Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

câu hỏi mở môn ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.79 KB, 22 trang )

Ôn tập
Câu 1: Khó khăn thách thức của NHTM trong hoạt động huy động vốn tiền gửi
- Áp lực huy động vốn ngày một gia tăng trước sức hút của các kênh đầu tư khác và lo
ngại về lạm phát nên dù tăng lãi suất, các ngân hàng cũng chỉ huy động được kỳ hạn ngắn
ngày và khó có thể cân đối được nguồn vốn huy động và cho vay.
- Việc trần lãi suất huy động hạ thấp xuống còn 6%/năm dẫn đến kênh ngân hàng không
còn thu hút khách như trước kia nên cá nhân và các tổ chức tìm đến những kênh đầu tư
khác sinh lời cao hơn như đầu tư vào các quỹ tương hỗ, chứng khoán tuy nhiên thì lượng
tiền gửi vẫn tăng tính đến ngày 22/4, huy động vốn của toàn hệ thống tăng 3,09% so với
đầu năm, trong đó huy động vốn bằng VND tăng 4,26%, huy động vốn bằng ngoại tệ
giảm 3,98%.do việc hạ lãi suất tác động tới người gửi tiền nhưng không đến mức quá
mạnh khiến dòng tiền chảy ra khỏi hệ thống ngân hàng, dù rằng người gửi tiền vẫn có
những lựa chọn khác nhau khi gửi tiền vào. Ngân hàng Nhà nước chỉ hạ lãi suất dưới 6
tháng, còn 6 tháng trở lên vẫn được áp dụng theo cơ chế thỏa thuận.
- Về huy động vốn, với trên 90% tỷ trọng vốn của ngân hàng hiện nay là nguồn vốn ngắn
hạn, gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc quản trị nguồn vốn, khó bảo
đảm cân đối kỳ hạn. Kỳ hạn huy động vốn bình quân có xu hướng rút ngắn trong khi kỳ
hạn cho vay bình quân dài, tạo nguy cơ rủi ro kỳ hạn và lãi suất.
Câu 2: Khó khăn thách thức trong hoạt động triển khai tín dụng cá nhân của
NHTM
Tín Dụng Cá nhân là hình thức tín dụng mà trong đó NHTM đóng vai trò là người
chuyển nhượng quyền sử dụng vốn của mình cho khách hàng cá nhân hoặc hộ gia đình sử
dụng vốn của mình cho khách hàng cá nhân hoặc hộ gia đình sử dụng trong một thời hạn
nhất định phải hoàn trả cả gốc và lãi với mục đích phục vụ đời sống hoặc phục vụ sản
xuất kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể.
Tín dụng cá nhân đóng góp lớn đến sự lưu thông các nguồn vốn trong xã hội, điều
chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, từ nơi thiếu hiệu quả đến nơi hiệu quả cao
để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh hoặc tiêu dung của cá nhân và hộ gia đình.
Ở Việt Nam tín dụng cá nhân mới chỉ phát triển trong thời gian gần đây,đặc biệt là kể từ
khi hệ thống NHTM có sự phát triển nhanh về số lượng và chất lượng và chất lượng
trong những năm đầu thập kỷ 90.


Nhưng từ khi Việt Nam bắt đầu thực hiện cam kết mở cửa sau khi gia nhập WTO chức
năng ngân hàng nước gần như bình đẳng với ngân hàng trong nước theo đúng lộ trình đã
cam kêt.Vì vậy trên thị trường ngân hàng bán lẻ hiện nay, có sự cạnh tranh gay gắt để
giành thị phần dẫn đến sự phát triển tín dụng cá nhân tập trung chủ yếu vào ba nhóm
chính là: Cho vay cá nhân, bảo lãnh cá nhân và phát hành –thanh toán thẻ tín dụng.
 Đặc điểm
Thứ nhất, quy mô khoản vay nhỏ nhưng số lượng vay lớn. Điều này một phần do giá trị
hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng ở mức vừa phải. Mặt khác, đa số các khách hàng vay vốn đã
có sự tích luỹ từ trước đối với các tài sản có giá trị lớn, họ chỉ tìm đến ngân hàng với mục
đích hỗ trợ cho hoạt động tiêu dùng cá nhân
Thứ hai, các khoản tín dụng cá nhân có mức lãi suất cho vay chưa linh hoạt. lãi suất tín
dụng cá nhân thường được ấn định tại một mức nhất định.
Thứ ba, tín dụng cá nhân có chi phí lớn nhất trong danh mục tín dụng của ngân hàng. Bởi
quy mô của mỗi khoản vay thường nhỏ thậm chí không đáng kể song số lượng các khoản
vay lại rất lớn. Hơn nữa, việc cập nhật các thông tin cá nhân khó có thể đầy đủ và chính
xác. Do vậy, ngân hàng phải thực hiện rất nhiều bước trong quá trình cho vay từ lúc tiếp
nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, giải ngân cho đến lúc thu hồi nợ.
Thứ tư, tín dụng cá nhân có mức độ rủi ro cao. Rủi ro trong cho vay đối với khách hàng
cá nhân cao hơn cho vay doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ 2 nguyên nhân sau:
- Rủi ro về lãi suất
- Rủi ro đạo đức. Khả năng hoàn trả vốn vay đối với các khoản cho vay tiêu dùng phụ
thuộc vào thu nhập của người đi vay. Tuy nhiên, đối với những khách hàng cá nhân có
thể do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan mà họ không thể thực hiện trả nợ hoặc trì
hoãn trả nợ, từ đó gây ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Nhân tố chủ quan
có thể là tình trạng “sức khoẻ” tài chính của người đi vay, công việc làm ăn không tốt …
ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính của khách hàng, từ đó giảm khả năng thực
hiện trả nợ của khách hàng. Các nhân tố khách quan như hạn hán, mất mùa, sự suy thoái
của nền kinh tế dẫn đến khả năng mất việc cao… cũng là những nguy cơ ảnh hưởng đến
khả năng hoàn trả của khách hàng.
Thứ năm, lợi nhuận từ tín dụng cá nhân lớn Mức lợi nhuận từ trên mỗi khoản tín dụng cá

nhân cao, số lượng lớn, vì vậy toàn bộ lợi nhuận thu về từ hoạt động này là đáng kể trong
tổng thu nhập của NHTM.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng cá nhân
Nhân tố ngân hàng
Thứ nhất, chiến lược kinh doanh. Đây là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hiệu quả tín
dụng. Chiến lược kinh doanh liên quan đến khả năng cạnh tranh thành công trên thị
trường. Nó liên quan đến các quyết định chiến lược về lựa chọn sản phẩm, đáp ứng nhu
cầu khách hàng, giành lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ, khai thác và tạo ra các cơ hội
mới…
Thứ hai, các chính sách, quy định của ngân hàng. Đó là chính sách chăm sóc khách hàng
trước và sau khi cho vay có chu kỳ đáo hay không; Các quy định về lãi suất và phí tín
dụng cao hay thấp, có linh hoạt và phù hợp với thu nhập hiện có của người dân hay
không; Các quy định về thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, tài sản đảm bảo, phương thức
giải ngân và thanh toán, thủ tục xin vay vốn có phức tạp hay đơn giản, thời gian thẩm
định hồ sơ vay vốn kéo dài bao lâu…
Thứ ba, chất lượng cán bộ tín dụng. mỗi cán bộ tín dụng phải có trình độ chuyên môn,
khả năng nghiệp vụ, khả năng phân tích, đánh giá, có trách nhiệm trong công việc trên cơ
sở lựa chọn được những khách hàng có đủ năng lực pháp lý, có đủ năng lực tài chính, có
tư cách đạo đức tốt… Nhờ có những cán bộ như vậy, các khoản cho vay diễn ra an toàn
và hiệu quả hơn, hoạt động cho vay cũng nhanh chóng và thuận tiện hơn.
Thứ tư, công tác thông tin. Trên cơ sở nguồn thông tin nhận được, ngân hàng thực hiện
phân tích tín dụng để đánh giá khả năng hiện tại và tiềm năng của khách hàng về sử dụng
vốn, cũng như khả năng hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ tìm kiếm những
tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng và tiên lượng khả năng kiểm soát của
ngân hàng về các rủi ro đó, dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể
xảy ra. Từ đó làm cơ sở để ra quyết định tín dụng, chấp thuận hay không chấp thuận cho
vay.
Thứ năm, công nghệ của ngân hàng. Công nghệ hiện đại giúp cho ngân hàng cung cấp
dịch vụ hiện đại, phong phú phục vụ nhu cầu ngày càng lớn và đa dạng của khách hàng.
Trong khi đó, đặc thù của hoạt động cho vay khách hàng cá nhân là giao dịch với số

lượng khách hàng đông và đa dạng, ngân hàng phải thực hiện một số lượng lớn các hợp
đồng cho vay. Do đó, hệ thống công nghệ của ngân hàng hiện đại vừa tiết kiệm được thời
gian công sức của cán bộ tín dụng, vừa nhằm hạn chế tối đa sự nhầm lẫn, sai sót trong
quá trình giao dịch với khách hàng.
Nhân tố khách hàng
Thứ nhất, năng lực tài chính của khách hàng. Với mỗi cán bộ tín dụng vấn đề quan tâm
đầu tiên về khách hàng của mình là khả năng trả nợ. Một khoản vay vốn được ngân hàng
chấp nhận khi khách hàng đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về năng lực tài chính đủ lớn và
lành mạnh để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng những nguồn
trả nợ nghi ngờ về tính lành mạnh hoặc nguồn đủ mạnh nhưng không ổn định.
Thứ hai, nhu cầu, thói quen và đạo đức khách hàng. Ngoài những nhân tố trên còn kể đến
nhân tố khách quan bên ngoài ngân hàng cũng ảnh hưởng tới cho vay khách hàng cá
nhân, đó là đạo đức khách hàng. Nếu như khách hàng là người có ý thức trả nợ tốt, rủi ro
tín dụng thấp thì sẽ kích thích ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay, các quy định cũng
sẽ không quá khắt khe.
Nhân tố ngoài ngân hàng
Thứ nhất, đặc điểm thị trường nơi ngân hàng hoạt động. Nếu là thành thị hoặc nơi tập
trung đông dân cư, có mức thu nhập khá, trình độ học vấn cao thì nhu cầu vay của khách
hàng cá nhân sẽ tăng cao hơn so với các vùng nông thôn, hẻo lánh nơi mà người nông
dân quanh năm chỉ biết tới đồng ruộng.
Thứ hai, môi trường kinh tế, chính trị. Môi trường kinh tế, chính trị có ảnh hưởng tới hoạt
động cho vay của khách hàng cá nhân. Nếu nền kinh tế phát triển tốt, thu nhập bình quân
đầu người cao và môi trường chính trị ổn định thì hoạt động cho vay đối với khách hàng
cá nhân cũng sẽ diễn ra thông suốt, phát triển vững chắc và hạn chế rắc rối xảy ra. Nếu
môi trường có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng để dành khách hàng thì hoạt
động cho vay của ngân hàng gặp nhiều khó khăn
Câu 3
 Mục tiêu của đề án tái cơ cấu hệ thống NHTM
Cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng để đến năm
2020 phát triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt

