liờn h bn cht, nhng quy luật, của ca s vt hin tng.
b. Đặc điểm
5
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của
xã hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
3.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Đợc thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận
và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ
chỗ: chúng đều là hoạt động của con ngời, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên
và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con ngời.
a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy đợc chất liệu của thực tiễn.
Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con ngời, quyết định sự tồn tại và phát
triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục
vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn,
phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.

b. Lý luận mở đờng và hớng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hớng dẫn con đờng đấu tranh của giai cấp vô
sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó đ-
ợc hớng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận
là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý
luận, không thể thiếu sự hớng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đa lại cho thực tiễn các tri thức
đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó
mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phơng pháp đúng đắn cho hoạt động thực
tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể
là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần
tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì
chúng sẽ tăng cờng lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là
một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi
mâu thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hởng của nhau. Điều đó dẫn đến
mọi đờng lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
6
* ý nghĩa:
Cần phải tăng cờng, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt
là lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh
tế.
Trớc chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu nh
không có chỗ đứng nào. Nhiều ngời còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí
của con buôn (Phơ-Bách). Trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngơi khác đã cố

gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn nh một cái gì không đáng
nghiên cứu về mặt nhận thức luận, đã đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp
cho mỗi ngời phân biệt đợc ảo tởng với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của
khoa học, của lý luận nhận thức để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết
bất khả tri.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (V.I.Lênin toàn tập
1980)
e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác- Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hớng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông . Vì vậy cho nên trong
khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại
rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành
động cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính
sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần đợc bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ
trong thực tiễn sinh động. Những ngời cộng sản các nớc phải cụ thể hoá chủ
nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng
nơi (Hồ Chí Minh: toàn tập-1996)
*Con đ ờng biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con ngời diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận
động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách
biện chứng:
- Từ trực quan sinh động đến t duy trìu tợng và từ t duy trìu tợng đến
thực tiễn - đó là con đờng biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận
thức thực tại khách quan.
7
+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá
trình nhận thức, đợc hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này đợc
hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác,

biểu tợng
+T duy trì tợng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình
nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang
lại.
- Nhận thức của con ngời phát triển đến giai đoạn t duy trìu tợng cha phải
là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải
trở về với thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải
trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+Đến giai đoạn t duy trìu tợng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện
thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận
thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về
với thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
- Từ trực quan sinh động dến t duy trìu tợng, và từ t duy trìu tợng đến
thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm
cho nhận thức của con ngời phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu
sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan.
B/ BNH KINH NGHIM TRONG NGNH TN DNG NGN
HNG, BIU HIN QUA HIN TNG N XU NGUYấN
NHN V CCH KHC PHC
I/ Bn cht bnh kinh nghim v nhng biu hin ch yu ca bnh kinh
nghim trong cỏn b tớn dng ngõn hng thụng qua hin tng n xu
1.Bn cht ca bnh kinh nghim:
Xột v mt lch s, ni dung ca kinh nghim luụn cú tớnh lch s c th.
Kinh nghim l cỏi riờng nu so vi cỏi lý lun l cỏi chung. Kinh nghim
cng phn ỏnh trỡnh hot ng thc tin v nhn thc ca con ngi mt
giai on, mt thi im lch s nht nh. Th h sau k tha cỏc kinh
8
nghiệm đó cùng với những hoạt động thực tiễn sẽ làm đầy đủ, chính xác hơn

