Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

luận văn tài chính ngân hàng Nâng cao chất lượng phân tích tài chính khách hàng tại Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.65 KB, 72 trang )

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

PVFC:

Cơng ty tài chính dầu khí

NHTM:

Ngân hàng thương mại

TSCĐ:

Tài sản cố định

TSLĐ:

Tài sản lưu động

VLĐR:

Vốn lưu động rịng

NQR:

Ngân quỹ rịng

CTTC:

Cơng ty tài chính

CIC:



Trung tâm thơng tin ngân hàng

NHNN:

Ngân hàng nhà nước

TCTD:

Tổ chức tín dụng

UT:

Uỷ thác

TCKT:

Tổ chức kinh tế

CN:

Cá nhân

PS:

Báo cáo triển khai dự án

1



DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 1: Bảng nguồn vốn và sử dụng vốn PVFC
Bảng 2: Tổng hợp các chỉ tiêu kinh doanh Giai đoạn 2003 - 2005
Bảng 3: Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2006
Bảng 4: Quy mơ tài sản có năm 2006
Bảng 5: Quy mô nguồn vốn năm 2006
Phụ lục 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của PVFC
Biểu đồ 2.1: Tổng giá trị thu xếp vốn PVFC đến năm 2006
Biểu đồ 2.2: Tín dụng với các đơn vị trong ngành của PVFC
Biểu đồ 2.3: Cho vay đối với các TCTD của PCFC
Biểu đồ 2.4: Cho vay các tổ chức kinh tế và cá nhân của PVFC
Biểu đồ 2.5: Thu từ lãi cho vay của PVFC

2


LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đang từng ngày thay đổi một cách lớn lao về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và Việt Nam cũng khơng đứng ngồi xu thế chung đó. Bước
sang thế kỷ mới sự thay đổi đó lại càng thể hiện rõ nét hơn, từ khi chuyển đổi
từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng đã có nhiều sự thay đổi mới mẻ và đầy khởi
sắc. Sự phát triển lớn mạnh của các công ty Nhà nước, đặc biệt là các tập
đồn kinh tế có ý nghĩa vơ cùng to lớn góp phần đưa kinh tế đất nước ngày
càng vững mạnh, trở thành "Con rồng Châu Á".
Cơng ty Tài chính Dầu khí là một tổ chức tài chính phi ngân hàng trực

thuộc Tập đồn Dầu khí Việt Nam, sau một thời gian hoạt động đã phát triển
lớn mạnh trên nhiều phương diện về quy mô, địa bàn lĩnh vực. Với nghiệp vụ

thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp cơng ty đã thu được lợi nhuận từ hoạt
động này. Tuy nhiên thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp cũng chứa đựng
yếu tố rủi ro khá cao. Do đó để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tang của
khách hàng song song đảm bảo và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng,
cơng tác phân tích tín dụng nói chung và cơng tác phân tích tài chính khách
hàng nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc hạn chế tối đa rủi ro tín
dụng.
Q trình học tập nghiên cứu và thực tập tại cơng ty Tài chính Dầu
khí, được sự hướng dẫn tận tình của TS Trần Đăng Khâm cũng như sự
giúp đỡ của các anh chị tại công ty, em đã lựa chọn đề tài "Nâng cao chất
lượng phân tích tài chính khách hàng tại Cơng ty Tài chính Dầu khí
Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp với mong muốn tìm hiểu kỹ hơn
hoạt động phân tích tài chính khách hàng tại cơng ty và trau dồi thêm kiến
thức cho bản thân.
3


Kết cấu của chuyên đề
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động phân tích tài
chính khách hàng tại Cơng ty Tài chính.
Chương 2: Thực trạng cơng tác phân tích tài chính khách hàng tại Cơng
ty Tài chính Dầu khí Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cơng tác phân tích tài chính
khách hàng tại Cơng ty Tài chính Dầu khí Việt Nam.
Em Xin chân thành cảm on thầy giáo và các anh chị tại PVFC đã giúp đỡ
em hoàn thành đề tài này.

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG
TẠI CƠNG TY TÀI CHÍNH

1. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠNG TY TÀI CHÍNH

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơng ty tài chính
Từ thế kỷ XV đã có những ngân hàng đầu tiên được thành lập. Có thể
thấy rất rõ lợi ích mà hệ thống các ngân hàng mang lại. Tuy nhiên ngân hàng
không phải chiếm vị trí duy nhất trong hệ thống các tổ chức tài chính trung
gian mà cịn có rất nhiều các loại hình tổ chức khác: Các cơng ty tài chính,
các cơng ty bảo hiểm, cơng ty cho th tài chính, cơng ty chứng khốn… Các
hoạt động dịch vụ tài chính của các cơng ty tài chính mới chỉ xuất hiện từ
những năm 60 của thế kỷ XX.
Có nhiều lý do cho sự xuất hiện của các cơng ty tài chính:
- Sự hạn chế của luật ngân hàng, nhiều dịch vụ tài chính, dịch vụ ngân
hàng khơng được phép mở rộng sang các địa hạt khác. Cần có những tổ chức
thích hợp đáp ứng nhu cầu đó.
4


- Hệ thống ngân hàng lúc đó khơng thể đáp ứng cho nhu cầu to lớn và đa
dạng vốn đầu tư.
Cơng ty tài chính làm một số nghiệp vụ như ngân hàng, nhưng không
phải là ngân hàng thương mại, nên hầu hết các nước đều xếp các cơng ty tài
chính vào loại hình các tổ c hức tín dụng phi ngân hàng.
1.1.1.1. Khái niệm về cơng ty tài chính
Theo Điều 2 - Nghị định của chính phủ về tổ chức và hoạt động của
cơng ty tài chính. Cơng ty tài chính được hiểu là: "LOại hình tổ chức tín
dụng phi ngân hàng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng với chức
năng chủ yếu là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để
cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính - tiền tệ và thực
hiện một số dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng theo quy định
của pháp luật. Cơng ty tài chính khơng được làm dịch vụ thanh tốn, khơng