động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình
có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng
tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp
ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố
năng lực hoạt động của các tổ chức tín dụng; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả
hoạt động của các tổ chức tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị
trường trong hoạt động ngân hàng. Phấn đấu đến cuối năm 2015 hình thành được ít
nhất 1 - 2 ngân hàng thương mại có quy mô và trình độ tương đương với các ngân
hàng trong khu vực.
 Quan điểm tái cấu trúc
Thứ nhất, cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và từng tổ chức tín dụng là một
quá trình thường xuyên, liên tục nhằm khắc phục những khó khăn, yếu kém và chủ
động đối phó với những thách thức để các tổ chức tín dụng không ngừng phát triển
một cách an toàn, hiệu quả, vững chắc và đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội trong giai đoạn mới.
Thứ hai, củng cố, phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng về sở hữu, quy mô
và loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Hệ thống các tổ chức tín dụng bao gồm các ngân hàng lớn,
hoạt động lành mạnh đóng vai trò làm trụ cột trong hệ thống, có khả năng cạnh tranh
trong khu vực, đồng thời có những ngân hàng vừa và nhỏ, tổ chức tín dụng phi ngân
hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu dịch vụ ngân hàng của mọi tầng lớp trong xã hội:
Nâng cao vai trò, vị trí chi phối, dẫn dắt thị trường của các tổ chức tín dụng Việt
Nam, đặc biệt là bảo đảm các ngân hàng 100% vốn của Nhà nước và ngân hàng có cổ
phần chi phối của Nhà nước (sau đây gọi chung là ngân hàng thương mại nhà nước)
thật sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các tổ chức tín dụng, đồng thời có
đủ năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Thứ ba, khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các tổ chức tín dụng theo
nguyên tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ
kinh tế của các bên có liên quan theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm an toàn, ổn

định của hệ thống, một số tổ chức tín dụng có mức độ rủi ro, nguy cơ mất an toàn cao
sẽ được áp dụng các biện pháp xử lý đặc biệt theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, thực hiện cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị của các tổ chức
tín dụng theo các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp. Hình thức và biện pháp
cơ cấu lại tổ chức tín dụng được áp dụng phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng tổ
chức tín dụng.
Thứ năm, không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm
soát của Nhà nước. Quá trình chấn chỉnh, củng cố và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức
tín dụng hạn chế tới mức thấp nhất tổn thất và chi phí của ngân sách nhà nước cho xử
lý những vấn đề của hệ thống các tổ chức tín dụng.
 Trọng tâm đầu tiên của tái cấu trúc hệ thống NHTM là xử lý toàn bộ nợ xấu.em
đồng tình vs quan điểm trên. Vì nó sẽ góp phần làm tăng năng lực tài chính của
NHTM. Trải qua khó khăn của năm 2011, 2012 khiến nợ đọng của DN sản xuất
kinh doanh tăng thêm, bên cạnh đó, sự “đóng băng” của thị trường bất động sản
đã làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng.Ngoài rủi ro khách
quan mang lại, nợ xấu tồn tại trong chính yếu kém của không ít ngân hàng (do
năng lực thẩm định có hạn, do năng lực quản trị hạn chế, do rủi ro đạo đức từ một
số cá nhân ). Nhiều ngân hàng đã cho vay thiếu chọn lọc, lại có những giải pháp
như “khoanh nợ”, “đảo nợ” cho DN Bởi vậy, để tái cơ cấu ngân hàng thành
công, việc tháo gỡ nút thắt nợ xấu hiện nay đóng vai trò rất quan trọng, thậm chí
mang tính quyết định. Trước khối lượng nợ xấu lớn như hiện nay, giải pháp khả
thi là phải “phá băng” được với thị trường bất động sản, giải quyết hàng tồn kho
cho DN, giảm tỷ lệ nợ xấu của DN - giúp giảm tỷ lệ nợ xấu ngân hàng, kết hợp
với chính sách mua nợ xấu, xử lý nợ xấu dứt điểm từ phía Nhà nước. NHNN rất
cần có chính sách kiểm soát để các NHTM phải nâng cao chất lượng tài sản, kiểm
soát chất lượng tín dụng và giảm nợ xấu. Tập trung xử lý nợ xấu của các NHTM
nhà nước để sớm làm sạch bảng cân đối của NHTM nhà nước; phấn đấu đạt tỷ lệ
nợ xấu của các NHTM về dưới 3% theo tiêu chuẩn phân loại nợ và chuẩn mực kế
toán của Việt Nam.Thời gian qua, Công ty Quản lý tài sản của các TCTD
(VAMC) tích cực trong việc mua nợ xấu, từ đó làm sạch bản cân đối tài sản của

ngân hàng, giúp cải thiện mối quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và ngân hàng,
khơi thông nguồn vốn tín dụng. Tuy vậy, tổ chức này cũng đối mặt với những vấn
đề khó khăn trong thực hiện vai trò là chủ nợ và sẽ quyết định phương án cơ cấu
lại cuối cùng sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp, TCTD và nền kinh tế. Bởi
thực tế, nếu có bán nợ xấu cho VAMC, thì vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro
20%/năm cho số nợ đã bán, làm tăng chi phí cho các tổ chức này. Để xử lý tận
gốc vấn đề nợ xấu trong hệ thống các TCTD, trước mắt cần minh bạch hóa thông
tin nợ xấu của từng TCTD. Để thực hiện vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước phải
có biện pháp kiểm tra và giám sát chặt chẽ hoạt động của từng TCTD, bảo đảm
các thông tin về nợ xấu do các tổ chức này cung cấp phải hợp lệ với quy định của
pháp luật. Theo đó, kết hợp giám sát vấn đề trích lập dự phòng rủi ro của các
TCTD theo đúng quy định của NHNN. Cần có biện pháp xử phạt thích đáng đối
với các TCTD vi phạm.Thêm vào đó, cần xác định rõ ràng vai trò của VAMC
trong vấn đề xử lý các khoản nợ xấu do tổ chức này mua lại sao cho có hiệu quả.
Tránh tình trạng VAMC chỉ đơn thuần chuyển đổi nợ xấu của các TCTD yếu kém
thành nợ của VAMC. Muốn vậy, Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý thuận lợi để
cho các tổ chức quốc tế cũng như cá nhân quan tâm đến việc đầu tư vào các
khoản nợ xấu này có cơ hội tiếp cận. Theo đó, để đẩy nhanh việc bán nợ xấu cho
đối tác ngoại thì các thủ tục hành chính cũng cần phải được cải cách theo hướng
đơn giản và rút gọn hơn để tạo thuận lợi nhất cho nhà đầu tư sau khi họ quyết
định mua.
 Muốn tái cơ cấu hiệu quả cần phải giải quyết tình trạng sở hữu chéo trong các
NH. Sở hữu chéo là hình thức phổ thông trong hệ thống NH thế giới nếu sử dụng
đúng mục đích để hỗ trợ vốn lẫn nhau.Nhưng ở Việt Nam sở hữu chéo được thực
hiện méo mó, sai lệch, chỉ hướng đến những đơn vị con và những quyền lợi riêng
để cho vay không theo tiêu chuẩn, không đúng mục đích, không kiểm soát chặt
chẽ nên khả năng rủi ro lớn. Trên thực tế, Luật các TCTD năm 2010 đã có những
quy định rõ ràng về vấn đề sở hữu cổ phần của các cá nhân và các TCTD. Tuy
nhiên, để lách luật, các TCTD đã hoặc thông qua trung gian để mua cổ phần của
các TCTD đã mua cổ phần của mình, hoặc cá nhân thì tìm cách núp bóng người

khác để sở hữu cổ phần ngân hàng vượt quá con số quy định là 5% vốn điều lệ
của TCTD như quy định Không sớm giải quyết những vấn đề này, tái cơ cấu hệ
thống NHTM sẽ vẫn đi những bước đi chậm chạp phải minh bạch hóa thông tin
về tỷ lệ và đối tượng sở hữu, thậm chí cần phải cưỡng chế bằng những biện pháp
hành chính, cũng như xử phạt nặng đối với các cá nhân và TCTD tìm cách lách
luật, lạm dụng vấn đề sở hữu chéo để vi phạm pháp luật, tư lợi cá nhân, thao túng
thị phần, làm giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như các
TCTD.
Câu 4 Tình hình nợ xấu của NHTM
Năm 2011, lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ động công bố tỷ lệ nợ xấu
trong các ngân hàng. Theo đó, nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng ở mức 3,6 - 3,8% tổng dư
nợ. Con số này tới cuối năm 2012, theo công bố của NHNN là 4,08 %, cho dù theo các tổ
chức đánh giá độc lập thì con số thực tế cao hơn nhiều.Tính đến ngày 31/12/ 2013, tỷ lệ
nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam là 3,79% - giảm gần 1% so với hồi đầu năm
2013. Đó là tỷ lệ thấp nhất trong hai năm qua, kể từ thời điểm tháng 2/2012 Về việc mua
nợ xấu, gần 40.000 tỷ đồng nợ xấu đã được VAMC mua lại từ các ngân hàng. Ước tính
nợ xấu của ngân hàng Agribank là gần 33.519 tỷ đồng.
Trong khi đó, theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết tháng 7/2013,
nợ xấu các nhà băng tự báo cáo là gần 139.000 tỷ đồng. Như vậy, một mình ông lớn quốc
doanh Agribank đang "ôm" tới 25% "cục máu đông" của toàn hệ thống ngân hàng.
Khối nợ xấu tới hơn 33.000 tỷ đồng lớn hơn gấp nhiều tổng tài sản của hầu hết các ngân
hàng quy mô nhỏ tại Việt Nam. Thậm chí, con số này gấp chục lần vốn điều lệ của một
vài nhà băng nhỏ trong hệ thống. NHNN cho biết, để có được những kết quả trên, hệ
thống NHNN đã tích cực, chủ động thực hiện các giải pháp để kiềm chế nợ xấu gia tăng
và xử lý nợ xấu như: Cơ cấu lại nợ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay phục vụ
sản xuất; kiểm soát chặt chẽ và tiết giảm chi phí hoạt động, tích cực đôn đốc, thu hồi nợ,
trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro; bán nợ, xử lý tài sản đảm bảo;
thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế nợ xấu phát sinh mới.
Đáng chú ý là, việc thành lập và đưa vào hoạt động Công ty quản lý tài sản của các
TCTD Việt Nam (VAMC). Mặc dù chỉ tiêu lợi nhuận các ngân hàng xây dựng cho năm