những kinh nghiệm cũ bằng những tư duy và tư liệu mới. Kinh nghiệm xét về
bản chất có những đặc trưng sau:
- Kinh nghiệm là một dạng tri thức được thu nhận và tích lũy qua hoạt
động thực tiễn của con người mang đậm tính trực quan, cảm tính.
Trong quá trình tác động giữa con người và thế giới hiện thực, con người
đã trực tiếp thu nhận, tích lũy và dần hình thành những tri thức nhất định về
các sự vật hiện tượng. Những tri thức này bước đầu phản ánh một số những
thuộc tính bên ngoài của đối tượng. Đó là kinh nghiệm. Như vậy kinh nghiệm
là một dạng tri thức mang tính trực quan cảm tính.
- Kinh nghiệm là trình độ phản ánh hiện thực khách quan của con người
Như ta đã biết nhận thức là quá trình hình thành phát triển của những
trình độ phản ánh khác nhau và liên hệ với nhau. Đó là nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Kinh nghiệm
và lý luận là hai trình độ phản ánh có vị trí và vai trò khác nahu nhưng chúng
vẫn nương tựa, hỗ trợ nhau và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình nhận thức.
Kinh nghiệm cung cấp những thông tin tri thức ban đầu về sự vật- hiện tượng
cho nên trong nhận thức vai trò của kinh nghiệm là hết sức to lớn
- Kinh nghiệm là điểm xuất phát, là cơ sở ban đầu vô cùng quan trọng
trong quá trình nhận thức:
Kinh nghiệm càng phong phú thì càng tạo ra nhiều dữ kiện, tài liệu cho
khái quát lý luận. Không có kinh nghiệm thì khoa học cũng không phát triển
được. Bởi lẽ khoa học được phát triển dựa trên những kinh nghiệm và thực
nghiệm trong hiện thực khách quan, hạn chế những nhược điểm của kinh
nghiệm.
Tuy nhiên, kinh nghiệm dù có vai trò quan trọng đến đâu thì nó cũng chỉ
mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về các mối liên hệ bên ngoài của
sự vật – hiện tượng. Do đó: “ sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không
bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu” . Kinh nghiệm có chứa
những nội dung khách quan song trong sự phản ánh, chủ thể kinh nghiệm giữ
9

vai trò đặc biệt quan trọng cho việc xác định ý nghĩa của nó với đối tượng
phản ánh.
Trong triết học bệnh kinh nghiệm được hiểu là khuynh hướng tư tưởng
và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm coi kinh nghiệm là duy ngất. Biểu
hiện của người mắc bệnh kinh nghiệm là đề cao thái quá kinh nghiệm, coi
thường lý luận, tri thức khoa học. Vận dụng kinh nghiệm để giải quyết những
vấn đề thực tiễn áp dụng máy móc dẫn đến những sai lầm. Những người mắc
bệnh kinh nghiệm thường đề cao hóa thực tiễn, song thực tiễn này còn mang
tính vụn vặt, riêng lẻ, mang tính chất bề ngoài. Trong khi đó họ nắm lý luận
một cách chấp vá và thiếu hệ thống khiến họ càng hạ thấp lý luận.
Một sai lầm nữa là họ không nắm được mối quan hệ biện chứng giữa tri
thức thực nghiệm và tri thức lý luận, giữa lý luận và thực tiễn. Trong thực thế
cụ thể, sự việc diễn ra khách quan với ý muốn chủ quan của chúng ta, vì vậy
người mắc bệnh kinh nghiệm dễ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí bắt hiện
thực đi theo kinh nghiệm của bản thân.
Như vậy bệnh kinh nghiệm có một tác hại vô cùng to lớn đối với quá
trình nhận thức chân lý. Nó gây ra tâm lý ngại học tập bảo thủ trong các hoạt
động thực tiễn.
Vậy bệnh kinh nghiệm được hiểu như thế nào?
Theo em bệnh kinh nghiệm muốn đề cập đến những sai lầm trong nhận
thức cũng như trong hoạt động thực tiễn do con người đã tuyệt đối hóa vai trò
của kinh nghiệm, hạ thấp vai trò của lý luân. “bệnh” ở đây là biểu hiện về mặt
trạng thái, tư tưởng không lành mạnh, biểu hiện ra bằng những chủ trương
thái độ thiếu đúng đắn.
2. Những biểu hiện chủ yếu của bệnh kinh nghiệm trong ngành tín
dụng ngân hàng thông qua hiện tượng “ nợ xấu”:
Trong giai đoạn hiện nay, nhắc đến ngành tài chính ngân hàng chúng ta
không thể không nhắc đến vấn đề nợ xấu, nợ xấu đã và đang tác động tiêu cực
đến việc lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh
10