được nhận tiền gửi dưới 1 năm".
Ở mỗi nước, tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế, bối cảnh và điều kiện mà

công ty tài chính thực hiện những chức năng khác nhau. Có thể chỉ ra đây
một vài loại hình về cơng ty tài chính:
- Loại thứ nhất: Các tổ chức tài chính chuyên môn do nhà nước thành
lập hoặc nhà nước cho phép thành lập. Loại hình này thường là các tổ chức
cơng, bán công hoặc cổ phần hoạt động trong lĩnh vực chuyên trách, tài trợ
trung hạn và dài hạn, với nguồn vốn từ ngân sách hoặc quỹ kinh doanh của
nhà nước cấp, hoặc từ phát hành các công cụ nợ: trái phiếu, tín phiếu, chứng
chỉ….
- Loại thứ hai: Các cơng ty tài chính do các ngân hàng hoặc tập đồn
ngân hàng lập ra, để thực hiện một số nghiệp vụ chuyên biệt của ngân hàng,
như chuyên về cấp bảo lãnh, đầu tư bất động sản, hoặc thuê mua thiết bị…
- Loại thứ ba: Các cơng ty tài chính do cơng ty sản xuất, thương mại lập
để tài trợ cho người mua hàng hóa của cơng ty mẹ (cơng ty tài chính bán hàng).
5


1.1.1.2. Đặc điểm của Cơng ty tài chính
Thơng qua việc tìm hiểu về các cơng ty tài chính ở một số nước: Pháp,
Malaixia, Hoa Kỳ, Singapore, Thái Lan…. có thể rút ra một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Công ty tài chính là một loại hình tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, tuy hình thành sau hệ thống các ngân hàng nhưng đã phát triển khá
nhanh, rất đa dạng về loại hình và đa dạng về dịch vụ tài chính.
Thứ hai: Cơng ty tài chính là một tổ chức tài chính trung gian vì thế
cũng đóng vai trị là cầu nối luân chuyển vốn giữa người tiết kiệm và nhà đầu
tư (nghĩa là vai trò của một nhà cung cấp tín dụng).
Sự khác nhau giữa Cơng ty tài chính với các tổ chức tín dụng khác là ở
chỗ: Các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép tiền gửi không hạn chế

về loại tiền, thời hạn. NHTM được mở tài khoản cho khách hàng đây là cơ sở
để ngân hàng tiến hành nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối các nghiệp
vụ khác. Cơng ty tài chính lại khơng được phép thực hiện các nghiệp vụ trên.
Luật pháp chỉ cho phép các cơng ty tài chính được huy động vốn trung và dài
hạn, không được phép huy động vốn ngắn hạn dưới 1 năm… Đó chính là hạn
chế lớn nhất ngăn cản sự lớn mạnh của các cơng ty tài chính.
Bên cạnh đó hành lang pháp lý cũng tạo điều kiện mở cho các cơng ty tài
chính phát triển các dịch vụ không bị hạn chế trong quy định về mở chi
nhánh, quy định cách thức huy động vốn… nhằm đáp ứng các nhu cầu dịch
vụ tài chính cho cơng chúng, mà các NHTM không đáp ứng được, hoặc cạnh
tranh với các ngân hàng thương mại ở các lĩnh vực cần chuyên sâu: đầu tư,
thuê mua, trả góp, bán hàng hóa…
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của cơng ty tài chính
Một là: cơng ty tài chính được huy động vốn từ các nguồn:
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước;
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có
6


giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo
quy định của pháp luật hiện hành;
- Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngồi nước và các tổ chức tài
chính quốc tế;
- Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và
ngồi nước.
Hai là: Cơng ty tài chính được cho vay dưới các hình thức:
- Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước.
- Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và

ngoài nước theo quy quy định hiện hành của Luật Tổ chức tín dụng và hợp
đồng uỷ thác.
- Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
Ba là: Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có
giá khác.
- Cơng ty tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố
thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá
nhân.
- Công ty tài chính được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu
và các giấy tờ có giá khác với các tổ chức tín dụng khác.
Bốn là: Bảo lãnh, cơng ty tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả
năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của cơng
ty tài chính phải được thực hiện theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60
Luật các Tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Năm là: Cơng ty tài chính được cấp tín dụng dưới các hình thức khác
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Sáu là: Công ty tài chính được thực hiện các hoạt động khác sau đây:
- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng
7


khác;
- Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng;
- Tham gia thị trường tiền tệ;
- Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng;
- Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho
các doanh nghiệp;
- Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu
tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng;

- Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho
khách hàng;
- Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ
két, cầm đồ và các dịch vụ khác.
Bảy là: Công ty tài chính được thực hiện các nghiệp vụ dưới đây sau khi
được Ngân hàng Nhà nước hoặc các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan cho
phép:
- Hoạt động ngoại hối;
- Hoạt động bao thanh toán;
- Các hoạt động khác.
1.1.3. Vai trị hoạt động phân tích tài chính khách hàng của Cơng ty
Tài chính.
Phân tích tài chính là một nguồn tài liệu quan trọng để các doanh nghiệp
đưa ra các quyết định trong từng thời kỳ hoạt động của bản thân cơng ty. Do
đó mức độ chính xác của các thơng tin từ cơng tác phân tích tài chính đưa ra
có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả hoạt động của cơng ty. Phân tích tài
chính khơng chỉ quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn cho các
nhà đầu tư, các chủ nợ có cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính của doanh
nghiệp họ đang quan tâm. Từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn nhất nhằm
8