nay ở mức khá thấp so với năm 2013, song lãnh đạo các nhà băng thừa nhận, để đạt được
chỉ tiêu này trong bối cảnh thị trường năm 2014 còn khó khăn là không đơn giản. Lý do
vẫn là nợ xấu tiềm tàng, dẫn đến mức trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cao.
Sacombank là điển hình, cho dù năm qua đạt mức lợi nhuận 2.800 tỷ đồng trước thuế,
hoàn tất kế hoạch đưa ra, nhưng chỉ tiêu lợi nhuận 2014 của Ngân hàng chỉ cao hơn 200
tỷ đồng. Ông Phan Huy Khang, Tổng giám đốc Sacombank cho biết, kết thúc quý I/2014,
Sacombank đạt 750 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế. Nếu bình quân mỗi quý đạt được mức
trên và kỳ vọng nhiều nhất vào 2 quý cuối năm thì khả năng Sacombank hoàn thành kế
hoạch là khá cao. Tuy nhiên, theo ông Khang, đến thời điểm này cũng chưa thể khẳng
định được điều gì, bởi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng vẫn có những khó khăn nhất
định, tăng trưởng tín dụng vẫn khó có thể đạt như kỳ vọng, 13%. Năm nay, Sacombank
đặt mục tiêu kiểm soát nợ xấu dưới 3% và tiếp tục xem xét bán nợ xấu cho VAMC, sau
khi đã bán hơn 1.000 tỷ đồng trong năm qua.
 Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu
-Từ phía các doanh nghiệpNhiều doanh nghiệp đã phán đoán không chính xác xu hướng
phát triển của thị trường, dẫn đến mở rộng quy mô sản xuất trong các ngành đang phát
triển quá nóng mà không có sự đánh giá kỹ lưỡng. Hậu quả là sự mất cân bằng trong
cung và cầu. Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn lại chia nhỏ dự án để tìm
tài trợ từ nhiều ngân hàng khác nhau, qua đó giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong
việc vay vốn từ các ngân hàng cũng như giảm bớt sự kiểm soát của ngân hàng. Chính
những yếu tố này làm cho ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm soát các khoản cho
vay, dẫn đến tình trạng nợ xấu.
-Ngân hàng: Nhận thức về rủi ro tín dụng có hạn chế nhất định. Nguyên nhân của hạn chế
này do nhiều yếu tố: (i) Nhận thức sai lầm trong mối quan hệ và tầm quan trọng giữa rủi
ro, kinh doanh và nguồn vốn, xem xét chưa đầy đủ về những khả năng mất vốn do những
rủi ro tiềm ẩn gây ra, chủ quan về mở rộng kinh doanh, tăng trưởng cho vay phụ thuộc
chủ yếu vào huy động tiền gửi, phát triển kinh doanh thiếu căn cứ; (ii) Một số nhà quản
lý ưa thích rủi ro, khi xem xét hồ sơ của khách hàng truyền thống chỉ dựa vào các tài liệu
được cung cấp, như báo cáo bằng văn bản, báo cáo tài chính, không thực hiện đánh giá
rủi ro một cách khách quan. Do đó làm mất đi sự chính xác và tính hiện thực khi xem xét

hồ sơ vay vốn của khách hàng.Thiếu kinh nghiệm và hạn chế trong kỹ năng quản lý.Quản
lý rủi ro không diễn ra xuyên suốt cả quá trình: Công tác thẩm định không kỹ lưỡng,
nghiêm ngặt…
 Giải quyết nợ xấu
Để giải quyết nợ xấu thì các giải pháp phải được thực hiện đồng bộ
- Nhóm giải pháp về phía các tổ chức tín dung: Đánh giá lại chất lượng và khả năng thu
hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý thích hợp, Tăng cường trích lập và sử dụng
dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu, Tiếp tục cơ cấu lại nợ, Tiếp tục hỗ trợ vốn để khách
hàng khắc phục khó khăn và phục hồi, Bổ sung, hoàn thiện hồ sơ pháp lý tài sản bảo
đảm, Thu nợ và xử lý tài sản bảo đảm, Hoán đổi nợ thành vốn, Bán nợ xấu cho Công ty
Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) thuộc Bộ Tài chính
- Nhóm giải pháp đối với khách hàng vay: Khách hàng vay phải tự củng cố, chấn chỉnh
hoạt động, nâng cao năng lực tài chính, quản trị, tăng cường ứng dụng công nghệ và khả
năng cạnh tranh; chủ động, tích cực phối hợp với tổ chức tín dụng xây dựng và triển khai
các phương án cơ cấu lại nợ, tháo gỡ khó khăn sản xuất kinh doanh; chủ động phát triển
thị trường tiêu thụ hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu; tham gia tích cực vào các chương
trình, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp do Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương triển
khai.Các doanh nghiệp cần chú trọng thay thế các yếu tố đầu vào nhập khẩu bằng các
nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, tăng cường sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước.
- Nhóm giải pháp về phía Ngân hàng Nhà nước
Phải có biện pháp quyết liệt để xác định số thực về quy mô và cơ cấu của nợ xấu hiện
nay, từ số liệu này mới có thể áp dụng các giải pháp cụ thể cho từng TCTD. Xử lý
nghiêm hành vi che dấu nợ xấu. Đồng thời sửa đổi, bổ sung về cách phân loại nợ, trích
lập sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
trong các trường hợp cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng sai
chế độ. Đồng thời có cơ chế buộc các TCTD trong một thời gian phải đưa nợ xấu xuống
một giới hạn nhất định.
Đối với các TCTD có quy mô lớn, ảnh hưởng nhiều tới sự an toàn của cả hệ thống cũng
như nền kinh tế và an sinh xã hội, có khả năng phát triển tiếp, sau khi tự giải quyết nợ
xấu vẫn còn ở mức cao, sẽ được NHNN bơm vốn để hỗ trợ, dưới hình thức góp vốn

nhưng lại được hưởng lãi cố định (như cổ phiếu ưu đãi) và ngân hàng có thể rút vốn về
khi tổ chức này đã phục hồi.
- Nhóm giải pháp về phía Bộ Tài chính
Sử dụng DATC như một công cụ quan trọng để xử lý nợ xấu hiện nay. Với nguyên tắc
kinh doanh có hiệu quả, DATC mua lại các khoản nợ có tài sản đảm bảo, theo cơ chế thị
trường. Việc sử dụng DATC xử lý nợ xấu chỉ có hiệu quả khi hoạt động mua bán nợ gắn
với mục tiêu tái cấu trúc DN, tái cơ cấu lại nợ nhằm khôi phục lại hoạt động sản xuất
kinh doanh cho các khách nợ. Nguyên tắc này phải được tôn trọng, đặc biệt trong điều
kiện hiện nay khi có sự tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế.
Để DATC có thể làm được nhiệm vụ này thì việc nâng cao năng lực (tài chính, tổ chức,
kỹ năng ) là việc làm cần thiết, như chính sách giảm thuế thu nhập DN cho hoạt động
mua bán nợ xấu, giảm thuế giá trị gia tăng cho hoạt động bán tài sản đảm bảo để thu hồi
nợ, như đào tạo và nâng cao kỹ năng phân tích tài chính, xác định giá trị tài sản thế chấp,
kỹ năng xử lý nợ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách.
Câu 5 Sở hữu chéo
- Kn: sở hữu chéo là việc một số chủ thể sở hữu cổ phần, một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp ở từ hai ngân hàng trở lên hoặc sở hữu cổ phần lẫn nhau.
- Hệ lụy: Bên cạnh những lợi ích mang lại như: góp phần cải thiện sự hỗ trợ vốn, công
nghệ, kinh nghiệm và hiểu biết lẫn nhau giữa các đối tác; thúc đẩy hoạt động liên kết
kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và quốc tế; góp phần nâng cao năng lực quản trị, tài
chính, công nghệ, nhân sự, mở rộng quy mô, thị phần, cải thiện sức cạnh tranh và hiệu
quả kinh doanh, nhất là đối với DN và NH nhỏ; hình thành nên một cơ cấu sở hữu và
quản trị ổn định trong các doanh nghiệp, ngân hàng. Hơn nữa, sở hữu chéo cho phép
công ty khai thác được các cơ hội và tiềm năng kinh doanh có lợi trên thị trường; đa dạng
hóa hoạt động và phân tán rủi ro kinh doanh; đồng thời, cho phép đạt hiệu quả khống chế,
chi phối thị trường cao với một lượng vốn cổ phần nhỏ theo "mô hình kim tự tháp" , thì
sở hữu chéo đang là nguyên nhân của một số ảnh hưởng tiêu cực đến sự an toàn và lành
mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam như: Khiến khả năng chống đỡ rủi ro của ngân
hàng không được đánh giá đúng mức, làm gia tăng việc cho vay thiếu kiểm soát và khiến
các quy định về dự phòng, phân loại nợ trở nên sai lệch,sở hữu chéo có thể gây cản trở

đến năng lực cạnh tranh và vì vậy tác động không nhỏ đến sự phân bổ quyền sở hữu tài
sản; sở hữu chéo trong nhiều trường hợp có liên quan rất lớn đến những người sáng lập
chính của ngân hàng mà vì nhiều lý do không thể đảm bảo quản trị ngân hàng hiệu quả.
• nguồn lực của NHTM có thể không được đánh giá đúng: Thông qua sở hữu chéo,
cổ đông ngân hàng A có thể vay tiền ngân hàng B để góp vốn vào ngân hàng A và
ngược lại. Hoạt động đi vay này tạo ra tình trạng tăng vốn ảo trong các ngân hàng.
Nhiều ngân hàng đã được nâng cấp với số vốn tăng nhanh đáng ngạc nhiên, trong
đó có thể có phần của sở hữu chéo giữa các NHTM, DN, Cty đầu tư.
• sở hữu chéo làm sai lệch việc đánh giá rủi ro của hệ thống ngân hàng vì rất nhiều
chỉ số dựa trên số vốn tự có, trong khi vốn đó là vốn ảo. Các chỉ số không chính
xác lại dẫn đến sai lệch về quản trị ngân hàng cũng như việc giám sát đối với hệ
thống tài chính. Rủi ro thị trường tài chính ngân hàng mang tính hệ thống vì đó là
quan hệ giữa dòng tiền với nền sản xuất thực và khi những rủi ro bùng phát thì
chúng lan tỏa không chỉ đối với hệ thống sản xuất kinh doanh ngoài ngân hàng
mà ngay cả trong ngân hàng.
• quy định giới hạn tín dụng bị sở hữu chéo vô hiệu hoá: Theo quy định, một cổ
đông cá nhân không được sở hữu quá 5% vốn điều lệ của một TCTD; một cổ
đông là tổ chức không được sở hữu quá 15% vốn điều lệ của một TCTD nhằm
hạn chế sự thâu tóm ngân hàng trái pháp luật. Song, khi sở hữu chéo thì quy định
này sẽ bị vô hiệu hóa. Bởi lẽ, sở hữu chéo cho phép một DN (hay NHTM) có tỷ lệ
cổ phần lớn trong các NHTM có thể gây áp lực (một cách hợp pháp như qua bỏ
phiếu trong HĐQT với vị thế cổ đông chiến lược) để ngân hàng này cấp vốn đầu
tư vào những dự án của DN hay ngân hàng “sân sau” của mình. Nguy cơ là quy
định bị “vượt rào”, bộ máy sàng lọc theo tiêu chí hiệu quả đầu tư của NHTM có
thể bị tê liệt hay trở nên hình thức.
-Thực trạng
Sở hữu chéo trong hệ thống NHTM Việt Nam
Ba nhóm tích cực:
(1) Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các Ngân hàng liên doanh
(2) Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM

(3) Cổ đông tại các NHTM là các Cty quản lý quỹ
Ba nhóm đáng lo ngại:
(4) Sở hữu của NHTM nhà nước tại các NHTM cổ phần
(5) Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần
(6) Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng Cty Nhà nước và tư nhân
- Nguyên nhân chưa kiểm soát được mặt tiêu cực của sở hữu chéo:Thứ nhất mức tuân thủ
chưa cao. Ví dụ giao dịch chuyển nhượng mua bán cổ phiếu theo quy định của Ủy ban
Chứng khoán, họ quy định phải công bố, báo cáo ngay sau khi giao dịch đối với những
giao dịch lớn, những cổ đông lớn. Nhưng không phải lúc nào họ cũng báo cáo đầy đủ và
kịp thời. Trong khi đó, thông tin công bố cũng chưa đầy đủ, kể cả trong thông báo thường
niên hoặc định kỳ hàng quý, hay 6 tháng một lần.
Thứ hai là tổ chức giám sát quá trình thực hiện, nhiều khi ở nước ta chưa được thực hiện
chặt chẽ. Trong khi nước ngoài họ làm khá chặt.
Cuối cùng là yếu tố văn hóa, hầu hết chúng ta không muốn công bố thông tin về tài sản,
minh bạch về việc mình quá giàu có, nắm giữ quá nhiều cổ phiếu trong hệ thống tài chính
tín dụng và nền kinh tế.
- Giải pháp
các quy định về kế toán, hệ thống các quy định an toàn cần được liên tụcnâng cao tính
minh bạch, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn để loại trừ tínhnhiễu của sở
hữu chéo trong vốn tự có như đã đề cập ở trên, khoản đầu tư của TCTD nàyvào TCTD
khác phải được xác định rõ và loại trừ khỏi vốn cấp 1 của tổ chức được góp vốn khi tính
hệ số an toàn vốn (CAR) của tổ chức này, tránh tình trạng vốn chảy lòng vòng trong
hệthống dẫn tới việc tăng vốn không thực chất.
cần nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp trong nội bộ ngân hàng, yêucầu ban kiểm
soát (BKS) phải thực sự độc lập với HĐQT và có quyền phủ quyết các quyếtđịnh có ảnh
hưởng tiêu cực hoặc rủi ro cao đối với quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ lẻ; phải can
thiệp, ngăn chặn, phát hiện, báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước trong trường hợp
HĐQT có những quyết định trái pháp luật. Bên cạnh đó, vai trò của thành viên độc lập
trong HĐQT phải thực sự độc lập, có tiếng nói, ngăn chặn, thể hiện quan điểm của mình
trongtrường hợp những quyết định của HĐQT gây bất lợi cho các cổ đông nhỏ lẻ hoặc

phục vụ cho lợi ích nhóm.
quy định cấm hiện tượng tình trạng đầu tư “lòng vòng” giữa các ngân hàng với nhau
(theo kiểu ngân hàng A đầu tư vào ngân hàng B, ngân hàng B đầu tư vào ngân hàng C và
ngân hàng C lại quay lại đầu tư vào ngân hàng A). Nếu hiện tượng này bị phát hiện, cần
có các chế tài theo hướng xử lý hình sự. Trong đó để xử lý các mối quan hệ sở hữu chéo
hiện tại, phần sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng có thể được nhượng lại cho các
trung gian độc lập, trong đó ưu tiên đầu tư của các định chế tài chính, ngân hàng nước
ngoài.
phải luật hóa vấn đề sở hữu chéo, đồng thời, tăng cường vai trò của cơ quan giám sát bởi
hiện nay ngân hàng - bảo hiểm - chứng khoán chưa thống nhất về một mối. Giám sát hệ
thống ngân hàng phải được thực hiện đồng bộ, bảo đảm sự giám sát thông suốt là rất cần
thiết để làm rõ "bức tranh" phức tạp đã hình thành và tìm cách ngăn chặn sự lặp lại sở
hữu chéo trong tương lai.
Câu 6 Xu hướng phát triển dịch vụ ngân hàng
- Xu thế hội nhập quốc tế đã mang lại cơ hội và thách thức lớn cho nền kinh tế cũng như
ngành tài chính- ngân hàng Việt Nam. Bên cạnh đó, sự phát triển ngày càng sâu rộng của
các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế có tiềm lực tài chính, kỹ thuật hiện đại và kinh
nghiệm lâu năm sẽ tạo ra cuộc cạnh tranh khốc liệt với các NHTM Việt Nam
Đa số nguồn thu nhập hiện nay của ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTMVN) là từ
hoạt động tín dụng, một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro; chính vì vậy, mở rộng dịch vụ
ngân hàng ngoài dịch vụ truyền thống được nhận định là chiến lược mang lại triển vọng
lớn cho NHTMVN. DVNH hiện đại chính là DVNH có áp dụng công nghệ thông tin
hiện đại, bao gồm cả những dịch vụ truyền thống được nâng cấp, phát triển dựa trên nền
tảng công nghệ hiện đại và những dịch vụ mới.Ngân hàng đẩy mạnh phát triển dịch vụ
trực tuyến:gửi tiết kiệm trực tuyến, vay online. số lượng dịch vụ được cung cấp ngày
càng đa dạng và số lượng các NHTM tham gia cung cấp cũng ngày một tăng lên, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Dịch vụ thẻ thời gian qua đã đem lại hiệu quả
đáng kể cho nền kinh tế xã hội. Ngoài những loại thẻ truyền thống, các NHTM cũng đã
đưa ra nhiều loại thẻ tích hợp mới với nhiều tính năng mới làm cho thị trường thẻ thêm
phong phú. Mạng lưới ATM và POS ngày càng được đầu tư mở rộng, các dịch vụ gia

tăng trên ATM ngày càng được chú trọng nhằm đem lại cho khách hàng nhiều tiện ích
hơn. Số lượng tài khoản cá nhân, doanh số giao dịch thẻ tăng trong thời gian qua cho
thấy, việc phát triển dịch vụ thẻ đã làm tăng khối lượng thanh toán qua ngân hàng, người
dân đang quen dần với các DVNH nói chung và dịch vụ thẻ nói riêng. DVNH hiện đại
giữ vai trò cốt yếu trong việc mở rộng khách hàng, mở rộng thị trường và gia tăng lợi thế
cạnh tranh, Tạo nguồn thu ổn định và tăng doanh số hoạt động cho ngân hàng, Xây dựng
thương hiệu, Giảm chi phí cung ứng dịch vụ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, Thúc đẩy
hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
 Từ 2014, ngân hàng bán lẻ là xu hướng tất yếu của Việt Nam, Quy mô thị trường
90 triệu dân sẽ mở ra cơ hội lớn cho các ngân hàng thương mại
- Hiện nay các NHTM ở Việt Nam đều hướng tới phát triển DVNH, đây là hướng đi hoàn
toàn đúng đắn, bởi lẽ:
Trước hết, DVNH bán lẻ là xu hướng tất yếu của các NHTM trên thế giới cũng như ở
Việt Nam:
- Cạnh tranh về dịch vụ tài chính ngày càng mạnh và khốc liệt tại Việt Nam.
- Ngày càng có nhiều tổ chức phi tài chính tham gia vào lĩnh vực này.
- Đây là một trận tuyến mới còn bỏ ngỏ ở một đất nước đông dân, có tiềm năng phát triển
cao trong những năm tới, tiêu dùng dân cư có tiềm năng tăng trưởng cao.
- Sự đa dạng trong hoạt động kinh doanh ngày càng mạnh mẽ.
Ưu điểm của DVNH bán lẻ:
- Đem lại doanh thu cao, chắc chắn, ít rủi ro.
- Đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ phi ngân hàng.
- Mở rộng khả năng mua bán chéo giữa cá nhân và doanh nghiệp với NHTM, từ đó gia
tăng và phát triển mạng lưới khách hàng hiện tại và tiềm năng của NHTM.
Hoạt động bán buôn của NHTM lại có ưu thế về hoạt động trên các thị trường tài chính,
đầu tư ngân hàng, từ đó đem lại doanh thu ổn định hơn, nhưng rủi ro cũng là cao hơn.
Câu 7 Hoạt động vay vốn lẫn nhau giữa các NHTM
So với cuối năm 2013, nhiều ông lớn đã giảm hàng chục nghìn tỷ đồng tiền gửi và cho
Xét về quy mô, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) giảm mạnh nhất với
gần 40.000 tỷ đồng tài sản trên thị trường liên ngân hàng. Trong khi đó, xét về giá trị