doanh của chính các ngân hàng.
Mặc dù đã có nhiều ý kiến trao đổi về nợ xấu tại các ngân hàng thương
mại (NHTM), nhưng cho đến nay, vẫn chưa có tiếng nói thống nhất nợ xấu về
tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) cho rằng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tại các NHTM khoảng 10%.
Trong khi cơ quan Thanh tra NHNN lại đưa ra con số tỷ lệ nợ xấu của các
ngân hàng khoảng 8,6%, tương đương với trên 200.000 tỷ đồng. Bên cạnh
những con số được NHNN công bố nói trên, Ủy ban Giám sát tài chính quốc
gia cũng đưa ra tỷ lệ nợ xấu là 11,8%, tương đương với khoảng 270.000 tỷ
đồng. Vậy nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là bao nhiêu vẫn còn là ẩn số
nhưng đa số các ý kiến đều cho rằng nợ xấu tại các ngân hàng là con số không
nhỏ. Tại sao có sự khác nhau về tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng? Có thể
lý giải về sự khác nhau này như sau:
2.1 Do tuyệt đối hóa kinh nghiệm:
Họ đã coi thường lý luận, tuyệt đối hóa kinh nghiệm khi cho rằng hệ
thống ngân hàng sẽ ổn định hơn khi có những hoạt động thâu tóm, mua bán,
sáp nhập… nhưng lại không quản lý chặt dẫn đến tồn tại các hoạt động này ở
các công ty sân sau hiện tượng này đã vô tình đã tạo ra những vòng luẩn
quẩn của dòng tiền. Đây cũng là những hoạt động tiềm ẩn nhiều nợ xấu
nhưng rất khó chỉ ra để xử lý, khi tính minh bạch và giải trình còn hạn chế.
Tổng phương tiện thanh toán (M2) của 9 tháng đầu năm tăng 12,21%, nhưng
tín dụng chỉ tăng 2,5%, trong khi chứng khoán cũng không phải là kênh được
các ngân hàng quan tâm kể từ khi có văn bản hạn chế cho vay chứng khoán
của NHNN; bất động sản cũng đóng băng; vay tiêu dùng không được xem là
kênh ưu tiên trong thời gian qua. Như vậy, phải chăng nợ xấu đang chạy òng
vòng giữa ngân hàng và các Doanh nghiệp có quan hệ mật thiết. Nếu thế, nợ
xấu sẽ ngày một phình to và càng khó xác định, lãi suất sẽ tiếp tục bị đẩy lên
11
cao, DN sản xuất kinh doanh càng khó tiếp cận được vốn.
Ngoài ra, do một số cán bộ tín dụng thẩm định tài sản đảm bảo còn dựa

trên phần lớn những kinh nghiệm cá nhân, không dựa vào giá cả thị trường,
đánh giá một cách sơ sài, cảm tính khiến sự chênh lệch lớn giữa giá thẩm định
và giá thị trường. Trong rất nhiều trường hợp sai phạm do nhiều nguyên
nhân mà một số cán bộ ngân hàng đã cấu kết với khách hàng để che giấu sự
thật, gian lận đánh giá tài sản đảm bảo cao hơn rất nhiều với giá thị trường để
giúp khách hàng vay được nhiều vốn. Khi khách hàng làm ăn thua lỗ, mất
khả năng trả nợ, tài sản đảm bảo không đủ giá trị bù đắp khoản vay, khiến nợ
xấu ngày một gia tăng.
2.2. Do sự tác động của bệnh chủ quan duy ý chí:
Bệnh này là một sai lầm , trong đó chủ thể vừa mắc bệnh chủ quan vừa
rơi vào CN duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là sự thể hiện về trình độ văn
hoá, khoa học của chủ thể nhận thức có thể khẳng định rằng, ở một mức độ
nào đó, người ta không thể có được tư duy biện chứng khoa học khi trình độ
văn hoá, khoa học chưa đạt đến một chuẩn mực cần có. Vì vậy, sự yếu kém
về trình độ văn hoá, khoa học sẽ tất yếu dẫn đến tư duy kinh nghiệm và phạm
phải sai lầm chủ quan duy ý chí.
Do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận mà dẫn đến lãng quên việc
thường xuyên chủ động nâng cạo năng lực tư duy lý luận (trong đó bao gồm
cả quá trình học tập lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn).Bệnh chủ quan duy ý
chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá
trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh
này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa
duy tâm một cách không tự giác. Bệnh chủ quan chỉ thể hiện khuynh hướng
tuyệt đối hóa vai trò của chủ thể trong nhận thức và hành động. Phủ nhận
hoàn toàn hay một phần nào đó bản chất và tính quy luật của hiện thực khách
quan, dẫn đến một số chính sách, đường lối sai lầm, tiêu biểu là “ cách phân
12
loại nợ”. Theo quy định hiện hành về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
(TCTD), “nợ xấu” là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 (Quyết định số