đạt mục tiêu hiệu quả trong kinh doanh.
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm phương pháp và công
cụ cho phép thu thập và xử lý các thơng tin kế tốn và các thơng tin khác
trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và
tiềm lực của doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ, chất lượng và hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết
định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Trong quá trình kinh doanh trên thị trường như hiện nay, các doanh

nghiệp đều có quyền bình đẳng như nhau, có quyền lựa chọn ngành nghề mà
mình kinh doanh và trong sự lựa chọn tự do đó bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ
phải tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau: nhà đầu tư, người cho vay, nhà
quản lý, người lao động, ngân hàng… Mỗi đối tượng sẽ quan tâm đến tình
hình tài chính của doanh nghiệp ở những giác độ khác nhau. Đối với cơng ty
tài chính hoạt động phân tích tài chính đóng vai trị quyết định về sự tồn tại và
hiệu quả trong công việc của công ty. Cơng ty tài chính:
Với tư cách là một nhà đầu tư:
Mối quan tâm mà họ hướng đến chính là sự rủi ro, mức sinh lãi, thời
gian hồn vốn… Vì ở giác độ này họ là người bỏ vốn đầu tư cho doanh
nghiệp, cái mà họ mong muốn sẽ là lợi nhuận mà họ thu được là bao nhiêu?
Hay tỷ suất sinh lời trên một suất đầu tư là bao nhiêu? Vì vậy nhà đầu tư sẽ
chú ý đến thơng tin về tình hình tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh
doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Để từ đó đưa ra các
quyết định đầu tư đúng đắn, hạn chế hay giảm thiểu những rủi ro.
Với tư cách là nhà cung cấp tín dụng:
Cơng ty sẽ quan tâm đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Phân tích tài
chính là một khâu quan trọng trong quá trình thẩm định cho vay của cơng ty.
Cách phân tích này sẽ giúp cơng ty nhìn nhận một cách logic tình hình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và xu hướng vận
9


động của doanh nghiệp trong tương lai. Phân tích tài chính giúp cơng ty trả lời
những câu hỏi: doanh nghiệp có khả năng trả nợ hay khơng? Khả năng tự chủ
về tài chính và sử dụng nợ vay ở mức độ nào?... Và nếu doanh nghiệp gặp
khó khăn thì cơng ty có thể tư vấn cho doanh nghiệp về quyết định tài chính,
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp. Như thế bớt được nỗi lo đối với bản thân cơng ty tài chính vì có thể
theo dõi được khoản tiền cho doanh nghiệp vay. Cơng ty tài chính có thể đánh

giá rủi ro của doanh nghiệp đặc biệt là rủi ro về khả năng thanh tốn ở hiện tại
và tương lai, có thể cho doanh nghiệp vay được hay không, mức độ rủi ro mà
doanh nghiệp gánh chịu khi chấp nhận cung cấp tín dụng. Khơng những thế
trong q trình sử dụng khoản vay doanh nghiệp vẫn phải cung cấp những
báo cáo về tài chính cho cơng ty và như vậy cơng ty có thể có thể có những
can thiệp kịp thời khi doanh nghiệp có những dấu hiệu xấu.
Ngồi ra phân tích tài chính giúp cơng ty tài chính xây dựng kế hoạch
cho vay trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài
chính mỗi doanh nghiệp. Xây dựng tín dụng phù hợp sẽ giúp cho cơng ty tài
chính nâng cao hiệu quả cho vay, thu được lợi nhuận cao.
1.2. HOẠT ĐỘNG

PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG

CỦA CƠNG TY TÀI CHÍNH
1.2.1. Quy trình phân tích tài chính khách hàng của cơng ty tài
chính.
1.2.1.1. Thu thập thơng tin
Trong phân tích tài chính các cán bộ thẩm định phải thu thập sử dụng
mọi nguồn thông tin phản ánh thực trạng hoạt động tài chính của khách hàng
những nguồn thơng tin đó sẽ giúp cho người phân tích đưa ra những kết luận,
nhận xét chính xác. Cơng ty tài chính có thể thu thập thơng tin từ các nguồn
sau:
- Hồ sơ khách hàng: Thơng tin về tình hình tài chính của khách hàng
10


được cung cấp thơng tin qua báo cáo tài chính: bảng cân đối kế toán, báo cáo
lưu chuyển tiền tệ, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, thuyết minh báo
cáo tài chính, kế hoạch về tài chính trong tương lai của doanh nghiệp.