tương đối, Ngân hàng Sài Gòn Hà Nội (SHB) cũng giảm 62% quy mô hoạt động. vay liên
ngân hàng trong khi các nhà băng nhỏ cũng không mặn mà đi vay như trước. Lãi suất
giảm cũng khiến các ngân hàng không còn hào hứng giao dịch trên thị trường 2 như
trước. Lãi suất qua đêm và các kỳ ngắn ngày đều giảm mạnh, chỉ còn vài ba phần trăm.
Không chỉ vì lãi suất thấp và dư vốn nhiều, ngân hàng không mấy mặn vì các quy định đã
siết chặt hơn trước. Thông tư 21 về hoạt động trên thị trường này yêu cầu, các khoản cho
vay, gửi trên 3 tháng, ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro như những món thông
thường. Còn với những ngân hàng nhỏ - khách hàng của các ông nhà giàu dư tiền, họ chỉ
được đi vay nếu không có khoản nào trên thị trường 2 quá hạn trên 10 ngày Những điều
này vô hình trung đã làm giảm tương đối tính hấp dẫn của hoạt động cho vay. Tỷ trọng
tiền gửi, cho vay trên liên ngân hàng giảm trong cơ cấu tổng tài sản là một tín hiệu tốt
cho thấy thanh khoản của hệ thống dồi dào, tình trạng vốn ảo cũng giảm bớt.
Đây còn là dấu hiệu cho thấy tình trạng ứ vốn ở các ngân hàng đang quá nghiêm trọng.
Ngân hàng từ nhỏ đến lớn đều đang thừa tiền trong khi doanh nghiệp thì vẫn khát vốn",
vị này nói.
Câu 8 Chính sách lãi suất huy động của NHNN đối với NHTM
17/3 Ngân hàng Nhà nước ra quyết định điều chính các mức lãi suất chủ chốt. Theo đó,
lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ
1,2%/năm xuống 1%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng
đến dưới 6 tháng xuống còn 6%/năm so với mức 7%/năm hiện nay. Còn lãi suất tiền gửi
có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên, Ngân hàng Nhà nước cho phép các tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.
Cùng với đó, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống mức 6,5%/năm so với mức
7%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thánh toán
bù trừ của NHNN đối với các ngân hàngtừ 8%/năm xuống 7,5%/năm.
Bên cạnh đó, lãi suất huy động ngoại tệ USD cũng giảm xuống mức 1%/năm, thay vì
mức 1,25%/năm hiện nay.
Song song với việc cắt giảm lãi suất huy động, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng
VND đối với các nhu cầu vốn phục vụ nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp

hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng được NHNN điều chỉnh giảm 1%, từ 9%/năm
xuống 8%/năm;
Câu 9
Phân tích tín dụng là việc ngân hàng xem xét một cách toàn diện đề nghị vay vốn cụ
thể của khách hàng nhằm đánh giá khả năng
thu nợ và lãi (nếu ngân hàng đồng ý tài trợ) để đưa ra quyết định có cấp tín dụng hay
không.
* Tầm quan trọng: phân tích tín dụng:
•Giúp ngân hàng có được thông tin tương đối chính xác và đầy đủ về khách
hàng, đánh giá được mức độ tin cậy của phương án sản xuất hoặc dự án
đầu tư mà khách hàng lập và nộp khi làm thủ tục vay vốn. Từ đó, ngân
hàng đánh giá được mức độ tin cậy của khách hàng, mức độ rủi ro của
khoản tài trợ, làm cơ sở đưa ra quyết định cho hợp đồng tín dụng của ngân
hàng đối với khách hàng. Nói cách khác phân tích tín dụng tạo cơ sở để
ngân hàng đưa ra các chính sách tín dụng áp dụng đối với khách hàng.

Giúp cho cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có thể mạnh dạn cho vay
và giảm được xác suất hai loại sai lầm trong quyết định cho vay: chấp nhận
cho vay một dự án tồi và từ chối cho vay một dự án tốt.

Kết quả của quá trình phân tích tín dụng cũng tạo nên hệ thống các thông
tin phân tích tổng hợp về thị trường khách hàng, về các ngành nghề của
khách hàng, các qui luật và đặc điểm riêng có của từng lĩnh vực…Đó là
một trong những căn cứ để ngân hàng tạo thế mạnh, tìm kiếm thị trường
mục tiêu và có các chiến lược phát triển hoạt động của mình một cách phù
hợp trong môi trường cạnh tranh đa dạng.

Thực tế có rất nhiều cách tiếp cận với nội dung của phân tích tài chính. Qua
tìm hiểu, nhóm m xin đưa ra một số cách tiếp cận nội dung này như sau:


1. Dựa theo qui trình phân tích tín dụng: Phân tích tín dụng gồm 4 nội dung
sau:
1.1. Phân tích trước khi cấp tín dụng:
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng.
Nội dung chủ yếu: thu thập và xử lí thông tin liên quan đến khách hàng: 
- năng lực sử dụng vốn vay & uy tín
- khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ
- quyền sở hữu các tài sản
- các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
Phương pháp chủ yếu:
phỏng vấn trực tiếp khách hàng
- mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian
- phân tích các báo cáo mà khách hàng cung cấp theo yêu cầu của ngân
hàng.
Trên cơ sở kết quả phân tích này mà ngân hàng đưa ra quyết định cũng như
nội dung cụ thể trong hợp đồng tín dụng với khách hàng.

1.2. Phân tích trong khi cấp tín dụng:
Đây là hoạt động giải ngân và kiểm soát khách hàng. Ngân hàng cũng cần
kiểm soát chặt chẽ các hoạt động và tình hình tài chính của khách hàng thông qua
các phân tích th o dõi thường xuyên để đề phòng và ngăn chặn các khoản tín
dụng xấu.

1.3. Phân tích sau khi cấp tín dụng:
Đây là hoạt động thu nợ và đưa ra phán quyết tín dụng mới. Ngân hàng sau
khi cấp tín dụng xong cũng cần tiếp tục có những phân tích nhất định để có
phương án thu nợ kịp thời, đảm bảo an toàn cho khoản tín dụng và có phương án
mới cho khoản tín dụng đó.

*** Trong quá trình phân tích tín dụng, ngân hàng luôn có các bước cơ bản để

thực hiện một chu trình phân tích:
- Bước1: tìm kiếm và thu thập thông tin về khách hàng.
- Bước 2: phân tích thông tin thu thập được (bao gồm cả phân tích tài
chính và phân tích phi tài chính).
- Bước 3: lưu trữ thông tin để sử dụng trong tương lai.

2. Dựa theo lĩnh vực (nhóm) phân tích trong phân tích tín dụng:
Hiện nay các NHTM thường phân chia việc phân tích tín dụng thành các
nhóm chỉ tiêu, xây dựng thành các tiêu chuẩn trong phân tích tín dụng: tiêu chuẩn
CAMPARI ; tiêu chuẩn 5C.

* Tiêu chuẩn 5C:
- Character
- Capacity năng lực pháp lý của khách hàng)
- Capital (Cashflow) (khả năng tài chính của khách hàng)
- Collateral (tài sản đảm bảo của khoản tín dụng)
- Conditions điều kiện môi trường: môi trường kinh doanh, môi
trường pháp lý (Control))
Cả 2 kiểu tiêu chuẩn phân tích tín dụng trên đều bao gồm 2 mảng lớn là:
Phân tích phi tài chính và phân tích tài chính:

2.1. Phân tích phi tài chính:
Phân tích phi tài chính là phân tích các yếu tố ít hoặc không liên quan trực
tiếp đến vấn đề tài chính của khách hàng.
Phân tích phi tài chính bao gồm rất nhiều vấn đề như, phân tích:
- tính pháp lý của khách hàng
- khoản tín dụng đề nghị cấp
- tính cách của khách hàng, uy tín của họ trong cuộc sống, kinh doanh
- tình hình quản trị doanh nghiệp, khả năng & uy tín của Hội đồng Quản trị, Ban
điều hành, Chủ tịch Hội đồng quản trị, giám đốc điều hành, và những người có

ảnh hưởng lớn đến khả năng tài chính của khách hàng cũng như của công ty
- triển vọng & vị thế của khách hàng trên thị trường
- sản phẩm & chiến lược phát triển trong tương lai của khách hàng
- các chính sách có liên quan đến khách hàng
2.2. Phân tích tài chính:
Phân tích tài chính là phân tích hiện trạng tài chính và dự báo về tài chính
trong tương lai của khách hàng nhằm tìm kiếm và tiên lượng những trường hợp
xấu có thể xảy ra làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng, làm cơ sở cho các
quyết định cấp tín dụng của ngân hàng.
Phân tích tài chính bao gồm các công việc của ngân hàng đối với khách
hàng như:
- đánh giá khái quát về tài sản, vốn cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh.
- phân tích hệ số tài chính
- phân tích lưu chuyển tiền tệ
- phân tích dự báo tài chính

Phân tích tài chính ở đây chính là phân tích năng lực tài chính của khách
hàng. Do đó, cán bộ tín dụng còn phải phân tích kế toán của khách hàng. Phân
tích kế toán khách hàng dựa vào hệ thống kế toán. Trong hệ thống kế toán thể
hiện hệ thống thông tin trong doanh nghiệp đặc biệt các BCTC là cơ sở để phân
tích tài chính. Chất lượng hệ thống kế toán thể hiện hiệu quả và tính chuyên
nghiệp trong quản trị của công ty.
1. Thực trạng
1.1. Một số NHTM đã thực hiện tách các chức năng hoạt động : quan hệ khách hàng,
thẩm định rủi ro, quyết định tín dụng, quản lý nợ.Chức năng cho vay tín dụng chính sách
và cho vay tín dụng thương mại đã được tách bạch
1.2. NHTM có nhiều biện pháp để phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng
Theo Quyết định (QĐ) 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) về việc ban hành Quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng (TCTD)

và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 493, nợ của các NHTM được chia thành 5
nhóm:
- Nợ nhóm 1 - nợ thông thường - trích dự phòng 0%
- Nợ nhóm 2 – nợ cần chú ý – trích lập dự phòng 5%
- Nợ nhóm 3-5 : nợ xấu
Đây là một bước tiến mới với cách phân nhóm nợ , theo QĐ 493 đã tiến gần tới
những chuẩn mực quốc tế, đó là các loại nợ với mức rủi ro khác nhau đã gắn liền với tỷ lệ
trích dự phòng khác nhau, bước đầu tạo nên quĩ dự phòng đủ lớn để xử lý tổn thất. Cũng
theo QĐ này, nợ xấu (nhóm 3,4,5) chiếm tỷ lệ khoảng từ 2 - 5%, một tỷ lệ chấp nhận
được.Có thể thấy với cách phân chia thế tạo điều kiện cho các ngân hàng đánh giá các
khoản nợ một cách chính xác từ đó nhận định về khách hàng tốt nhất nhằm hạn chế rủi ro
cho ngân hàng.
1.3. Hoạt động tín dụng ở các NHTM phát triển nhanh chóng phù hợp với nền kinh tế thị
trường
Nếu như trước đây khách hàng phải tìm đến ngân hàng cầu cạnh vay tiền, thì nay
ngân hàng quốc doanh lẫn ngân hàng TMCP không những len vào những khoảng trống
mà hệ thống ngân hàng trước đây chưa phủ sóng đến mà còn chạy đua tìm khách hàng để
tài trợ vốn.Các ngân hàng nội địa đang tăng tốc chạy đua tìm kiếm khách hàng.Các ngân
hàng đã cải tiến thủ tục, nhanh chóng thẩm định dự án một cách chính.
Các ngân hàng đã đầu tư hệ thống công nghệ,tập trung dữ liệu khách hàng của các chi
nhánh, giúp cấp quản lý có thể kiểm soát được quá trình thẩm định tìm ra những khách
hàng tiềm năng.
Với những khách hàng vay vốn có uy tín các ngân hàng áp dụng chế độ ưu đãi
hơn.Ngoài ra, ngân hàng sẽ cấp hạn mức tín dụng phù hợp, đa dạng hoá các loại hình cho
vay để đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp chứ không nhất thiết phải lệ thuộc vào tài
sản đảm bảo. Chính vì vậy mà các ngân hàng đã chạy đua trong việc tìm kiếm khách
hàng tiềm năng.Trên thị trường tín dụng đã và đang nở rộ các chương trình khuyến mại
rầm rộ, các cú bắt tay liên kết của các ngân hàng và doanh nghiệp, ngân hàng và các siêu
thị lớn.

Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) sử dụng “chiêu” đánh vào
tâm lý các doanh nghiệp với mong muốn được đồng hành cùng ngân hàng trên bước
đường kinh doanh. Sacombank không những cung ứng vốn cho doanh nghiệp mà còn
giúp doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả hơn.
Với cho vay tiêu dùng cá nhân, nhiều ngân hàng đã nâng mức hạn mức từ vài
chục triệu lên vài trăm triệu, như Ngân hàng ACB gần đây đã nâng mức cho vay đến 250
triệu đồng/ người. Trong khi đó thì mức lương tối thiểu để xét cho vay lại hạ xuống, chỉ
cần từ 2 triệu đồng/tháng.
2.1 Hạn chế, vướng mắc:
Thứ nhất, khi thẩm định các phương án, dự án vay vốn, một số ngân hàng thường “áp
đặt” ý kiến chủ quan của mình đối với khách hàng. Ví dụ, một khách hàng vay vốn đề
nghị vay một khoản tiền 5 tỷ đồng với thời hạn 12 tháng; nhưng sau khi thẩm định (vì
mục tiêu hạn chế rủi ro cho mình), ngân hàng chỉ đồng ý cho vay 3 tỷ đồng, thời hạn 8
tháng. Những điều kiện mới này, hầu như, được khách hàng chấp thuận, mặc dầu khách
hàng chưa cân đối được nguồn vốn cho phần 2 tỷ đồng và 4 tháng bị ngân hàng rút ngắn;
trong khi đó, ngân hàng cho vay cũng không phân tích thẩm định, liệu với số tiền cho vay
và thời hạn cho vay bị rút ngắn có làm cho khách hàng bị rủi ro trong quá trình sử dụng
vốn vay không? Chính yếu tố này là nguyên nhân làm phát sinh các trường hợp rủi ro
trong một số ngân hàng thương mại, mà nguồn gốc là khách hàng, có thể, thiếu vốn đầu
tư và phải cân đối vốn để trả trước hạn so với dự tính ban đầu.
Thứ hai, từ tư tưởng “áp đặt” mà ngân hàng đã đưa ra nhiều điều khoản ràng buộc đối với
khách hàng trong các cam kết giữa hai bên, trong khi ngay chính bản thân ngân hàng
cũng biết chắc chắn là những cam kết đó không thể khả thi theo luật định. Phần lớn các
quy định trong hợp đồng tín dụng đều mang chế tài bảo vệ người cho vay như: ngân hàng
có quyền thay đổi lãi suất cho vay, kiểm tra tình hình tài chính, tài sản đảm bảo tiền vay;
đình chỉ cho vay và thu hồi nợ trước hạn; thu hồi nợ bằng các nguồn khác nhau, bao gồm
phát mại tài sản đảm bảo, kiểm tra tình hình tài chính, tài sản đảm bảo tiền vay bất cứ lúc
nào… Chính tính “áp đặt này” mà trong một số trường hợp, ngân hàng cho vay xử lý các
tình huống phát sinh cũng theo cách “bề trên”, dẫn đến việc không sâu sát thực trạng,
không nắm bắt được toàn bộ nội dung và bản chất của của sự việc.

Thứ ba, Tình trạng "độc canh" tín dụng vẫn còn phổ biến ở nhiều ngân hàng. Gần như
mỗi nhà băng vẫn có một nhóm khách hàng thân quen riêng và địa bàn riêng, ngại sự
thay đổi và chưa mạnh dạn ""mạo hiểm"" với thị trường .
Thứ tư, mức độ bất cân xứng thông tin là vô cùng trầm trọng: mặc dù Trung tâm thông
tin tín dụng (CIC – Credit Information Centre) được thành lập khá lâu (năm 1998) nhưng
hoạt động còn rất khiêm tốn, điều này làm cho các ngân hàng thương mại duy trì sự thiếu
hụt thông tin trong nhiều năm qua, những người đi vay không phải lúc nào cũng cung cấp
đầy đủ và trung thực các thông tin cần thiết, bên cạnh đó khả năng tự thu thập thông tin
của các ngân hàng còn nhiều hạn chế.
Thứ năm, trình độ phân tích tín dụng của các cán bộ ngân hàng còn hạn chế. Một số ngân
hàng chưa có bộ phận phân tích tín dụng chuyên trách, do đó công việc này được thực
hiện bởi các cán bộ tín dụng, một số ngân hàng chưa có sự phân tích rõ ràng chức năng
giữa bộ phận giao dịch với khách hàng với bộ phận thẩm định lại theo dõi khách hàng,
đôi khi cán bộ tín dụng làm nhiệm vụ tiếp xúc với khách hàng cũng làm cả việc theo dõi
sau cho vay và phân tích tình hình tài chính của khách hàng sau cho vay,điều này làm
mất tính khách quan, có thể dẫn tới móc ngoặc gây rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, các kỹ
năng mềm: kỹ năng giao tiếp, chăm sóc khách hàng,…của cán bộ còn thiếu và yếu.
Thứ sáu, Hệ thống IT tại một số ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu trong việc xử lí
thông tin; Hệ thống hạn mức tín dụng chưa được thiết lập đầy đủ,đôi khi chưa được thiết
lập trên cơ sở đánh giá tình hình tài chính của khách hàng; Một số ngân hàng chưa có quy
trình đánh giá tình hình tài chính của khách hàng vay một cách có hệ thống để xếp hạng
khách hàng; Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quy trình tín dụng chưa đầy đủ,chưa hiệu
quả và chưa tuân thủ một cách nghiêm túc; Việc tổ chức hạch toán, phân loại nợ, thống
kê thông tin tín dụng chưa đảm bảo tính chính xác, minh bạch để làm cơ sở cho việc quản
lý tín dụng có hiệu quả; Tổ chức tín dụng có thể giảm rủi ro tín dụng bằng nhận cầm
cố,thế chấp khi cho vay, tuy nhiên việc xác định giá trị của các tài sản thế chấp,cầm cố
không phải là vấn đề đơn giản;…
Thứ bảy, Việc xử lí chỉ đạo công việc đôi khi còn bỏ qua yêu cầu mọi vấn đề phải được
thể hiện bằng văn bản,cấp trên có thể ra lệnh cho cấp dưới bằng miệng hay bằng những kí
hiệu riêng mà không được phép; Việc cho vay đôi khi còn chịu mệnh lệnh hành chính.

Thứ tám, phân tích tín dụng không đạt đến mức ta có thể dự đoán hoàn toàn chính xác về
một khoản vay có được hoàn trả như đã thỏa thuận hay không bởi tác động của nhiều yếu
tố như: môi trường kinh tế có ảnh hưởng lớn đến sức mạnh tài chính của người vay và
thiệt hại hoặc thành công đối với người cho vay. Trong những giai đoạn hưng thịnh,
người vay hoạt động tốt do lợi tức tương đối cao, nhưng trong giai đoạn khủng hoảng,
khả năng hoàn trả bị giảm sút và điều này có thể dẫn đến việc người vay mất khả năng trả
nợ,…
2.2 Một số giải pháp:
Một là : Hoàn thiện kỹ thuật thẩm định các nhu cầu tín dụng. Mục đích để giải quyết các
nhu cầu cơ bản của tín dụng là có nên cho vay hay không và cho vay như thế nào .
- Uy tín của khách hàng phải được đề cập trong các thẩm định và cụ thể hơn phải có nội
dung trong tờ trình của cán bộ tín dụng với các tiêu thức cụ thể là năng lực quản lí, trình
độ học vấn , quan hệ xã hội , thẩm định qua các hồ sơ quá khứ của khách hàng, thẩm định
qua phỏng vấn trực tiếp với mục đích tìm hiểu bản chất khách hàng vay, sự liêm chính
thái độ sẵn sàng trả nợ, thẩm định danh tiếng và tai tiếng, uy tín của khách hàng qua các
luồng thông tin và sự giới thiệu của khách hàng khác về khách hàng vay vốn
- Hoàn thiện thẩm định nguồn trả nợ của khách hàng :
Hai là : Không ngừng nâng cao kiến thức cho đội ngũ thẩm định dự án.
Ba là : Phải không ngừng cải tiến các thiết bị thông tin cho ngân hàng.Nâng cấp sớm một
số chương trình phần mềm phục vụ kiểm tra thông tin đầu vào so sánh,đối chiếu xử lí
thông tin, chương trình tự động trả lời thông tin, chương trình phân tích và xếp loại tín
dụng doanh nghiệp,theo dõi báo cáo thông tin của các tổ chức tín dụng
Câu 10.
Việc cấp tín dụng tại các tổ chức tín dụng được dựa trên cơ sở sự tin cậy
( uy tín). Khi cho vay, các tổ chức tín dụng luôn kỳ vọng khách hàng sẽ lựa
chọn phương án đầu tư tốt và thực hiện tốt và thực hiện tốt phương án đó để
có đủ nguồn vốn hoàn trả gốc và lãi vay. Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản
như vậy mà do thông tin bất cân xứng đã tạo ra lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ
lại. Để giải quyết những hành vi thông tin bất cân xứng gây ra, người ta thực
hiên nhiều cơ chế có tính khả thi cao.Trong đó có một cách được áp dụng rất