493/2005/QĐ-NHNN). Trong đó nợ nhóm 3 (nợ dưới chuẩn) là các khoản nợ
được đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi; Nợ nhóm 4 (nợ
nghi ngờ) là các khoản nợ có khả năng tổn thất rất cao và nợ nhóm 5 (nợ có
khả năng mất vốn) là các khoản nợ được coi là không còn khả năng thu hồi,
mất vốn. Thông thường ở các nước đang phát triển, nếu nợ xấu của các ngân
hàng được phân loại theo các chỉ tiêu định lượng và định tính phù hợp với
thông lệ quốc tế, thì tỷ lệ này dưới 5% cũng là bình thường. Tuy nhiên, ở Việt
Nam còn có sự khác nhau về năng lực quản trị rủi ro và việc xếp hạng tín
dụng nội bộ. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại các NHTM Việt Nam hiện
nay đều được xây dựng theo phương pháp chuyên gia, nghĩa là việc lựa chọn,
quyết định toàn bộ các yếu tố cơ bản của hệ thống xếp hạng (bộ chỉ tiêu, trọng
số của từng chỉ tiêu) hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của các
chuyên gia thay vì dựa trên dữ liệu thống kê lịch sử và phân tích mô hình kinh
tế lượng. Kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ chưa là cơ sở xây dựng các thước
đo lượng hóa rủi ro, hỗ trợ tính toán chuẩn xác tổn thất dự tính và yêu cầu vốn
tối thiểu bù đắp rủi ro. Điều này dẫn đến hạn chế trong quản trị rủi ro danh
mục, định giá tín dụng và xác định khẩu vị rủi ro… của từng ngân hàng.
Hiện nay, quản trị rủi ro tín dụng tại mỗi ngân hàng thường theo những
khẩu vị rủi ro riêng. Vấn đề này đã dẫn đến một số bất cập trong việc so sánh,
đánh giá cùng một đối tượng khách hàng nhưng lại có kết quả khác nhau,
nhiều khi xung đột (cùng 1 khách hàng, có ngân hàng phân loại vào nhóm nợ
cao, có ngân hàng lại phân loại vào nhóm nợ thấp). Mặt khác, việc triển khai
xếp hạng khách hàng đòi hỏi đội ngũ chuyên gia nhiều kinh nghiệm thực tiễn
cũng như am hiểu sau sắc mô hình xếp hạng tín dụng (modelling), trong khi
thị trường nhân lực hiện tại của Việt Nam còn rất thiếu.
13
Trong vấn đề cho vay, cán bộ ngân hàng cũng chủ quan khi không giám
sát hoạt động kinh doanh của khách hàng, khiến nhiều trường hợp khách hàng
vay vốn ngân hàng và sử dụng không đúng mục đích gây thất thoát và mất
vốn…

2.3 Bệnh kinh nghiệm còn biểu hiện ở chỗ chúng gắn chặt với bệnh
giáo điều chủ nghĩa:
Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ
sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của CNDV biện chứng, do đó,
dẫn đến hạn chế khả năng áp dụng tri thức một cách linh hoạt, sáng tạo vào
cuộc sống và không hiểu được tính biện chứng của quá trình nhận thức cũng
như biện chứng của lịch sử xã hội.
Trong thực tiễn, đôi khi bệnh giáo điều biểu hiện ở việc áp dụng cái
chung vào cái riêng một cách đơn giản, lấy cái phổ biến áp đặt cho cái riêng,
cái đặc thù, hoặc áp. dụng một lý thuyết, một mô hình chưa được kiểm
nghiệm thực sự bởi thực tiễn. Sai lấm đó chính là ở chỗ, như Lênin nói: "Nêu
chỉ biết bắt chước, không có tinh thần phê phán mà đem rập khuôn kinh
nghiệm đó một cách mù quáng vào những điều kiện khác, như thế là sai lầm
nghiêm trọng".
Hai bệnh này gắn chặt chẽ với nhau do cùng chung một nguyên nhân là
bắt nguồn từ trình độ yếu kém trong nhận thức, sai lầm về vai trò lý luận, lười
biếng trong nghiên cứu, học tập của cán bộ tín dụng. Khiến họ thu thập thông
tin về khách hàng vừa thiếu, vừa không chuẩn xác, ví dụn như nhiều mảng
trong hồ sơ tín dụng thường được bê từ khách hàng này sang khách hàng
khác, thiếu sự thẩm định xác minh thực tế, trong khi mỗi khách hàng là một
chủ thể riêng rẽ với từng điều kiện kinh doanh, từng khả năng tài chính và
từng tài sản đảm bảo khác biệt nhau… Điều này gây không ít khó khăn cho
ngân hàng trong việc thiết lập quan hệ tín dụng.
Ở Việt Nam, trên 90% là DN nhỏ và vừa, không ít DN có báo cáo tài
14
chính không chuẩn xác, lại không qua kiểm toán. Ngay cả đối với các DN lớn
được kiểm toán thì sự chậm trễ trong công bố báo cáo tài chính cũng như chất
lượng kiểm toán chưa cao cũng gây nhiều khó khăn cho các ngân hàng. Vì
thế, việc dựa vào một số thông tin đầu vào để cấp tín dụng, đã dẫn đến một số
khoản vay vừa ra khỏi ngân hàng đã khó có khả năng thu hồi. Đặc biệt, khi