- Phỏng vấn trực tiếp khách hàng: Các thơng tin này góp phần bổ xung
thêm, xác minh lại tính chính xác, trung thực của các thơng tin thu được từ
nguồn khác.
- Từ các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng có quan hệ tín dụng, thanh
tốn với khách hàng. Xem xét mức độ tín nhiệm của ngân hàng đối với khách
hàng xem tổng dư nợ của khách hàng tại các tổ chức này, có bị nợ q hạn
hay khơng? Và doanh nghiệp dã có cách giải quyết như thế nào đối với những
khoản nợ quá hạn này.
- Thơng tin lưu trữ trong cơng ty tài chính: là những thơng tin của doanh
nghiệp đã có quan hệ kinh tế đối với công ty.
- Thông tin từ các chủ nợ, các con nợ có mối quan hệ kinh tế đối với
khách hàng đánh giá mối quan hệ về thanh toán giữa khách hàng với các chủ
nợ.
- Người phân tích tài chính có thể đến trực tiếp cơng ty cần phân tích để
xem xét tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kiểm tra tính trung
thực, chính xác của những thông tin được đưa ra trong các bản báo cáo tài
chính…
- Các nguồn thơng tin khác: Trung tâm thơng tin tín dụng của ngân hàng
nhà nước CIC, thơng tin từ các đối thủ cạnh tranh, từ các cơ quan thuế, kiểm
toán, hải quan, cơ quan quản lý thị trường… Các thông tin từ các phương tiện
thông tin đại chúng, các cơ quan báo chí…
Như vậy đối với việc thu thập thơng tin sẽ có rất nhiều nguồn khác nhau
để nhà phân tích có đủ dữ liệu trong hoạt động của minh. Tuy nhiên các thông
tin này là nhiều chiều và có những cách hiểu khác nhau về cùng một thơng tin
do đó địi hỏi nhà phân tích cần phải biết sàng lọc kỹ lưỡng các nguồn dữ liệu
11


để đưa ra kết luận chính xác về doanh nghiệp.
Cán bộ thẩm định phải đưa ra kết quả một cách chĩnh xác. Thơng qua

các dữ liệu mà mình thu thập được nhờ vào việc:
- Áp dụng chế độ kế toán, ngun tắc hạch tốn
- Nguồn số liệu có được cơ quan thuế chấp thuận hay chưa? Đã được
kiểm toán độc lập? Nguồn dữ liệu do công ty tự lập?...
- Thông qua trung tâm thơng tin tín dụng
- Phải xem xét số liệu có khớp với các báo cáo tài chính hay khơng?
1.2.1.3. Quy trình phân tích
Hoạt động phân tích tài chính diễn ra khơng mang tính chất thời điểm mà
mang ý nghĩa lâu dài và vì thế việc phân tích phải được tiến hành trước và sau
khi có quan hệ kinh tế đối với cơng ty.
Phân tích trước khi cho vay: Dựa vào nguồn dữ liệu đã qua xử lý, cơng
ty tài chính sẽ tiến hành phân tích tài chính khách hàng, đánh giá thực trạng
sản xuất kinh doanh và năng lực của doanh nghiệp trong tương lai đồng thời
dự báo nhu cầu tài trợ vốn, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, từ đó có những
quyết định tài trợ hay không tài trợ đối với doanh nghiệp ở mức độ bao nhiêu?
Và trong bao lâu?
Phân tích sau khi giải ngân: Sau khi giải ngân, công ty sẽ tiếp tục theo
dõi xem doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích hay khơng, kiểm sốt các
khoản tín dụng bằng cách theo dõi các báo cáo tài chính định kỳ, kiểm tra các
tài sản thế chấp, phân tích lại các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời, khả
năng thanh toán, nguồn trả nợ, xem xét thực trạng về sản xuất kinh doanh để
từ đó theo dõi các khoản tín dụng hay sự suy giảm chất lượng tín dụng, dự
báo nhu cầu tài chính của doanh nghiệp trong các kỳ tiếp theo. Xếp hạng các
khoản vay xem là tốt, bình thường, hay là có vấn đề đưa ra quyết định có nên
cung cấp tiếp vốn hay khơng cho doanh nghiệp. Nếu có nợ q hạn hay nợ có
vấn đề cần tìm hiểu rõ nguyên nhân và có biện pháp xử lý kịp thời.
12


1.2.1.4. Chấm điểm và xếp loại doanh nghiệp

Công ty tài chính cũng giống như các NHTM, cùng với hoạt động phân
tích thì chấm điểm khách hàng cũng rất quan trọng. Công việc này sẽ hỗ trợ
đắc lực khi công ty tài chính đưa ra quyết định kinh tế. Bởi đây là những chỉ
tiêu được chuẩn hóa cho phù hợp với bản thân cơng ty tài chính cũng như mơi
trường tài chính tại Việt Nam.
1.2.2. Nội dung phân tích tài chính khách hàng
Hoạt động phân tích tín dụng khi tiến hành cần chia làm hai lĩnh vực:
phân tích tài chính và phân tích phi tài chính đối với khách hàng. Với phân
tích tài chính là phân tích những vấn đề ít hoặc khơng liên quan đến vấn đề tài
chính của khách hàng một cách trực tiếp: uy tín của doanh nghiệp, tính cách
của doanh nghiệp. Phân tích tài chính là phân tích thực trạng tài chính và dự
báo tài chính doanh nghiệp trong tương lai nhằm tiên lượng những tình huống
xấu có thể xảy ra làm ảnh hưởng khoản vay.
Khi phân tích tài chính khách hàng các cơng ty tài chính quan tâm lớn
nhất đến khả năng trả nợ của khách hàng và vì thế cơng ty thường chú ý đến
các khoản tiền, các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền rồi đem so sánh
với khoản nợ ngắn hạn để biết khả năng chi trả của doanh nghiệp và khả năng
sinh lời từ hoạt động kinh doanh đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi của khoản
vay, đồng thời chú ý đến cơ cấu tài chính an tồn trong doanh nghiệp để
phịng ngừa rủi ro.
Nội dung phân tích tài chính đối với doanh nghiệp bao gồm:
- Cân bằng tài chính
- Phân tích các hệ số tài chính
+ Phân tích tình hình và khả năng thanh tốn ngắn hạn
+ Phân tích năng lực hoạt động của tài sản
+ Phân tích khả năng sinh lời.
+ Phân tích khả năng cân đối vốn
13



- Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
- Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian…
Tài liệu phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp gồm: báo cáo kết quả
kinh doanh, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo
cáo tài chính.
Báo cáo kết quả kinh doanh: phản ánh tồn bộ kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, dựa vào báo cáo tài
chính có thể thấy rõ kết quả hoạt động của từng loại hoạt động trong doanh
nghiệp: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư tài chính, các hoạt động bất
thường, hoạt động thực hiện nghĩa vụ với nhà nước…
Bảng cân đối kế tốn: cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại
những thời điểm nhất định, dựa vào bảng cân đối kế tốn có thể thấy được
quy mơ, cơ cấu vốn của doanh nghiệp, mức độ tự chủ và khả năng tài chính,
cũng như khả năng thanh tốn của doanh nghiệp đó…
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp các thơng tin về luồng tiền ra luồng tiền vào, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ, dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ Cơng ty Tài chính có thể xác định
được khi nào lượng tiền mặt thặng dư, khi nào bội chi, biết được các khoản dễ
chuyển đổi thành tiền, khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn.
1.2.2.1. Phân tích cân bằng tài chính
Cân bằng tài chính là sự cân bằng giữa tài sản với nguồn tài trợ tương
ứng của nó. Mỗi quan hệ trong trường hợp này thể hiện qua các phương thức,
chính sách tài trợ tài sản cố định (TSCĐ) và tài sản lưu động (TSLĐ).
Chỉ tiêu phân tích: vốn lưu động ròng (VLĐR), nhu cầu VLĐR và ngân
quỹ ròng (NQR).
VLĐR được xác định là phần chênh lệch giữa TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
với nợ ngắn hạn, hoặc VLĐR được tính là phần chênh lệch giữa nguồn vốn
dài hạn với TSCĐ và đầu tư dài hạn.
14



Còn nhu cầu VLĐR bằng (=) hàng tồn kho cộng (+) nợ phải thu của
khách hàng trừ (-) nợ phải trả ngắn hạn (không kể vay ngắn hạn).
NQR là phần chênh lệch giữa VLĐR và nhu cầu VLĐR.
- Nếu VLĐR âm liên tục qua các năm thì doanh nghiệp sẽ mất cân bằng
tài chính, tình hình và khả năng thanh tốn sẽ gặp khó khăn; tuy nhiên, để có
đánh giá đầy đủ hơn cần thông qua chỉ tiêu NQR.
+ Nếu NQR âm, có nghĩa là doanh nghiệp phải huy động các khoản vay
ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR và tài trợ cho TSCĐ; cân
bằng tài chính kém an tồn và bất lợi cho doanh nghiệp.
+ Nếu NQR dương thể hiện một cân bằng tài chính rất an tồn vì doanh
nghiệp khơng phải vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR và tài trợ cho
TSCĐ; cân bằng tài chính kém an tồn và bất lợi cho doanh nghiệp.
+ Nếu NQR dương thể hiện một cân bằng tài chính rất an tồn vì doanh
nghiệp không phải vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR.
1.2.2.2. Các nhóm chỉ tiêu sử dụng khi phân tích tài chính
a. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh tốn
Doanh nghiệp được nhìn nhận làm ăn có hiệu quả khơng chỉ thể hiện
thơng qua mức lợi nhuận cao mà còn thể hiện ở khả năng thanh tốn. Nhìn
vào một doanh nghiệp làm ăn có lãi nhưng việc có lãi đó chủ yếu là mua bán
chịu và đi vay nợ thì đó khơng thể coi là một doanh nghiệp có tình hình tài
chính vững mạnh. Đối với những nhà đầu tư và những nhà tài trợ, những chỉ
tiêu phản ánh khả năng thanh toán được coi là vơ cùng quan trọng, nó quyết
định đến khả năng được tài trợ và được các nhà đầu tư chú ý đến. Nhóm chỉ
tiêu này bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Khả năng thanh toán hiện hành=
Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh tốn
ngắn hạn của doanh nghiệp nó cho biết khả năng mà các tài sản lưu động có
15



thể chuyển hóa thành tiền để trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên
nếu hệ số này cao q cũng khơng tốt vì khi đó doanh nghiệp đã tập trung quá
nhiều vốn vào tài sản lưu động mà không đầu tư vào hoạt động sinh lời tức là
đầu tư khơng hiệu quả.
Để đo lường khả năng thanh tốn, chúng ta tính chỉ tiêu:
Hệ số thanh tốn nhanh =
Hệ số là thước đo khả năng thanh toán của nhanh của doanh nghiệp
không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (hàng tồn kho). Vì vốn bằng tiền
+ Các khoản phải thu = Tài sản lưu động - Hàng tồn kho và hàng tồn kho khó
chuyển đổi thành tiền hơn các tài sản lưu động khác, khi bán dễ bị lỗ nhất. Tỷ
số này quá cao cũng không tốt.
Hệ số thanh toán tức thời =
Hệ số này cho biết khả năng huy động các nguồn tiền có thể huy động
nhanh và các chứng khốn có thể dễ dàng chuyển đổi được thành tiền để trả
nợ, tỷ lệ này < 0,5 là tốt, thể hiện lượng tiền quá nhiều gây hiện tượng sử
dụng vốn khơng hiệu quả.
Khi phân tích khả năng thanh tốn đối với doanh nghiệp, ngồi những
chỉ tiêu tính được, cần chú ý đến khả năng tạo tiền, sự tăng trưởng và những
nguyên nhân ảnh hưởng đến sự gia tăng các khoản phải thu và hàng tồn kho.
Vì đây là những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh tốn của doanh
nghiệp.
b. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng cân đối vốn
Nhóm chỉ tiêu này dùng để đo lường phần vốn góp các chủ sở hữu của
doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với các doanh nghiệp,
phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ
vay của doanh nghiệp. Nếu hệ số nợ càng thấp (hay tỷ suất tự tài trợ càng cao)
thì sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào người cho vay càng ít, món nợ của
người cho vay càng được đảm bảo và do vậy việc cho vay càng an toàn và
16