nhiều đó là quy định tài sản đảm bảo đối với một khoản vay.
Trong nhiều năm qua, các tổ chức tín dụng Việt Nam đã từng bước hoàn
thiện các cơ chế về quản lý tài sản bảo đảm tiền vay.Như đã nói,việc cho vay
có tài sản đảm bảo nhằm giúp cho các tổ chức TCTD có nguồn thu nợ thứ hai
khi nguồn thu từ nguồn thu nhập thứ nhất do chính khoản vay tạo ra không có
khả năng chi trả.Tuy nhiên, việc định giá sao cho đúng, phù hợp với giá thị
trường và không ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các TCTD với khách hàng
là một vấn đề rất cần được quan tõm.Bởi lẽ, nếu định giá thấp sẽ ảnh hưởng
đến quy mô vay của khách hàng, họ sẽ chỉ được vay với số vốn ít hơn số mà
họ cần.Khi đó khách hàng sẽ không hài lòng, họ có xu hướng không vay vốn
ở TCTD nữa mà sẽ tìm đến các TCTD khác nơi họ có thể vay được nhiều
hơn.Ngược lại, nếu định giá quá cao, TCTD sẽ gặp rủi ro lớn trong việc thu
hồi nợ và lãi vay và sẽ gặp phải nhiều tổn thất hơn trong thực tế.Vậy phải định
giá như thế nào để tài sản đảm bảo đem lại hiệu quả cao nhất cho cả TCTD lẫn
khách hàng
Định giá tài sản là sự ước tính về giá trị thị trường của tài sản đó tại một thời điểm nhất
định phục vụ cho một mục đích nhất định.
Dựa vào lý thuyết ngân hàng hiện đại về thẩm định cho vay theo nguyên tắc 6C, điều
kiện cấp tín dụng có tài sản bảo đảm (TSBĐ) thành 2 nhóm:
- Nhóm điều kiện cần là khách hàng cũng như phương án vay đã được Ngân hàng cho
vay (NHCV) thẩm định và đánh giá là đáp ứng được các điều kiện về: tính cách người
vay (Character); năng lực tài chính, khả năng trả nợ (Capacity); dòng tiền (Cash Flow);
điều kiện môi trường (Conditions).
- Nhóm điều kiện đủ gồm tài sản thế chấp món vay (Collateral) và sự kiểm soát
(Control).
Khi thẩm định xem xét cho vay, về nguyên tắc, các NHCV đều phải thẩm định, đánh giá
đầy đủ các yếu tố chủ quan, nội tại của khách hàng như: năng lực pháp luật, năng lực
hành vi, phương án sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, hiệu quả sinh lời, các hệ số
đòn bẩy, tài chính, đánh giá tính ổn định cũng như dự lường các rủi ro từ thị trường đầu
vào - ra của phương án vay, thẩm định và kiểm soát được dòng tiền, thẩm định tính hiện

thực của nguồn trả nợ, dòng tiền thu hồi để trả nợ… Khi xác định và yên tâm rằng khách
hàng vay đáp ứng đủ các điều kiện cần trên thì đã có thể xem xét cấp tín dụng. Còn biện
pháp kiểm soát, TSBĐ là điều kiện bổ sung.
Lý thuyết là vậy, còn về đạo lý thì bất kỳ NHCV nào cũng muốn thẩm định kỹ khách
hàng vay và mong muốn khách hàng vay làm ăn có lãi để trả nợ vay cả gốc lẫn lãi chứ
không trông mong vào việc xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ. Nếu NHCV chỉ quan tâm
đến TSBĐ mà coi nhẹ việc thẩm định các điều kiện cấp tín dụng thì chẳng khác nào biến
Ngân hàng thành “tiệm cầm đồ”.
Tuy nhiên trong tình hình kinh tế nước ta hiện nay, môi trường pháp lý về chế độ kế toán,
kiểm toán tài chính đang trong quá trình hoàn thiện, vì thế tính minh bạch, trung thực của
báo cáo tài chính, các thông tin của khách hàng cung cấp nhiều khi chưa đủ tin cậy theo
đúng qui chế cho vay. Do vậy các điều kiện cần như thẩm định năng lực tài chính, năng
lực trả nợ, việc kiểm soát dòng tiền, … đối với nhiều khách hàng vay hiện nay là các
doanh nghiệp dân doanh (Công ty cổ phần, Công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, hộ
kinh doanh cá thể,…) rất khó xác định đúng nhu cầu để thuyết phục khách hàng chấp
nhận. Thực tế đã có trường hợp khách hàng có lịch sử tín dụng tốt, Ngân hàng tiếp cận
cho vay, thẩm định số liệu báo cáo tài chính, xác định mức cho vay vốn theo nhu cầu
thực tế thấp hơn so với mức cho vay tối đa tính trên giá trị nghĩa vụ được bảo đảm của tài
sản thế chấp thì khách hàng bỏ đi vay ngân hàng khác. Đó là một thách thức giữa việc
tuân thủ quy chế nghiệp vụ và yêu cầu phát triển thị phần tín dụng mà nguyên nhân là do
môi trường pháp lý về kế toán, kiểm toán chưa hoàn thiện, sự cạnh tranh gay gắt của các
ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc tìm kiếm khách hàng tốt.
Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay khi các căn cứ thẩm định món vay như đã nói trên chưa
thật sự yên tâm đối với NHCV thì thiết nghĩ điều kiện tài sản thế chấp lại chuyển sang
nhóm điều kiện cần để bảo đảm an toàn. Việc đánh giá TSBĐ cho món vay (bao gồm
việc thẩm định điều kiện tài sản thế chấp, năng lực pháp lý của người thế chấp tài sản,
định giá tài sản, tính thanh khoản của tài sản,…) là cần thiết trong tình hình hiện nay. Đặc
biệt từ đầu năm 2012 sau khi Ngân hàng Nhà nước phân loại 4 nhóm Ngân hàng với các
tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tương ứng là 17%, 15%, 8%, 0% thì đương nhiên sẽ dần dần có
sự dịch chuyển khách hàng từ các NHTM nhóm 3, 4 về các NHTM nhóm 1, 2. Và như

vậy, hơn lúc nào hết NHCV càng phải đề cao vai trò của TSBĐ từ việc tuân thủ tỷ lệ xác
định cho vay tối đa do Trụ sở chính (TSC) qui định, chẳng hạn như: thẩm định vị trí, tính
thanh khoản của quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất, hạn chế hoặc từ chối
TSBĐ là hàng hóa, máy móc thiết bị khó quản lý, thanh khoản thấp,
Cũng đang có ý kiến phản biện rằng nếu siết chặt điều kiện TSBĐ thì làm sao phát triển
được dư nợ? Quan điểm chúng tôi cho rằng, với tình hình hiện nay để bảo đảm an toàn
tín dụng, giải pháp siết chặt điều kiện TSBĐ là lựa chọn phù hợp nhất vì: (i) Tình hình thị
trường bất động sản đang chìm lắng, giá bất động sản có xu hướng giảm thấp, tính thanh
khoản kém; (ii) Sử dụng điều kiện TSBĐ siết chặt như một “hàng rào” sàng lọc khách
hàng xấu từ các NHTM khác, nhất là từ các ngân hàng nhóm 3, 4 chuyển sang; (iii) Với
những trường hợp đặc thù, xét thấy bảo đảm, Chi nhánh hoàn toàn có thể trình TSC phê
duyệt riêng.
Trước thực trạng bức tranh kinh tế hiện nay, các chủ trương lớn của Chính phủ về tái cơ
cấu ngành, doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu NHTM, chính sách tài chính tiền tệ thận
trọng… sẽ tác động đến hoạt động tín dụng của các NHTM. Dẫu trong tình huống nào thì
các biện pháp an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng vẫn là tiêu chí quan trọng để tăng
năng lực tài chính của NHTM. Với nhận thức đó, biện pháp TSBĐ trong cho vay hiện
nay cần được coi trọng và đánh giá đúng mức để phòng ngừa rủi ro tín dụng./.
Nói thêm các phương pháp định giá tài sản.
Câu 11.
Nguyên nhân các NHTM phải xử lý TSĐB của khách hàng
Trên thực tế, các NHTM không bao giờ muốn xử lý TSĐB của khách hàng, bởi vì khi
xử lý TSĐB có nghĩa là món vay đó không có hiệu quả. Tuy nhiên hoạt động cho vay của
các ngân hảng không phải lúc nào cũng được tiến hành một cách thuận lợi mà có những
trường hợp các NHTM bắt buộc phải xử lý TSĐB của khách hàng, vấn đề này xuất phát
từ các nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, trong quá trình thẩm định trừ một số ít khách hàng có hoạt động kinh doanh
không hiệu quả bắt nguồn từ các nguyên nhân như: kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi,
khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng của Nhà nước thì hầu hết
các khoản nợ xấu bắt nguồn từ khâu thẩm định hời hợt, quá trình kiểm soát mục đích sử

dụng vốn vay không chặt chẽ và công tác kiểm tra sau cho vay không được thực hiện đầy
đủ của cán bộ tín dụng dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng
ngay từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn
sau khi vay cho biết một phần vốn vay thực sự vào kinh doanh, phần khác dùng cho mục
đích khác như: sửa nhà, mua sắm vật dụng, thậm chí là tiêu xài cá nhân Đến khi phần
vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn khác để trả nợ ngân hàng, buộc NHTM
phải phát mãi tài sản của khách hàng.
Thứ hai, là nguồn cung cấp thông tin, ngoài những thông tin do khách hàng cung cấp,
cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về khách hàng. Rất khó
kiểm chứng được toàn bộ những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Tâm
lý một số cán bộ muốn đẩy phần rủi ro cho ngân hàng khác bằng cách chỉ cung cấp thông
tin tốt về khách hàng đó khi ngân hàng bạn hỏi thăm. Ngân hàng vẫn chưa có sự liên
thông với các cơ quan khác như Thuế, Hải quan, để kiểm chứng những thông tin tài
chính do khách hàng cung cấp. (2)
- Quy trình chung về xử lý TSĐB tại các ngân hàng thương mại
Nghị định 163/2006/NĐ - Chính phủ ban hành ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm và
Nghị định số 11/2012/NĐ - Chính phủ ban hành 22/2/2012 về sửa đổi, bổ sung một số
điều Nghị định 163, đã quy định tương đối đầy đủ những điều khoản nhằm bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý TSĐB, đặc biệt là trong các tranh chấp dân sự giữa ngân
hàng và người đi vay.
Thực tế về xử lý TSĐB ở các NHTM hiện nay cho thấy, có hai dạng thường gặp, đó là:
TSĐB là động sản và TSĐB là bất động sản.
Với TSĐB là động sản mà không phải đăng ký quyền sở hữu (máy móc, dây chuyền sản
xuất ) thì theo hai Nghị định trên, chỉ cần căn cứ vào những thỏa thuận trong hợp đồng
tín dụng mà ngân hàng và người vay đã ký kết, ngân hàng được phép bán qua đấu giá, thu
hồi vốn; nếu còn thừa tiền thì chuyển thẳng vào tài khoản cho khách hàng là xong.
Với TSĐB là bất động sản (đất, tài sản trên đất ) thì do các tài sản này đòi hỏi phải đăng
ký quyền sở hữu và liên quan đến phạm vi điều chỉnh nhiều bộ luật khác. Giả định, khách
hàng không chịu ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ngân hàng thì không bao
giờ ngân hàng bán được để thu hồi nợ.