ngân hàng và DN lại có mối quan hệ “mật thiết”, phụ thuộc lẫn nhau (sở hữu
chéo) thì nguồn lực dễ bị phân bổ sai lệch, bất hợp lý, cho vay bất chấp các
quy định về an toàn vốn, nợ xấu tất yếu sẽ tăng lên.
Tóm lại, những bất cập trong phân loại nợ, vấn đề sở hữu chéo, vấn đề
đạo đức nghệ nghiệp đã làm nảy sinh nợ xấu tại các ngân hàng và có chiều
hướng ngày càng tăng. Cho dù nợ xấu ở mức nào thì hiện tại đã và đang tác
động tiêu cực đến điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, đến việc lưu thông
dòng vốn vào nền kinh tế và tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các
ngân hàng. Chừng nào chưa xử lý được vấn đề này thì việc tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng Việt Nam sẽ không đạt hiệu quả.
II/ Nguyên nhân và Cách khắc phục:
1/ Nguyên nhân:
Bệnh kinh nghiệm trong ngành ngân hàng có nhiều nguyên nhân có
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Có những nguyên nhân
chung của cả nền kinh tế và có cả những nguyên nhân mang tính đặc thù của
ngành. Trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
1.1 Ảnh hưởng của nền kinh tế- xã hội, trình độ khoa học và lý luận
còn hạn chế:
Có thể nói đây là một trong những nguyên nhân sau xa dẫn đến bệnh
kinh nghiệm trong ngành tài chính ngân hàng. Như chúng ta đã biết Sau Cách
mạng Tháng Tám 1945, tình hình tài chính - tiền tệ của chính quyền cách
mạng gặp vô vàn khó khăn: Kho bạc chỉ còn hơn 1,25 triệu đồng Đông
Dương, trong đó một nửa là tiền rách; Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong
tay tư bản thực dân và luôn tìm cách phá hoại ta về tài chính, tiền tệ; các
15
nguồn thu ngân sách quá ít ỏi so với nhu cầu chi tiêu của chính quyền…
Trước tình hình đó, Chính phủ đã kêu gọi nhân dân quyên góp tài chính dưới
các hình thức như “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ vàng”, đồng thời gấp rút chuẩn bị
phát hành tiền.Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam từng bước được hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu của nhiệm