ngược lại sẽ kém an toàn.
Hệ số nợ trên tổng tài sản =
Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với
các chủ nợ. Thơng thường, các chủ nợ thích tỷ số này vừa phải vì tỷ số này
càng thấp thì khoản nợ càng cao được bảo đảm trong trường hợp doanh
nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, chủ sở hữu doanh nghiệp lại muốn tỷ số này
cao vì họ muốn nắm quyền điều hành và kiểm soát, muốn lợi nhuận gia tăng
nhanh. Tỷ số này quá cao doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh tốn.
=
Hệ số này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả năng trả lãi hàng
năm như thế nào. Đây cũng là chỉ tiêu mà doanh nghiệp quan tâm phân tích vì
nó thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hệ số này càng cao thì rủi
ro mất khả năng chi trả lãi tiền vay càng thấp và ngược lại. Các chủ nợ thường
chấp nhận mức lớn hơn hoặc bằng 2.
c. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
Các chỉ tiêu về khả năng hoạt động đánh giá hiệu quả việc sử dụng vốn
nói chung, chú trọng đến từng bộ phận cấu thành nên nguồn vốn của doanh
nghiệp.
Vòng quay hàng tồn =
Chỉ tiêu này đo lường khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Bình qn một đơn vị sản phẩm hàng hóa dự trữ tham gia vào quá trình kinh
doanh thì thu được bao nhiêu đồng giá vốn. Hệ số này càng cao thể hiện việc
thu tiền bán hàng nhanh, doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn, hoạt động kinh
doanh càng tốt và ngược lại. Khi phân tích đánh giá cần so sánh với các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng ngành nghề để so sánh. Nếu vòng
quay hàng tồn kho của khách hàng thấp, cán bộ thẩm định cần tìm hiểu kỹ
xem có hàng tồn kho mất phẩm chất, kém chất lượng hay mẫu mã không phù
17



hợp với thị hiếu của người tiêu dùng hay khơng.
Vịng quay vốn lưu động =
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ kinh doanh vốn lưu động quay được bao
nhiêu vòng. Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động cao và
ngược lại.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Hiệu suất tài sản cố định nói lên cứ một đồng tài sản đưa vào hoạt động
sản xuất kinh doanh trong một kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập. Nếu so
với kỳ trước hệ số này giảm chứng tỏ sức sản xuất của tổng tài sản giảm.
Kỳ thu tiền bình quân =
Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong
thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày.
Nếu kỳ thu tiền bình quân cao, chứng tỏ doanh nghiệp bị ứ đọng vốn ở các
khoản phải thu hoặc doanh thu bình quân một ngày nhỏ là do hàng hóa khơng
tiêu thụ được, nếu tỷ số này thấp chứng tỏ khả năng thu hồi vốn của doanh
nghiệp nhanh.
d. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
Phân tích khả năng sinh lời là một trong những nội dung phân tích mà
các nhà quản trị tài chính, các nhà cho vay, đầu tư quan tâm vì nó gắn liền với
lợi ích của họ.
Hệ số sinh lợi doanh =
Đây là chỉ tiêu phản ánh trong một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng
lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này có thể thay đổi do chi phí hoặc giá bán sản
phẩm thay đổi. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu phụ thuộc vào tỷ lệ thuế thu
nhập doanh nghiệp và doanh thu thuần, nếu doanh thu thuần lớn do giá bán
tăng cao chứng tỏ khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là cao, phù hợp
với thị hiếu, doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Hệ số sinh lời của tài sản =

18


Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời
của một đồng vốn đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản phản ánh 1 đồng
giá trị tài sản doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh tạo ra mấy
đồng lợi nhuận trước thuế.
Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu =
Đây là chỉ tiêu đo lường mức độ sinh lời của vốn chủ sở hữu, phản ánh 1
đồng vốn chủ sở hữu bỏ vào kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lời nhuận
sau thuế.
Tỷ lệ càng lớn biểu hiện xu hướng tích cực, doanh nghiệp có thể đi tìm
vốn mới trên thị trường để tài trợ cho tăng trưởng của mình. Ngược lại nếu
nhỏ và dưới mức của tỷ lệ thị trường thì doanh nghiệp sẽ khó khăn trong việc
thu hút vốn. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh lời vốn chủ sở hữu cao không phải lúc nào
cũng thuận lợi bở lẽ có thể do vốn chủ sở hữu nhỏ, điều này thể hiện mức độ
mạo hiểm càng lớn.
1.2.2.3. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
Người ta thường xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử
dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời
điểm lập bảng cân đối kế tốn.
Một trong những cơng cụ mà các nhà tài chính sử dụng đó là bảng kê
nguồn vốn và sử dụng vốn. Nó giúp nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung
ứng vốn và việc sử dụng các nguồn cung ứng đó.
Để lập được bảng này trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục
trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân
biệt ở 2 cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc:
- Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn
vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn.
- Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn

19


vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn.
Bảng 1: Bảng nguồn vốn và sử dụng vốn
Sử dụng vốn
Chỉ tiêu
Số tiền
Tăng tài sản
Giảm nguồn vốn
Tổng vốn