Ngân hàng có thể mang ra tòa nhưng khác với tòa hình sự, hầu hết tội danh đều được quy
định khung hình phạt rất rõ trong luật nên dù chưa xử, ở một chừng mực nào đó, vẫn có
thể hình dung được bản án ở mức nào. Nhưng với tòa dân sự thì không như vậy, có khi
một vụ việc nhưng phán quyết ở hai tòa rất khác nhau, thậm chí đối lập(3)
- Những tồn tại trong quy trình xử lý TSĐB
Trong quá trình xử lý TSĐB nợ vay không ít các NHTM gặp nhiều khó khăn mà nguyên
nhân chủ yếu xuất phát từ các vấn đề như sau:
Thứ nhất, sự phối hợp của khách hàng khi thực hiện bàn giao tài sản trên thực tế và thực
hiện thủ tục pháp lý theo quy định của pháp luật hiện hành để xử lý TSĐB. Vấn đề này
thực sự rắc rối nếu quá trình thẩm định của cán bộ tín dụng không tiến hành một cách kỹ
lưỡng dẫn đến các vấn đề phát sinh khi xử lý tài sản, chẳng hạn như khi thẩm định tài
sản, cán bộ tín dụng ngân hàng không điều tra xem cá nhân nào đang sinh sống tại nơi có
tài sản thế chấp, mối quan hệ với bên vay vốn như thế nào. Có nhiều trường hợp tài sản
được bên vay vốn thế chấp tuy nhiên bên vay vẫn còn nghĩa vụ nợ đối với cá nhân đang
sinh sống tại tài sản thế chấp, đến khi xảy ra quá hạn xử lý tài sản thì mới phát hiện ra…,
đây chỉ là một trường hợp điển hình trong rất nhiều trường hơp dẫn đến việc tranh chấp
khiến cho Ngân hàng không xử lý được TSĐB.
Thứ hai, việc áp dụng quy định pháp luật điều chỉnh và sự phối hợp của các cơ quan, tổ
chức có liên quan: phòng công chứng, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, UBND địa
phương. Hiện tại trên địa bàn thành phố, tại một số phòng công chứng tư vì cạnh tranh và
phục vụ khách hàng đang có sự linh động một số trường hợp hồ sơ đi công chứng thiếu
một số chứng từ pháp lý dẫn đến hồ sơ chưa hoàn thiện, cán bộ tín dụng cam kết bổ sung
tuy nhiên thời gian kéo dài dẫn đến rủi ro pháp lý đối với hồ sơ thế chấp TSĐB.
Thứ ba, khi xử lý TSĐB là bất động sản theo phương thức bên nhận bảo đảm nhận chính
tài sản hoặc bên bảo đảm bán tài sản thông qua bán đấu giá hay không thông qua bán đấu
giá thì khi thực hiện thủ tục công chứng hợp đồng mua bán/chuyển nhượng một số phòng
công chứng yêu cầu phải có thông báo giải chấp của bên nhận bảo đảm. Một số phòng
công chứng yêu cầu phải thực hiện thủ tục xóa đăng ký giao dịch bảo đảm tại văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất (4)
Thứ tư, trong thực tế việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của các NHTM cũng gặp

nhiều vướng mắc. Về xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận giữa TCTD và bên bảo đảm,
Nghị định 163/2006/NĐ-CP đã quy định nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm thực hiện theo
thỏa thuận của các bên, nếu không có thỏa thuận thì tài sản được bán đấu giá. Tuy nhiên,
trong thực tế, việc TCTD tự xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận gặp nhiều khó khăn do
các trình tự, thủ tục xử lý còn phụ thuộc vào thái độ hợp tác của bên bảo đảm, bên giữ tài
sản, TCTD chưa được toàn quyền xử lý tài sản bảo đảm trong khuôn khổ pháp luật và
việc xử lý tài sản đảm bảo vẫn gặp nhiều khó khăn do không chỉ do ý thức chây ỳ của con
nợ mà còn ở cả lỗi từ ngân hàng.
Điển hình chỉ trong vòng một tháng, ngân hàng NVB đã ký 5 khế ước vay đối với một
khách hàng (chưa từng quan hệ tín dụng với ngân hàng) với tổng giá trị gần 5 tỷ đồng,
TSĐB là các sổ đỏ mang tên khách hàng này. Sau khi người này bỏ trốn, ngân hàng mới
nhờ cơ quan Công an can thiệp. Trong quá trình xác minh, cơ quan công an phát hiện
khách hàng trên đã cho các hộ dân vay một số tiền rất nhỏ so với giá trị ngôi nhà, sau đó,
lừa các hộ dân làm giấy chuyển nhượng giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất cho
mình để mang thế chấp vay ngân hàng gần 5 tỷ đồng rồi bỏ trốn. (5)
Câu 12: Tìm hiểu rủi ro trong cung ứng dịch vụ thanh toán
Trong thời gian vừa qua, rủi ro trong tín dụng dưới hình thức chiết
khấu truy đòi, miễn truy đòi xảy ra khi có những doanh nghiệp sau khi nhận hàng
chiết khấu chứng từ, do tình hình làm ăn kém hiệu quảnên không thực hiện ñược
nghĩa vụtài chính ñối với ngân hàng, hiện tượng nợnần dây dưa thanh toán cho ngân
hàng là tương ñối phổbiến hoặc do khách hàng tìm mọi lý do khác ñểchậm thanh
toán cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng cũng xảy ra khi ngân hàng nước ngoài chậm
thanh toán ảnh hưởng ñến vốn khảdụng của ngân hàng, làm căng thẳng thêm cung-
cầu ngoại tệcủa ngân hàng. ðó cũng là lý do phát sinh rủi ro trong thanh khoản ñối
với NHTM
Một sốdoanh nghiệp không chịu thanh toán khi các chứng từhợp lệ ñã về. Họ
thường vịn vào lí do hàng chưa vềhoặc hàng có vấn ñềchờthương lượng ñểcốtình
trì hoãn thời hạn thanh toán. Các ngân hàng nước ngoài có thểphạt SGD NHNo do
thanh toán chậm, ảnh hưởng tới uy tín của SGD. Việc cho vay ký quỹcũng như ñể
thanh toán hàng nhập khẩu gây thiệt hại không nhỏcho SGD khi một số ñơn vịnhập

khẩu làm ăn thua lỗ, mất khảnăng thanh toán.
- Thiệt hại trong việc bảo lãnh L/C nhập hàng trảchậm. ðây chính là một hình thức
tín dụng mà ngân hàng cấp cho người nhập khẩu. Bằng uy tín của mình, SGD NHNo
ñứng ra bảo lãnh các hối phiếu kỳhạn. Tuy nhiên, một sốdoanh nghiệp biến nó thành
nguồn vốn tín dụng dài hạn, lợi dụng tiền bán hàng trảchậm quay vòng, sửdụng vốn
sai mục ñích…, dẫn ñến mất khảnăng thanh toán cho người xuất khẩu khi ñến hạn.
Trong vài năm trởlại ñây, rủi ro này có xu hướng gia tăng, SGD NHNo chịu khá
nhiều thiệt hại trong việc bảo lãnh L/C nhập hàng trảchậm, nếu ngân hàng phải ñứng
ra trảnợthay cho các doanh nghiệp ñó thì khảnăng không thu hồi ñược nợlà rất cao.
- Trường hợp SGD nhận thưbảo lãnh nhận hàng: ðôi khi hàng về ñến cảng rồi mà bộ
chứng từvẫn chưa vềtới ngân hàng. ðơn vịnhập khẩu có yêu cầu giải phóng hàng
càng nhanh càng tốt ñểtránh phí tổn lưu kho bãi và các chi phí phát sinh. ðiều kiện ñể
SGD thực hiện nghiệp vụphát hành thưbảo lãnh- thưuỷquyền nhận hàng, ký hậu
vận ñơn gốc là khách hàng phải có cam kết chập nhận thanh toán và ký quỹ100% trị
giá hoá ñơn, hoặc uỷquyền cho chi nhánh của NHNo khoanh sốtiền tương ứng trên
tài khoản tiền gửi của họhoặc ghi nợtài khoản tiền vay khi thanh toán. Ngoài ra,
khách hàng phải có thưyêu cầu phát hành bảo lãnh kèm 01 bản sao hoá ñơn do người
xuất khẩu gửi trực tiếp. Trên thực tếxảy ra không ít rủi ro cho SGD khi khách hàng ñã
nhận hàng và khi bộchứng từvềrồi mà họkhông chịu thanh toán. Lúc ñó SGD phải
tiến hành cho vay bắt buộc và sẽchịu rủi ro khi nhà nhập khẩu phá sản, mất khảnăng
thanh toán.
Câu 13
Từ tháng 5/2013 tới nay Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã liên tục chỉ đạo 8 lần giảm lãi
suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với 5 lĩnh vực ưu tiên,
từ mức lãi suất 15% năm xuống đến nay còn tối đa là 8%/năm.
Nói là giảm song thực tế các ngân hàng chỉ giảm 0,5% lãi suất cho vay các kỳ ngắn hạn
6 tháng trở lại. Còn lại hầu hết lãi suất cho vay vẫn giữ nguyên. Chính vì nguyên nhân
này khiến doanh nghiệp không hào hứng vay vốn trong đợt hạ lãi suất này.
Trước hết là khó khăn từ bản thân nền kinh tế, thị trường và từ cơ chế chính sách: “Sự
suy giảm, biến động của nền kinh tế thế giới, thị trường bất động snar, thị trường chứng

khoán đóng băng, hàng hóa tồn kho ứ đọng không tiêu thụ được, lợi nhuận giảm.”, bà
Giang nói.
Tại nhiều địa phương, tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi, có đóng góp cho ngân sách
địa phương chiếm chưa đầy 50% trong tổng số doanh nghiệp còn hoạt động.
“Thủ tục hành chính còn nhiều bất cập, chưa thông thoáng; hệ thống tòa án hiện nay đang
quá tải, dẫn đến các vụ kiện tụng tranh chấp kéo dài, làm ảnh hưởng tới xử lý nợ xấu và
thu hồi vốn của ngân hàng”, bà Giang phân tích.
chính sách kích thích tăng trưởng tín dụng đưa ra đang vấp nhiều khó khăn.
hiện đang tồn tại tình trạng ngân hàng dư vốn mà không thể cho vay, còn doanh nghiệp
đói vốn mà không thể vay. Vẫn có những ách tắc ở đâu đó trong mối quan hệ này. Và
chừng nào dòng chảy vốn từ ngân hàng đến doanh nghiệp chưa thông suốt, thì nền kinh
tế chưa hết khó khăn, thách thức.

×