vụ cách mạng.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, nước ta bước sang một thời kỳ mới:
thời kỳ hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để khôi phục và phát
triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh…
Tuy đạt được một số kết quả tích cực trong khôi phục và phát triển kinh
tế - xã hội, song do hậu quả của chiến tranh kéo dài, cộng với việc duy trì quá
lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã khiến kinh tế nước ta rơi vào tình trạng
suy thoái nặng nề, bội chi ngân sách ở mức cao trong nhiều năm, lạm phát có
lúc ở mức 3 con số, hoạt động sản xuất, lưu thông phân phối và đời sống nhân
dân gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy sự tụt hậu về trình độ khoa học về
tri thức lý luận cũng như tri thức thực tiễn của chúng ta là không thể tránh
khỏi.
1.2. Những hạn chế của công tác đào tạo:
Công tác đào tạo tuy có phát triển mạnh trong những năm gần đây nhưng
vẫn còn nhiều bất cập, ví dụ như thiếu môi trường cho sinh viên có thể thực
hành, làm sinh viên ít được cọ sát học hỏi kinh nghiệm dẫn đến việc thiếu kỹ
năng mềm , làm sinh viên khó hòa nhập với công việc sau khi rời ghế nhà
trường. Khi đi làm cũng có ít những buổi học tập đào tạo bài bản, ít có những
buổi đúc kết học hỏi kinh nghiệm nên cán bộ chủ yếu áp dụng những kinh
nghiệm manh mún, riêng lẻ, thiếu cơ sở lý luận…
1.3. Do bản thân sinh viên, cán bộ thiếu ý thức tự học hỏi, trau dồi
kiến thức:
16
Sinh viên học tập trên ghế nhà trường còn rất thụ động trong việc nắm
giữ tri thức, thiếu tính thực hành, vẫn còn gói gọn tư tưởng trong sách vở
thiếu thực tế, cọ sát với nền kinh tế năng động bên ngoài. Đó cũng chính là
một trong những nguyên nhân dẫn đến sai lầm trong nhận thức và sự chậm
tiến bộ sau này.
Những cán bộ hiện đang làm việc cũng có hiện tượng lười suy nghĩ, bảo

thủ, ít lắng nghe người khác. Họ bận bịu với công việc nên càng ít có thời
gian nghiên cứu những vấn đề tri thức mới dễ bị lạc hậu trong nhận thức…
2. Cách khắc phục:
2.1.Nâng cao trình độ nhận thức , trình độ chuyên môn của đội ngũ
cán bộ:
Đối với cán bộ ngân hàng đặc biệt là đội ngũ cán bộ tín dụng phải được:
“ coi trọng cả đức và tài” Đức và Tài có mối quan hệ biện chứng tác động
qua lại lẫn nhau.Việc nâng cao trình độ lý luận của cán bộ thông qua con
đường đào tạo và bồi dưỡng cả về nghiệp vụ lẫn tư cách đạo đức. Đây là một
nhiệm vụ quan trọng vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài góp phần
từng bước ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm trong ngành ngân hàng.
2.2. Cần xây dựng một vành đai luật pháp, tạo cơ sở lý luận vững
chắc cho ngành Tài chính ngân hàng nói chung và ngành tín dụng nói
riêng.
Đây là một biện pháp lâu dài nhằm xây dưng cơ sở lý luận, nâng cao tri
thức lý luận cho cán bộ ngân hàng, tạo tiền đề hành lang pháp lý, những quy
định… của ngành góp phần phát triển ngành cũng như tạo sự ổn định phát
triển nền kinh tế lâu dài.
2.3. Thường xuyên có những buổi họp tổng kết đánh giá công việc:
Mang tính chất tổng kết chia sẻ kinh nghiệm trong công việc cũng như
trong cuộc sống, nó giúp ta không chỉ dừng lại ở những kinh nghiệm cụ thể,
cá biệt, không bị trói buộc vào một thực tiễn cụ thể nào. Từ đó rút ta những
17
kinh nghiệm và khắc phục triệt để mầm mống của bệnh kinh nghiệm trong đôi
ngũ cán bộ.
2.4. Có chế độ khen thưởng kỷ luật rõ ràng:
Chúng ta cần nêu ra những gương tốt, có chế độ khen thưởng thỏa đáng,
từ đó nhân rộng điển hình, đồng thời những vụ việc sai trái, cần tìm ra nguyên
nhân, truy cứu trách nhiệm và kỷ luật thích đáng, làm bài học cho các cán bộ
khác.