Nguồn vốn
Chỉ tiêu
Số tiền
Giảm tài sản

%

100

%

Tăng nguồn vốn
Tổng nguồn vốn

1.2.2.4. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian
Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích thường kết hợp chặt chẽ
những đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá về trạng thái động để
đưa ra một bức tranh toàn cảnh về doanh nghiệp. Thơng qua các báo cáo tài

chính các nhà phân tích đánh giá những thay đổi về ngân quỹ của doanh
nghiệp. Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp người ta còn
chú trọng tới các chỉ tiêu quản lý tài chính trung gian nhằm đánh giá chi tiết
hơn về tình hình tài chính và dự báo những điểm mạnh điểm yếu của doanh
nghiệp: Lãi gộp, thu nhập trước khấu hao và lãi,…
1.2.3. Phương pháp phân tích
1.2.3.1. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính,
khi thực hiện phép so sánh thì hai số liệu đưa ra cần đảm bảo các điều kiện:
- Cùng nội dung kinh tế.
- Thống nhất về phương pháp tính
- Cùng đơn vị đo lường và được thu thập trong cùng một độ dài thời
gian.
- Các chỉ tiêu phải được quy đổi về cùng một quy mơ và điều kiện kinh
doanh tương tự nhau.
Có thể so sánh số tuyệt đối, so sánh số tương dối, hoặc so sánh bằng số
bình quân. Nội dung so sánh gồm:
20


- So sánh giữa số thực hiện kỳ này và số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp.
- So sánh giữa số liệu của Doanh nghiệp với số liệu của ngành, của các
doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình
đang phân tích tốt hay xấu, được hay chưa được.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so sánh
với tổng thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về
số lượng tuyệt đối và số tương đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế

toán liên tiếp.
Sử dụng phương pháp so sánh nhăm mục đích:
- Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch mà doanh nghiệp đã
đặt ra bằng cách so sánh giữa trị số của chỉ tiêu kỳ thực tế với trị số của chỉ
tiêu kỳ kế hoạch.
- Đánh giá tốc độ, xu hướng phát triển của hiện tượng và kết quả kinh tế
thông qua việc so sánh giữa kết quả kỳ này với kết quả kỳ trước.
- Đánh giá mức độ tiên tiến hay lạc hậu của đơn vị bằng cách so sánh
giữa kết quả của bộ phận hay của đơn vị thành viên với kết quả trung bình của
tổng thể hoặc so sánh giữa kết quả của đơn vị này với kết quả của đơn vị khác
có cùng quy mô hoạt động, trong cùng một lĩnh vực hoạt động.
1.2.3.2. Phương pháp tỷ lệ
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ cố nhiên là sự biến đổi
các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác
định được các ngưỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình tài
chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ doanh nghiệp với giá trị các
tỷ lệ tham chiếu.
21


Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân
thành các nhóm đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh tốn,
nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động
kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời.
Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận
của hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ
phân tích, người phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ
mục tiêu phân tích tài chính của mình.

1.2.4. Chất lượng phân tích tài chính khách hàng của cơng ty tài
chính
1.2.4.1. Khái niệm về chất lượng phân tích tài chính
Hoạt động phân tích tài chính được coi là có chất lượng khi tạo ra sự
đánh giá chính xác, trung thực, khách quan về hoạt động tài chính của doanh
nghiệp được phân tích, từ đó hỗ trợ tốt nhất cho việc ra quyết định tài chính
của cơng ty tài chính. Chất lượng của quyết định tài chính phản ánh chất
lượng phân tích tài chính. Như vậy có thể hiểu chất lượng phân tích tài chính
là tồn bộ các đặc tính của hoạt động phân tích đáp ứng với u cầu và mục
đích của cơng ty tài chính cũng như các ngân hàng. Thông tin và phương
pháp xử lý thơng tin phục vụ cho hoạt động phân tích, sự phù hợp của các chỉ
tiêu phân tích là những điểm quan trọng của chất lượng phân tích và có ảnh
hưởng đến sử dụng kết quả phân tích.
Mặt khác, hoạt động phân tích tài chính được coi là có chất lượng khi
được thực hiện với chi phí thấp nhất và thời gian nhanh nhất. Một phân tích
tốt phải được yêu cầu của cơng ty tài chính, phù hợp với chiến lược hoạt động
và phát triển của cơng ty.
Phân tích tài chính khơng chỉ đơn thuần là việc khái qt tình hình tài
chính của doanh nghiệp: việc tính tốn đơn thuần một vài chỉ tiêu mang tính
22


dân dập khn, máy móc, theo mẫu quy định sẵn mà cần phải tìm tịi, nghiên
cứu những chỉ tiêu mới sau đó kết hợp các chỉ tiêu đặt trong mối quan hệ hữu
cơ để so sánh. Các quyết định tài chính có được là kết quả từ sự logic, khoa
học… giữa các chỉ tiêu để đưa ra những quyết định tài chính phù hợp với hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính
Bên cạnh các chỉ tiêu tài chính đã đề cập đến ở phần trên, khi phân tích
tài chính có chất lượng, có thể tính đến một số yếu tố sau:

- Các chỉ tiêu trực tiếp
Khối lượng thông tin cần phân tích
Thơng thường thơng tin cần cho phân tích là các báo cáo tài chính, kết
quả kinh doanh… của doanh nghiệp trong một vài năm gần với năm phân
tích. Tuy nhiên để chất lượng phân tích tài chính được nâng cao, khối lượng
thơng tin phân tích khơng chỉ dừng lại ở đó. Trong q trình thu thập thong
tin nhà phân tích phải có được nhiều nguồn thơng tin khác (thơng tin mang
tính nhiều chiều) để có được kết quả phân tích tốt nhất, chính xác nhất. Thơng
tin nội bộ doanh nghiệp, thơng tin từ bên ngồi…
Thời gian phân tích tài chính
Hoạt động phân tích có thể diễn ra trong một thời gian xác định, tuy
nhiên phải đảm bảo cho công ty tài chính đưa ra kết luận kịp thời, nhằm tiết
kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả hoạt động cho cơng ty tài chính. Trong
kinh doanh thời gian là vàng bạc, nếu chậm trễ trong phân tích tài chính
khách hàng có thể cơng ty sẽ mất thêm một khoản chi phí hoặc khách hàng sẽ
mất đi cơ hội kinh doanh…
Chi phí phân tích tài chính
Chi phí hoạt động phân tích phải thấp nhất có thể tuy nhiên vẫn phải đảm
bảo chi trả đầy đủ cho các công việc trong q trình phân tích. Muốn làm
được điều này, cơng ty cần phải có được nguồn thơng tin "giá rẻ" tức là công
23


ty phải biết tìm kiếm, khai thác để giảm chi phí cho cơng tác phân tích tài
chính. Chi phí thấp sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt
động này, là tiền đề để cải thiện tích cực hiệu quả hoạt động của cơng ty.
Tính chính xác của kết quả phân tích
Độ chính xác của các chỉ tiêu tính được ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng phân tích tài chính như: khả năng thanh tốn, cơ cấu tài chính, khả năng
sinh lời… Cùng với đó là các nhân tố tác động như: quan điểm của nhà quản

lý về phân tích tài chính doanh nghiệp, cơng tác tổ chức phân tích tài chính,
người thực hiện phân tích tài chính…. Ở đây độ chính xác được quan tâm hàng
đầu, bởi vì phân tích tài chính dựa trên các con số tính tốn được và chọn ra chỉ tiêu
nào cần thiết phục vụ cho mục tiêu phân tích, dựa trên các con số này mà mà các
nhà phân tích đưa ra những quyết định tài chính và những giải pháp. Do vậy chỉ cần
một sự nhầm lẫn nhỏ cũng có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong các kết
luận tài chính.
Thơng tin được cung cấp đầy đủ

Khi nhà phân tích có được lượng thơng tin đầy đủ thì sẽ dễ dàng hơn rất
nhiều cho người phân tích. Vì khi đó nhà phân tích sẽ có đủ cơ sở để sử dụng
các phương pháp đưa ra những kết luận một chính xác hơn.
Thơng tin phải đến kịp thời
Trong kinh doanh yếu tố thông tin mang ý nghĩa quan trọng, thông tin
đến sớm hay muộn chưa chắc đã tốt. Tính kịp thời của thơng tin là yếu tố
khơng thể thiếu phục vụ cho phân tích tài chính doanh nghiệp hay nói cách
khác là làm cho chất lượng phân tích tài chính được tốt hơn. Thơng tin mang
tính động rất cao, một thơng tin có thể có giá trị hơm nay nhưng đến hơm sau
nó lại bị lạc hậu do vậy để tạo nên các báo cáo có chất lượng cần thiết cho
phân tích tài chính các thơng tin kế toán cần phải được cập nhật cao độ đến
từng chi tiết, theo từng ngày để đảm bảo tính kịp thời. Tính kịp thời của thơng
tin làm tăng chất lượng phân tích tài chính cịn thể hiện ở chỗ: các số liệu để
24


phân tích phải được tập hợp qua nhiều năm và có độ chính xác cao.
- Các chỉ tiêu gián tiếp
Đây là những chỉ tiêu ảnh hưởng tới quyết định tài sản của cơng ty tài
chính, được đo lường bằng hiệu quả hoạt động của cơng ty tài chính.
Cơng ty tài chính quyết định đầu tư hay đồng ý cho vay đối với doanh

nghiệp có đạt được kết quả như mong muốn hay không (thu được lợi nhuận
như dự kiến, thu hồi được lãi và vốn cho vay…?
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tài chính
khách hàng
1.2.5.1. Nhân tố chủ quan
Nhân tố con người
Các yếu tố để một người cán bộ tín dụng có thể đưa ra một kết luận sáng
suốt nhất trong phân tích tài chính đó là: nghiệp vụ, đạo đức, kính nghiệm và
đối với mỗi người khi cùng tuân theo một quy trình chung trong phân tích thì
cũng có thể đưa ra kết luận có sự nhạy bén, chính xác ở những mức độ khác
nhau. Những người đã làm việc lâu năm thường có kinh nghiệm tuy nhiên lại
trì trệ, bảo thủ kiến thức khơng có được cập nhật thường xun, ngược lại
những người trẻ tuổi thường có những kiến thức mới nhưng họ hay nóng vội,
thiếu kinh nghiệm thực tế. Tất cả những yếu tố kể trên đều tác động rất lớn
đến chất lượng khi phân tích tài chính doanh nghiệp.
Cơng tác tổ chức hoạt động phân tích tài chính
Các cơng việc như lên kế hoạch, thực hiện, kiểm tra giám sát và đánh giá
kết quả luôn là những hoạt động cần thực hiện khi phân tích tài chính. Nếu
như ở từng khâu yếu kém tất yếu sẽ kéo theo chất lượng phân tích tài chính
giảm xuống. Vì vậy cần có sự phối hợp ăn ý giữa các phịng ban trong cơng
ty, mỗi phòng ban với nhiệm vụ khác nhau sẽ phụ trợ cho nhau tát cả đều phải
hướng đến chất lượng phân tích tài chính.
Lựa chọn phương pháp
25


×