18
C/ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT CƠ CHẾ XỬ LÝ NỢ XẤU
TRONG NGÂN HÀNG
1. Về phía các ngân hàng thương mại
Đối với khối nợ xấu cũ, các NHTM cần:
Xử lý từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. Tìm mọi biện
pháp để thanh lý/phát mại tài sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu để thu hồi
nợ.
Chủ động phối hợp khách hàng thực hiện cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả
nợ đối với những khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời nhưng có triển
vọng kinh doanh khi giải quyết được nợ xấu; Tiếp tục giảm lãi suất xuống để
thực hiện các khoản cho vay mới, giúp DN giảm chi phí đầu vào, bán được
hàng, có điều kiện trả nợ ngân hàng.
Bán nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các NHTM, Công
ty mua bán nợ trực thuộc NHNN, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) của
Bộ Tài chính.
Cần phải thấy rằng, để xảy ra nợ xấu, trách nhiệm đầu tiên thuộc về ngân
hàng (do nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại) nhưng các ngân
hàng không thể tự tạo ra nợ xấu. Nợ xấu là do các con nợ - DN/cá nhân vay
vốn đến hạn không trả được nợ, mà việc không trả được nợ cho các ngân
hàng có nguyên nhân cơ bản do yếu kém chủ quan của bản thân DN nhưng
không thể bỏ qua nguyên nhân từ cơ chế chính sách, từ quản lý vĩ mô. Vì vậy,
xử lý nợ xấu lúc này không chỉ là trách nhiệm đơn lẻ của các ngân hàng, DN
mà cần có sự tham gia của Nhà nước với mục tiêu phải đạt được trong việc xử
lý nợ xấu là tạo điều kiện để các ngân hàng thiết lập quan hệ tín dụng mới,
giúp DN còn khả năng hoạt động vay vốn, đồng thời thanh lọc những DN,
ngân hàng yếu kém trong sản xuất kinh doanh; Thông qua xử lý nợ xấu, các
ngân hàng mới có điều kiện tiếp tục hạ lãi suất tiền vay.
19
Việc xử lý nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng

cũng có điểm thuận lợi là công ty con của ngân hàng nên có điều kiện hiểu rõ
từng khoản vay đối với khách hàng. Khi chuyển nợ xấu cho công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản của ngân hàng, công ty có thể chủ động, nhanh chóng
tìm khách hàng để bán tài sản thu hồi vốn cho ngân hàng. Tuy nhiên, để công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng xử lý nợ xấu hiệu quả, cần
xây dựng cơ chế mua bán nợ rõ ràng, minh bạch, có sự tham gia giám sát chặt
chẽ của NHNN, để tránh tình trạng nợ xấu trên bảng cân đối của ngân hàng có
thể giảm nhưng chất lượng nợ không thay đổi, do không giải quyết tận gốc
vấn đề.
Nếu bán nợ xấu cho DATC thuộc Bộ Tài chính thực hiện, rất cần một cơ
chế mua bán rõ ràng thì hoạt động mua bán các khoản nợ xấu của ngân hàng
mới có hiệu quả.
Do tính phức tạp của các khoản nợ xấu trong ngân hàng, trong bối cảnh
áp lực xã hội rất lớn về vấn đề giải trình thì vấn đề đặt ra là thành lập công ty
mua bán nợ trực thuộc NHNN hay công ty mua bán nợ quốc gia (AMC) phải
đủ quyền lực, được hỗ trợ bởi các chuyên gia giỏi về lĩnh vực này, với những
bước đi hợp lý, với sự phát triển của thị trường mua bán nợ Việt Nam.
Cùng với với việc xử lý nợ xấu cũ, các NHTM cần coi trọng đúng mức
đến việc hạn chế nợ xấu mới nảy sinh bằng cách:
Rà soát lại phân loại nợ, tiến tới việc phân loại nợ theo thông lệ quốc tế.
Để làm được việc này các ngân hàng cần phải (i) Hoàn thiện hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ theo chuẩn Basel II. Việc xếp hạng tín dụng phải căn cứ
trên các số liệu thống kê lịch sử của chính ngân hàng cho các đối tượng khách
hàng để tính toán các thước đo rủi ro xác suất/khả năng xảy ra vỡ nợ (PD);
tổn thất có thể xảy ra do vỡ nợ (LGD) và rủi ro vỡ nợ (EAD) cho các đối
tượng này; đồng thời áp dụng các điều chỉnh cần thiết trên cơ sở ý kiến của
chuyên gia. Có như vậy, việc xếp hạng tín dụng mới thực sự là công cụ hạn
20
chế rủi ro trong hoạt động tín dụng và là căn cứ để định giá theo rủi ro của
ngân hàng. (ii) Mặt khác chất lượng của xếp hạng khách hàng phụ thuộc lớn

vào mô hình tổ chức và đội ngũ nhân sự của chính ngân hàng. Vì thế, việc
hoàn thiện mô hình tổ chức theo hướng tuân thủ các nguyên tắc về quản trị
DN, đảm bảo phân tách rõ trách nhiệm giữa các bộ phận liên quan trong việc
quản lý rủi ro; tránh xung đột lợi ích là vấn đề cốt lõi để giảm thiểu nợ xấu
nảy sinh trong hoạt động tín dụng.
Giám sát việc triển khai và ứng dụng xếp hạng tín dụng trong hoạt động
để giảm thiểu rủi ro nhằm đảm bảo hệ thống xếp hạng tín dụng không ngừng
được hoàn thiện và nâng cao chất lượng, đòi hỏi nâng cấp hệ thống công nghệ
thông tin để đảm bảo hệ thống vận hành có hiệu quả. Định kỳ hoặc đột xuất
kiểm tra việc tuân thủ các quy định xếp hạng tín dụng, đảm bảo chất lượng
thông tin đầu vào nhằm ngăn ngừa những sai sót do vô tình hay cố ý đánh giá
khách hàng theo ý kiến chủ quan của một, hay nhóm người, làm sai lệch kết
quả xếp hạng, dẫn đến các quyết định cho vay không chuẩn.
2.Về phía doanh nghiệp vay vốn
Giải quyết hàng tồn kho là vấn đề cấp bách hiện nay. Để xử lý hàng tồn
kho, ngoài việc hạ giá bán (chấp nhận lỗ) để thu hồi vốn về quay vòng thì một
hình thức liên kết giữa các DN, sử dụng các sản phẩm của nhau cũng là cách
làm hiện nay. Bên cạnh đó, việc minh bạch thông tin tài chính, nâng cao khả
năng quản trị DN, để tạo niền tin trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
3.Về phía Ngân hàng Nhà nước
Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý để các ngân hàng có căn cứ thực
hiện xếp hạng tín dụng nội bộ, hướng theo thông lệ quốc tế. Song song với
việc xây dựng, hoàn thiện xếp hạng tín dụng nội bộ, cần có chính sách phát
triển các đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập làm cơ sở tham chiếu chung trong
công tác xếp hạng tín dụng. Kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực cho
thấy, việc phát triển các tổ chức xếp hạng tín dụng không do Nhà nước quản
21
lý để hạn chế việc chi phối của tổ chức hay cá nhân làm sai lệch kết quả xếp
hạng là rất quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Nhanh chóng xử lý những bất ổn trong nội tại của một số ngân hàng,

giám sát dòng tiền luân chuyển trong nội bộ ngân hàng. Đây là một trong
những nguyên nhân cơ bản làm hệ thống ngân hàng luôn bất ổn, và tích tụ rủi
ro hệ thống lớn. Khi giám sát được dòng vốn ra khỏi vòng luẩn quẩn bởi một
số ngân hàng, nợ xấu của các ngân hàng thương mại có điều kiện được xử lý,
điểm nghẽn về vốn sẽ được khắc phục, việc tiếp cận vốn của DN sẽ dễ dàng
hơn.
4.Về phía bản thân cán bộ:
Cần cố gắng tự học tập, nghiên cứu, thường xuyên trau dồi kiến thức
chuyên môn cũng như tri thức về lý luận. Mỗi cán bộ cần phải nâng cao tinh
thần học hỏi lẫn nhau, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm…
22
KẾT LUẬN
Nhìn vào thực tiễn phát triển nền kinh tế trong thời gian qua đặc biệt là
ngành tài chính ngân hàng cho thấy cùng với những bệnh khác đội ngũ cán bộ
tín dụng ngân hàng đã mắc bệnh kinh nghiệm, rõ ràng nó có tác hại lớn đến
hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.
Khắc phục và ngăn ngừa bệnh kinh nghiệm đã và đang là nhu cầu cấp
bách của toàn nền kinh tế. Để làm được điều này đòi hỏi toàn ngành, toàn cán
bộ phải luôn tự nâng cao nhận thức lý luận, tự trau dồi nghiệp vụ và đạo đức
cho bản thân, phát huy truyền thống cùng tương trợ giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ. Từ đó làm động lực xây dựng sự trong sáng, lành mạnh ngành tài chính
ngân hàng nói riêng và xây dựng nền kinh tế XHCN bền vững theo đúng
đường hướng chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Triết học dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học- NXB Chính trị- Hành chính.
- Tạp chí tài chính
- Website: cafef.vn
Và một số thông tin khác…
23

24

×